Khái niệm di sản văn hóa vật thể năm 2024

Nhận thức được tầm qua trọng của việt gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc, những tài nguyên di sản văn hóa, phát triển du lịch địa phương và phổ cập kiến thức về di sản văn hóa cho thế hệ trẻ, tác giả chọn thực hiện nghiên cứu đề tài: “Những di sản văn hoá vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới”.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:...........................................................

 Mục đích khoa học: o Nghiên cứu, hệ thống hóa và đánh giá giá trị của những di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới. o Làm rõ những giá trị nổi bật toàn cầu của các di sản này, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. o Thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của Việt Nam.  Mục đích thực tiễn: o Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới. o Tạo cơ sở khoa học cho việc quản lý, bảo tồn và phát huy các di sản này. o Góp phần phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương có di sản văn hóa thế giới. Cụ thể, nghiên cứu đề tài này sẽ tập trung vào các nội dung sau:

  • Tổng quan về di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới.
  • Phân tích, đánh giá giá trị của các di sản này.
  • Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản này. Nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của Việt Nam. Nghiên cứu sẽ cung cấp những thông tin khoa học về các di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới, từ đó đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản này một cách hiệu quả.

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:......................................................................

Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ là 5 di sản văn hóa vật thể Việt Nam được UNESCO công nhận.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:................................................................

Nghiên cứu tổng hợp kiến thức lý thuyết về giá trị di sản văn hóa; thu thập dữ liệu qua các nguồn tài liệu, giáo trình, sách, báo, thông tin trên internet...; phân tích, so sánh đi thực tế nhằm thu thập thông tin, dữ liệu, hình ảnh...ề giá trị di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới.

5. DỰ KIẾN NHỮNG KẾ QUẢ SAU KHI NGHIÊN CỨU:...........................

 Hệ thống hóa và đánh giá giá trị của những di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới.  Nghiên cứu sẽ cung cấp những thông tin khoa học về các di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới, bao gồm: * Lịch sử hình thành và phát triển của các di sản này. * Đặc điểm kiến trúc, nghệ thuật, văn hóa của các di sản này. * Giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật của các di sản này.  Những thông tin này sẽ góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.  Làm rõ những giá trị nổi bật toàn cầu của các di sản này, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.  Thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của Việt Nam.

PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ GIÁ TRỊ CỦA
DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ

Theo UNESCO, di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể (Intangible) và di sản văn hóa vật thể (Tangible). Tuy nhiên, sự phân loại giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể này chỉ mang tính tương đối. Bởi di sản vật thể và di sản phi vật thể luôn gắn kết với nhau và trở thành những thực thể sống. Ví dụ: đồ gốm là văn hóa vật thể, nhưng chứa đựng nhữngvăn hóa phi vật thể như: kỹ năng chế tác, cách nung, ... 2. KHÁI NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ “Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.” (Bộ văn hóa, thể thao và du lịch, Di sản văn hóa Việt Nam được hiểu là gì và bao gồm những loại di sản nào?, bvhttdl.gov). Có thể hiểu rằng, văn hóa vật thể là một bộ phận văn hóa nhân loại, thể hiện đời sống tinh thần của con người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt động sáng tạo, đến hình dáng vật chất, khiến những vật thể và chất liệu tự nhiên, đến hình dáng vật chất, kiến những sản phẩm vật chất giúp cho của con người. Trong di sản văn hóa vật thể theo khả năng thõa mãn như cầu tinh thần của con người về như cầu vật chất như nhà ở, quần áo, đồ dùng, món ăn, vì thế người ta thường sử dụng nhiều kiểu phương tiện: tài nguyên năng lượng dụng cụ lao đông, công nghệ sản xuất, cơ sở hạ tầng sinh sống của con người, phương tiện giao thông đi lại, phương tiện truyền thông, công trình kiến trúc, các phương tiện tiêu khiển, tiêu dùng, mối quan hệ kinh tế... Tóm lại, mọi loại giá trị vật chất đề là kết quả lao động của con người. Tính đến tháng 11 năm 2023, Việt Nam có tổng cộng 5 di sản văn hóa vật thể dược UNESCO công nhận bao gồm:

  • Quần thể Di tích Cố đô Huế (1993): Đây cũng là di sản văn hóa đầu tiên của Việt Nam được UNESCO ghi danh vào danh mục Di sản văn hóa thế giới vào ngày 11/12/1993.
  • Khu di tích Mỹ Sơn (1999): Thánh địa Mỹ Sơn (thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), là một quần thể kiến trúc nổi tiếng nhất của người Chăm ở Việt Nam.
  • Phố cổ Hội An (1999): thuộc tỉnh Quảng Nam, là một kiểu cảng thị truyền thống Đông Nam Á, hiếm có trên thế giới. Là nơi giao thương buôn bán hưng thịnh và sầm uất kéo dài từ thế kỉ 17 và 18.
  • Hoành thành Thăng Long (2010): là quần thể di tích gắn liền với kinh đô Thăng Long - Hà Nội. Công trình kiến trúc đồ sộ này được các triều

đại xây dựng qua nhiều giai đoạn lịch sử và đã trở thành di tích quan trọng nhất trong hệ thống di tích Việt Nam.

  • Thành Nhà Hồ (2011): tồn tại vững trải hơn 600 năm với kiến trúc độc đáo bằng đá. Với những giá trị nổi bâ ̣t toàn cầu về văn hóa, kiến trúc và lịch sử, ngày 27/6/2011, Thành Nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.

2. KHÁI NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ........................................

Di sản văn hóa vật thể bao gồm các loại hình như khác nhau sau:  Di tích lịch sử - văn hóa: bao gồm các công trình kiến trúc, nghệ thuật, khảo cổ, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện sự sáng tạo của con người trong quá trình phát triển.  Danh lam thắng cảnh: bao gồm các cảnh quan thiên nhiên có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và sự sáng tạo của con người.  Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia: bao gồm các hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện sự phát triển của văn hóa vật chất của con người.

CON NGƯỜI....................................................................................................... 4. VAI TRÒ CỦA DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG

CON NGƯỜI

Di sản văn hóa vật thể có vai trò quan trọng đối với đời sống con người, đó là:  Là minh chứng cho quá trình phát triển của lịch sử, văn hóa của dân tộc.  Là tài sản quý giá của cộng đồng, là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.  Là cầu nối giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc. Di sản văn hóa vật thể được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới cần đáp ứng các tiêu chí sau: - Tiêu chí (I) - là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người. - Tiêu chí (II) - Thể hiện một sự giao lưu quan trọng giữa các giá trị của nhân loại, trong một khoảng thời gian hoặc trong phạm vi một vùng văn hoá của thế giới, về các bước phát triển trong kiến trúc hoặc công nghệ, nghệ thuật tạo hình, quy hoạch đô thị hoặc thiết kế cảnh quan. - Tiêu chí (III) - Là một bằng chứng độc đáo hoặc duy nhất hoặc ít ra cũng là một bằng chứng đặc biệt về một truyền thống văn hoá hay một nền văn minh đang tồn tại hoặc đã biến mất. - Tiêu chí (IV) - Là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc xây dựng hoặc một quần thể kiến trúc cảnh quan minh hoạ cho một hay nhiều giai đoạn có ý nghĩa trong lịch sử nhân loại.

hóa truyền thống của Việt Nam. Việc UNESCO công nhận Phố cổ Hội An là di sản văn hóa thế giới đã thu hút sự quan tâm của du khách quốc tế, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới. CHƯƠNG II: NHỮNG DI SẢN VĂN HOÁ VẬT THỂ CỦA VIỆT NAM ĐƯỢC UNESCO CÔNG NHẬN LÀ DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI

1. QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ...........................................................

Trong kỳ họp thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới tổ chức tại Colombia từ ngày 6 đến ngày 11 tháng 12 năm 1993, quần thể kiến trúc Huế đã vinh dự được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới thứ 410 trong Danh sách Di sản Thế giới vì nó đáp ứng tiêu chí số 4: “Là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc xây dựng hoặc một quần thể kiến trúc cảnh quan minh hoạ cho một hay nhiều giai đoạn có ý nghĩa trong lịch sử nhân loại.” Đây thực sự là niềm vinh dự lớn đối với Việt Nam khi lần đầu tiên một di sản được UNESCO công nhận là di sản thế giới, điều này đã khẳng định tầm vóc và giá trị toàn cầu của quần thể di tích Cố đô Huế. Trong Biên bản họp lần thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới có ghi rõ: “Quần thể di tích Huế là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX. Nó kết hợp triết lí Đông phương và truyền thống Việt Nam xưa, hòa quyện vào môi trường thiên nhiên, vẻ đẹp với sự phong phú đặc biệt của kiến trúc và trang trí ở các tòa nhà là một phản ánh độc đáo của đế chế Việt Nam ngày xưa vào thời cực thịnh của nó”. (UNESCO Press, 1993, 2) Hình 1: Quần thể di tích cố đô Huế Nguồn: TTXVN a) Vị trí địa lí, diện tích: Khu di tích cố đô Huế thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, thị xã Hương Trà, thị xã Hương Thủy, huyện Phú Lộc, huyện Phú Vang, nằm dọc hai bên bờ sông Hương và một vài vùng phụ lân cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Với tổng diện tích hơn 500 ha, có 10 cửa thông ra bên ngoài, bao gồm gần 30 cụm công trình có quy mô lớn, bao gồm cả thành lũy, cung điện, chùa quán, đàn miếu, lăng tẩm...

  1. Lịch sử hình thành và phát triển: Trong khoảng gần 400 năm (1558 - 1945), cố đô Huế đã từng là thủ phủ của 09 đời chúa Nguyễn từ thế kỷ XVI -XVIII ở Đàng Trong, trở thành kinh đô của triều đại Tây Sơn và kinh đô của quốc gia thống nhất dưới sự trị vì 13 triều vua Nguyễn (1802 - 1945). Kinh thành Huế được xây dựng trong thời gian dài từ năm 1803 đến năm 1832, từ thời vua Gia Long đến vua Minh Mạng. Các di tích nằm trong và ngoài Hoàng thành được xây dựng dưới thời các vua triều Nguyễn nên có thể nói quần thể di tích ở Huế là công trình lịch sử, tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trong suốt triều đại của mỗi vị vua, lại có thêm nhiều công trình mới được xây dựng để đánh dấu các sự kiện lịch sử, thể hiện quan niệm và thị hiếu, thẩm mỹ của mỗi vị vua. c) Đặc điểm kiến trúc: Theo đánh giá của các vua triều Nguyễn, vị trí địa lý của Huế không chỉ quan trọng về mặt giao thông, phòng thủ mà còn ẩn chứa những ý nghĩa phong thủy đặc biệt theo quan niệm truyền thống của người Á Đông. Vì vậy, họ tin rằng yếu tố tự nhiên có sức ảnh hưởng tới sự thịnh vượng và suy tàn của cả một vương triều. Vì vậy, vào thời nhà Nguyễn, các quần thể kiến trúc quan trọng ở Huế đều được thiết kế gắn liền với các yếu tố cảnh quan phong thủy như ngọn núi, quả đồi hay dòng sông, suối, đặc biệt là hồ nước đều có thể mang tư cách “tiền án”, “hậu chẩm”, “tả thanh long”, “hữu bạch hổ”,... Đại đa số các cung điện đều được sơn son thiếp vàng theo kiểu mái chồng nhà nối. Điều này có nghĩa là nhà trước và nhà sau của điện được kết nối với nhau bằng một hệ thống mái trần hình vòm mai cua dưới máng thừa lưu là máng nước nối của hai mái nhà. Trần mai cua ấy cộng với phần bên trong tạo ra một không gian nội thất có chiều sâu, rộng rãi mà lại thống nhất không mang lại cảm giác ghép nối hai tòa nhà. Còn đồ nội thất của nhà Nguyễn được thiết kế với kiểu dáng rất mềm mại, được chạm khắc vô cùng tinh xảo. Chất liệu được dùng để khảm lên bề mặt của gỗ thường là mảnh sành sứ, ngà voi, xà cừ,... Điều tạo nên điểm nhấn đặc biệt của kiến trúc Cung đình Huế chính là phần mái của các điện đều được lợp bằng ngói hoàng lưu ly và thanh lưu ly. Sự kết hợp giữa hai màu vàng, xanh của ngói lưu ly và màu đỏ chủ đạo tạo cho cung điện xứ Cố đô càng thêm phần nổi bật, uy nghiêm. Hệ thống cổng, cửa ở đây không chỉ đa dạng về kiểu dáng mà còn chất liệu. Cửa xếp bằng gỗ quý trong chung đình được chạm khắc tinh tế, cửa vòm nguyệt môn có đường nét mềm mại cho đến cổng tam quan bề thế...

Được khởi công từ năm 1805 xây dựng ở bờ Bắc sông Hương mặt về hướng Nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc, xung quanh có 10 cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước... Với vai trò bảo vệ cho Khu vực hành chính của nhà Nguyễn và là nơi ở của nhà vua. 2. Đại nội (Hoàng thành, Hoàng cung) Trong trung tâm của Kinh thành là nơi ở và làm việc của các Vua Nguyễn bao gồm các khu vực:  Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim thủy (hào), tường bao bọc và 10 cây cầu.  Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ môn đến điện Thái Hòa, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc Khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần Đại khánh tiết của các Vua triều Nguyễn.  Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng tiên.  Khu vực ăn ở của Hoàng thái hậu và Thái Hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).  Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc. Hình 4 : Kinh Thành Huế Nguồn: VnExpress

 Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: là nơi học tập và chơi đùa của các Hoàng tử khi chưa xuất phủ.  Khu vực Tử Cấm Thành: là chốn cung cấm, dành riêng cho Vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt. Tử Cấm Thành Huế là nơi sinh hoạt của nhà vua cũng như hoàng triều nhà Nguyễn, trong đó có điện Cần Chánh là nơi có không gian lớn để vua thiết triều và tổ chức các bữa yến tiệc, bên cạnh đó là điện Càn Thành là chốn cung ấm cho nhà vua nghỉ ngơi và Thái Bình Lâu là điểm thư giãn, đọc sách. (Cảnh Toàn,Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế, nguyendu.com/) 3. Lăng Gia Long "Hoành tráng Gia Long" 4. Lãng Minh Mạng "Thâm nghiêm Minh Mạng" Lăng vua Minh Mạng Huế có diện tích khoảng 18ha, gồm 40 công trình lớn nhỏ, bố trí đối xứng. Các công trình được phân bố trên 3 trục lớn và song song với nhau, lấy đường Thần Đạo làm trung tâm. Hình thế của lăng Minh Mạng Huế có dáng tựa như một người đang nằm nghỉ ở tư thế đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông trước mặt. Hai nửa hồ Trừng Minh như cánh tay buông xuôi tự nhiên, vô cùng nhàn hạ. 5. Lăng Thiệu Trị "Khoáng đạt Thiệu Trị" 6. Lăng Dực Đức “Giản dị Dức Đức” 7. Lăng Tự Đức "Thơ mộng Tự Đức" 8. Lăng Đồng Khánh "Xinh xăn Đồng Khánh" 9. Lăng Khải Định "Tinh xảo Khải Định" Lăng mộ vua Khải (1885-1925) tọa lạc trên núi Châu Chữ thuộc xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng được đánh giá là lăng mộ có kiến trúc nổi bật nhất, là công trình xây dựng cuối cùng của triều Nguyễn (1802-1945). Vua Khải Định đã chọn vị trí lăng theo phong thuỷ truyền thống. Vị trí lăng nằm trên triền núi Châu Chữ, phía trước có một quả đồi thấp làm tiền án; có núi Chóp Vung và Kim Sơ trước mặt làm "Tả thanh long" và "Hữu bạch hổ" (rồng xanh bên trái, hổ trắng bên phải) 10. Văn Miếu, nơi thờ Khổng Tử và dựng bia khắc tên các Tiến sỹ thời Nguyễn. 11. Đàn Nam Giao, nơi vua tế trời 12. Chùa Thiên Mụ, Biểu trưng Phật giáo của Huế

Hình 5: Hội An nhìn từ trên cao Nguồn: Sưu tầm b) Lịch sử hình thành và phát triển: Vào nửa cuối thế kỷ 16, thời kỳ Việt Nam nằm dưới quyền cai trị của nhà Lê đã được hình thành, kể từ sau năm 1570, Nguyễn Hoàng bắt đầu nắm quyền trấn thủ Quảng Nam. Cùng với con trai là Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Hoàng xây dựng thành trì, ra sức thúc đẩy kinh tế Đàng Trong, đẩy mạnh giao lưu thương mại với nước ngoài và Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực Đông Nam Á thời kỳ bấy giờ. Trong vòng 30 năm, 75 con tàu Châu Ấn đã cập cảng Hội An, cùng với 37 con tàu cập bến Đông Kinh, khu vực mà chúa Trịnh cai trị. Các thương nhân người Nhật khi đó tới bán những đồ đồng, tiền đồng, kim loại, đồ gia dụng... và mua lại đường, tơ lụa, trầm hương... Khoảng năm 1617, phố Nhật Bản ở Hội An được thành lập và phát triển mạnh trong đầu thế kỷ 17. Thương cảng Hội An thịnh đạt vào thể kỷ 17- và suy giảm dần từ thế kỷ 19. Từ rất lâu, những người Hoa đã biết về Hội An, ngày từ khi vùng đất này vẫn thuộc về vương quốc Chăm Pa. Đến thời kỳ người Việt thay người Chăm, những thương nhân Trung Hoa lại tiếp tục tới buôn bán bởi vì các tỉnh miền Nam của Trung Quốc đang thiếu các sản phẩm muối, vàng, quế... Mặc dù thế, xuyên suốt thời kỳ tiền Hội An, người Hoa chủ yếu tới buôn bán rồi quay về, không ở lại sinh sống, thành lập phố xá. Và sau khi chúa Trịnh chiếm đóng lại Quảng Nam, Hội An bị tàn phá hoang tàn chỉ còn sót lại các kiến trúc tín ngưỡng. Hội An được hồi sinh lại 5 năm sau

đó tuy nhiên sự nhộn nhịp của nó không còn tấp nập như trước. Người Hoa và người Việt đã bắt tay xây dựng lại Hội An từ đống đổ nát theo kiến trúc của họ nên vô tình làm dấu tích của khu phố Nhật biến mất vĩnh viễn. Đến thời nhà Nguyễn vì thực thi chính sách đóng cửa, hạn chế thông thương với Trung Quốc nên cảng Đông Kinh dần mất đi vai trò quan trọng. Đến năm 1976 của thế kỷ 20, Đà Nẵng ngày càng phát triển mạnh và Hội An dần chìm vào lãng quên khi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được tái lập. Các học giả Việt Nam và các quốc gia nước ngoài mãi đến năm 1980 mới nhận được sự quan tâm. c) Đặc điểm kiến trúc, văn hóa: Phố cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt cho cảng thị cổ ở Đông Nam Á. Phần lớn những ngôi nhà ở Hội An mang kiến trúc cổ có niên đại vào khoảng thế kỷ 17 -19. Những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng trong lòng phố cổ là bằng chứng về quá trình ra đời, phát triển và tồn tại của cảng thị này. Có nhiều dấu ấn về giao thoa và pha trộn văn hóa tại đây. Những hội quán, đền miếu vẫn mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà của người Việt và một số ngôi nhà phong cách kiến trúc Pháp. Rất nhiều di tích còn nguyên vẹn như bến cảng, phố cổ, nhà thờ tộc, đền miếu và các hội quán của người Hoa, lăng mộ của người Nhật đặc biệt hơn là biểu tượng của Hội An – Chùa Cầu (chùa Nhật Bản). Cho thấy Hội An vẩn còn lưu giữ lại những nét văn hóa, kiến trúc của các nước có quan hệ buôn bán với bến cảng này như Nhật Bản, Trung Quốc, Hà Lan, Bộ Đào Nha, Pháp, Ý. Đường Trần Phú là con đường chính, nơi tập trung đông nhất những công trình kiến trúc cổ, cũng như những căn nhà cổ điển tiêu biểu cho kiến trúc Hội An. Trong số đó, các hội quán được thành lập bởi người Hoa là phổ biến nhất nhằm tưởng nhớ về quê hương của họ. Nếu bắt đầu từ Chùa Cầu, sẽ có năm hội quán trên đường Trần Phú, tất cả đều bên số chẵn: Hội quán Quảng Đông, Hội quán Trung Hoa, Hội quán Quỳnh Phủ và Hội quán Triều Châu, Hội quán Phúc Kiến.

Hình 7: Nhà ngói Nguồn: Sưu tầm

3. KHU DI TÍCH MỸ SƠN.............................................................................

  1. Vị trí địa lý, diện tích Quần thể di tích Mỹ Sơn nằm ở xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Quần thể di tích này cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km về phía Tây Nam, cách thành phố Hội An khoảng 45 km về phía Tây, cách cố đô Huế khoảng 145 km về phía Nam. Nằm trong một thung lũng có đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi trùng điệp. Địa hình nơi đây tương đối bằng phẳng, thấp dần từ phía Nam lên phía Bắc. Quần thể di tích Mỹ Sơn bao gồm hơn 70 ngôi đền tháp Chăm Pa, được xây dựng từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII. Đây là một trong những quần thể đền tháp Chăm Pa lớn và quan trọng nhất ở Việt Nam. “Ngày 29/4/1979 Bộ Văn hóa-Thông tin đã ra Quyết định số 54VH/QĐ công nhận Mỹ Sơn là Di tích kiến trúc nghệ thuật. Năm 1898, một người Pháp tên là M Paris đã phát hiện khu đền tháp Mỹ Sơn nằm kín đáo trong một thung lũng hẹp, giữa những khu rừng rậm rạp. Sau đó không lâu, những nhà khoa học của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp đã đến nghiên cứu các bia ký và công trình kiến trúc, điêu khắc ở Mỹ Sơn.

Cũng chính họ đã vén lên bức màn bí mật về Mỹ Sơn và cho thấy đây là khu di tích tôn giáo kỳ vĩ nhất, đặc trưng nhất của người Chămpa, xây dựng liên tục trong suốt hơn 1000 năm.”( Di sản văn hóa Mỹ Sơn, quangnam.gov) Hình 8: Toàn cảnh Thánh địa Mỹ Sơn Nguồn: @shutterstock b) Lịch sử hình thành và phát triển: Được xây dựng từ thế kỷ IV bởi vị vua Bhadravarman (năm trị vì 349 đến năm 361) và kết thúc vào cuối thế kỷ thứ XIII, đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), Thánh địa Mỹ Sơn là một quần thể với hơn 70 ngôi đền tháp để lại nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu nhất cho từng giai đoạn lịch sử của vương quốc Chămpa. Vào thế kỷ IV, dưới thời vua Bhadravarman I, Mỹ Sơn được xây dựng thành một trung tâm tôn giáo của vương quốc Chăm Pa. Đây là nơi thờ cúng các vị thần Hindu giáo, như: Shiva, Vishnu, Brahma,... Từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII, Mỹ Sơn là một trung tâm tôn giáo quan trọng của vương quốc Chăm Pa. Nhiều ngôi đền tháp được xây dựng ở Mỹ Sơn, phản ánh sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm Pa. Từ thế kỷ XIV trở đi, Mỹ Sơn bắt đầu suy tàn do sự suy yếu của vương quốc Chăm Pa. Tuy nhiên, Mỹ Sơn vẫn giữ được những giá trị lịch sử, văn hóa độc đáo, trở thành một di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận vào năm 1999. Thánh địa Mỹ Sơn có thể được chia thành các giai đoạn phát triển chính như sau: