Mới đây, người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước phát đi thông điệp tương đối “rắn” trong điều hành tiền tệ, trong đó có vấn đề nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Cụ thể, phát biểu tại cuộc làm việc giữa Thủ tướng Chính phủ với các bộ, ngành về ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định, Ngân hàng Nhà nước vẫn điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở tăng trưởng tín dụng cả năm nay là 14%. CÁC NGÂN HÀNG HỤT HẪNGTrước khi Thống đốc phát biểu, đã có nhiều doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và các ngân hàng thương mại đã kiến nghị về việc cần nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng (room) lên 15 - 16% cho năm nay. Họ tin rằng, có 3 lý do để Ngân hàng Nhà nước sẽ đáp ứng kiến nghị này. Thứ nhất, Chính phủ đang thực hiện chương trình phục hồi kinh tế, trong đó có gói kích cầu quy mô 40.000 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh 2% lãi suất khi vay vốn tại các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước đã tổng hợp, đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính báo cáo cấp có thẩm quyền để giao bổ sung kế hoạch đầu tư công năm 2022 (gần 16.035 tỷ đồng), bố trí kế hoạch đầu tư công năm 2023 (trên 23.965 tỷ đồng). Với mức phân bổ ngân sách hỗ trợ lãi suất 2%/năm, ước tính các ngân hàng sẽ dành khoảng 800.000 tỷ đồng dư nợ cho vay trong năm nay để giảm lãi suất cho người dân, doanh nghiệp đủ điều kiện. Sang năm 2023, dư nợ dự kiến được hỗ trợ lãi suất vào khoảng 1,2 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, vào cuối tháng 5/2022, khi Ngân hàng Nhà nước chính thức ban hành Thông tư hướng dẫn triển khai chính sách về gói hỗ trợ nói trên thì nhiều ngân hàng thương mại cho biết đã gần cạn “room” tín dụng của năm nay. Thời điểm đó, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 7,75%, mức tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2021. Vì vậy, nhiều người lạc quan cho rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ sớm phân bổ thêm hạn mức để các ngân hàng thương mại thực thi chính sách hỗ trợ như đã nói. Thứ hai, lạm phát tại các quốc gia trên thế giới được hình thành từ sự chủ quan, tin rằng việc tung hàng chục nghìn tỷ USD ra để đỡ nền kinh tế trong dịch bệnh sẽ không gây tác dụng phụ. Ngoài ra, cuộc xung đột Nga – Ukraine, điều mà không ai ngờ đến cũng khiến áp lực lạm phát tăng thêm. Nhằm đối phó với tình trạng đó, nhiều ngân hàng trung ương đã lần lượt chuyển từ chính sách tiền tệ nới lỏng trong đại dịch Covid-19 sang chính sách thắt chặt thông qua tăng lãi suất chính sách và dừng các chương trình mua trái phiếu. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, lạm phát tại Việt Nam không hoàn toàn đến từ tiền tệ mà chủ yếu do chi phí đẩy. Tức là theo con đường nhập khẩu và đi dần vào giá tiêu dùng, chứ không bao gồm cả lạm phát cầu kéo như ở Mỹ và các nước châu Âu. Theo đó, để chống lạm phát chi phí đẩy thì tăng lãi suất không phải là biện pháp. Thậm chí, nhiều quan điểm tin rằng, khi Ngân hàng Nhà nước nới room tín dụng, cuộc đua lãi suất có thể hình thành nhưng điều này là phù hợp với xu hướng thế giới. Thứ ba, theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2022 tăng nhẹ 0,4% so với tháng trước, mức thấp nhất kể từ tháng 1/2021. Bình quân 7 tháng đầu năm 2022, CPI tăng 2,54% so với cùng kỳ năm 2021, cách khá xa so với mục tiêu cả năm khoảng 4%. Phải thấy, room tín dụng được coi là giải pháp để điều tiết quy mô và đích đến dòng tiền từ hệ thống tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, xuất hiện từ năm 2014 và đã chứng minh tính hiệu quả. Đó là, tình trạng các ngân hàng vãi tiền cho sân sau và các lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán... như từng diễn ra trước năm 2011 được khắc phục về cơ bản. Trong khi, từ đầu năm 2022 đến nay, nhiều ngân hàng “vung tay quá trán”, không dành chỉ tiêu cho nửa cuối năm. Họ không lường trước tình thế Ngân hàng Nhà nước rất “rắn” trong việc kiểm soát chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng để hỗ trợ kiểm soát lạm phát nên không tránh khỏi hụt hẫng. NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC NÓI GÌ VỀ ROOM TÍN DỤNG?Nói về vấn đề tăng trưởng tín dụng, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, quả thật có khá nhiều ý kiến cho rằng Ngân hàng Nhà nước nên cân nhắc điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng lên 15 - 16%. Song theo Thống đốc, tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam (GDP mới) theo đánh giá của WB là cao nhất thế giới, ở mức 124%; tỷ lệ tín dụng trên huy động vốn đã là 99%, nghĩa là huy động 100 đồng đã cho vay 99 đồng. Do đó, nếu nới room tín dụng thì có thể đẩy cuộc đua lãi suất sẽ quay trở lại, vốn chảy vòng quanh từ ngân hàng này sang ngân hàng khác như từng diễn ra vào các năm 2007 – 2008. Ngoài ra, Thống đốc cũng thông tin thêm, năm 2022, khi xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, lúc đó là thời điểm nền kinh tế chưa phục hồi nhanh, Ngân hàng Nhà nước đã đưa chỉ tiêu 14%, cao hơn 13,6% năm 2021 và 12,17% của năm 2020. Như vậy, đã tạo dư địa để thúc đẩy phục hồi. Đến nay, diễn biến rất khác, nền kinh tế nước ta phục hồi khá mạnh mẽ, riêng tăng trưởng quý 2 tăng 7,72%, tính chung 6 tháng tăng là 6,42%. “Từ nay đến cuối năm, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh các gói phục hồi, cũng như đẩy mạnh đầu tư công. Như vậy, tới đây sẽ có dòng tiền ra để hỗ trợ kinh tế. Ngân hàng Nhà nước cho rằng với điều hành chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trong bối cảnh lạm phát này thì không thể chủ quan được”, Thống đốc nhấn mạnh. Tăng trưởng tín dụng và huy động đang cách rất xa nhau đã gây áp lực cho thanh khoản hệ thống tổ chức tín dụngThực tế, việc kiểm soát lạm phát của Việt Nam khá tốt trong nửa đầu năm và như đã nêu, đây cũng là một trong những cơ sở để thị trường tin rằng Ngân hàng Nhà nước sẽ nới tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, khá nhiều dấu hiệu “không ổn” của lạm phát đã hình thành. Theo ông Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, khi giá lương thực, thực phẩm tăng 10% sẽ tác động trực tiếp làm CPI tăng 2,77 điểm phần trăm. Việc chủ động nguồn cung lương thực, thực phẩm với giá ổn định là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam kiểm soát lạm phát trong nửa đầu năm 2022. Mặc dù giá xăng dầu giảm nhờ các chính sách thuế nhưng ông Lâm cho hay, CPI lại chịu gánh nặng thịt lợn. Riêng trong tháng 7/2022, giá thịt lợn tăng 4,29% so với tháng trước do chi phí thức ăn chăn nuôi và chi phí vận chuyển tăng. Trong khi, mặt hàng thịt lợn đang chiếm tỷ trọng 3,39% của bộ chỉ số tính lạm phát nên sẽ có tác động khá lớn. “Cho dù giá bán lợn hơi có tăng so với tháng trước nhưng người chăn nuôi vẫn chưa yên tâm tái đàn và mở rộng sản xuất. Điều này khiến giá lợn có thể sẽ tiếp tục biến động và ảnh hưởng tới CPI trong thời gian tới”, ông Lâm nói. TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia chia sẻ, tác động giá nguyên vật liệu cơ bản cũng như xăng dầu mới chỉ ở vòng 1. Trong khi nguyên tắc là “vòng xoáy” lạm phát, tức có ở vòng 2 và vòng 3… Khi đó, những yếu tố này sẽ đè nặng lên lạm phát hơn nữa tại quý 3 và quý 4 năm nay. Do đó, ông Nghĩa dự báo, CPI chung năm nay sẽ tăng hơn năm ngoái khoảng 2,0 - 2,2 điểm phần trăm, tương đương CPI cả năm 2022 sẽ trên dưới 4%. Cũng theo ông Nghĩa, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước rất quan tâm tới việc điều hành các chỉ tiêu tiền tệ để kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý. Trong đó, mức hợp lý ở đây tức là lạm phát không chỉ đạt mục tiêu trong năm nay, mà còn không tạo áp lực cho năm sau. “Bởi vậy, bên cạnh những thế “võ cổ truyền” như bơm – hút tiền điều tiết, cân đối thanh khoản hoặc “biến chiêu” như đấu thầu lãi suất thị trường mở (OMO), việc Ngân hàng Nhà nước không nới room tín dụng, phòng thủ từ xa đối với rủi ro lạm phát cũng là điều dễ hiểu”, ông Nghĩa nhận xét. Cũng theo ông Nghĩa, việc không nới hạn mức tăng trưởng tín dụng còn giúp nhà điều hành tiền tệ không để dòng tiền dịch chuyển quá nhiều qua thị trường bất động sản gây bong bóng. Tính đến tháng 6/2022, tổng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản đạt trên 2,36 triệu tỷ đồng, tương đương tăng 14,07% so với cuối năm 2021. (Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN) Trong bối cảnh tiền VND chịu áp lực mất giá và mục tiêu kiểm soát lạm phát được đặt lên cao, giới phân tích nhận định, Ngân hàng Nhà nước nhiều khả năng sẽ có động thái thắt chặt chính sách tiền tệ và điều chỉnh tăng lãi suất sớm hơn dự kiến. Tuy nhiên, mức tăng lãi suất sẽ chưa quá lớn để vẫn có thể hỗ trợ nền kinh tế hồi phục sau đại dịch. Lãi suất cho vay thực tế đã nhích tăng? Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, trong nửa đầu năm 2022, tăng trưởng tín dụng đạt tới 9,35% trong khi huy động vốn chỉ tăng khoảng 4,51%. Trong báo cáo cập nhật ngành ngân hàng mới công bố, các chuyên gia của Công ty cổ phần Chứng khoán SSI cho rằng, sự tăng trưởng mạnh mẽ của tín dụng trong nửa đầu năm được giải thích bởi một loạt các yếu tố như nhu cầu tín dụng phục hồi và việc phản ánh mức độ tăng của giá hàng hóa. Trong khi đó, tăng trưởng huy động chỉ ở mức 4,5% so với đầu năm. Nhiều ngân hàng thương mại theo đó đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động tại nhiều kỳ hạn và tăng nhanh hơn dự kiến. Lãi suất cho vay cũng bắt đầu tăng vào cuối quý 2/2022. Thanh khoản toàn hệ thống chịu áp lực vào đầu quý 2/2022 sau sự cố của Tập đoàn Tân Hoàng Minh. Lãi suất liên ngân hàng qua đêm đã tăng lên 2,5% và lãi suất huy động của một số ngân hàng tăng trong khoảng 10-95 điểm cơ bản. Tuy vậy, dữ liệu của SSI cũng ghi nhận áp lực tăng lãi suất tiền gửi đã dần giảm bớt trong tháng 5-6/2022, do các ngân hàng trong nửa đầu năm 2022 đã sử dụng gần như hết hạn mức tăng trưởng tín dụng được cấp. Do đó, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm đã bình thường trở lại, xuống dưới 1% và một số ngân hàng thậm chí còn hạ lãi suất đối với các khoản tiền gửi có giá trị nhỏ vào cuối tháng Sáu. Với nguồn cung tín dụng hạn chế, lãi suất cho vay đã bắt đầu tăng từ 1-2% so với đầu năm với các khoản giải ngân mới. Thực tế, ghi nhận ở một số ngân hàng thương mại, một số khoản cấp tín dụng trước đó như cho vay mua nhà, đầu tư bất động sản… đã được các ngân hàng điều chỉnh tăng. Trong khi đó, kết quả điều tra xu hướng do Vụ Dự báo-Thống kê, Ngân hàng Nhà nước vừa công bố cho biết, các tổ chức tín dụng đã nỗ lực thu hẹp chênh lệch lãi suất biên và phí phi lãi suất để hỗ trợ khách hàng vay vốn phục hồi sản xuất, kinh doanh. [Biến động ngược chiều tỷ giá tác động thế nào đến kinh tế Việt Nam?] Tuy nhiên, các ngân hàng cũng cho biết tiếp tục giữ nguyên hoặc có xu hướng “thắt chặt nhẹ” các điều kiện và điều khoản cho vay tổng thể để đảm bảo chất lượng tín dụng. Nhiều tổ chức tín dụng dự kiến, trong 6 tháng cuối năm, nhu cầu tín dụng tiếp tục cải thiện hơn so với nửa đầu năm nay ở tất cả các lĩnh vực. Các tổ chức tín dụng dự kiến sẽ tiếp tục “thắt" nhẹ các điều khoản và điều kiện cho vay khách hàng doanh nghiệp, cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán, đầu tư kinh doanh bất động sản, nhưng sẽ nới lỏng hơn đối với cho vay sản xuất kinh doanh. Lãi suất có thể tăng sớm hơn dự kiến Theo SSI, trước những áp lực về lạm phát và tỷ giá tăng nhanh trong quý 2/2022, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng công cụ bán ngoại tệ từ dự trữ ngoại hối nhằm có thể ổn định thị trường và hạn chế việc tác động lên mặt bằng lãi suất. Tuy nhiên, do chênh lệch tăng trưởng tín dụng-tiền gửi hiện ở mức cao và tiền gửi từ Kho bạc Nhà nước có thể không còn dồi dào, nếu đầu tư công bắt đầu được đẩy mạnh. Do đó, áp lực tăng lãi suất huy động trong nửa cuối năm 2022 là hiện hữu, nếu hạn mức tín dụng được nới. Hoạt động nghiệp vụ tại Ngân hàng TMCP Quốc Dân. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)Đồng thời, một số ngân hàng cũng sẽ có nhu cầu tăng vốn dài hạn, do mức trần tỷ lệ vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung và dài hạn sẽ được điều chỉnh từ 37% xuống 34% và cho vay dài hạn có thể là động lực tăng trưởng tín dụng trong 6 tháng cuối năm 2022. Chuyên gia SSI cho rằng, lãi suất huy động có thể tăng thêm 50-70 điểm cơ bản sau khi nới hạn mức tăng trưởng tín dụng. Cả năm 2022, lãi suất huy động có thể tăng 1-1,5%. Lãi suất cho vay đối với các khoản giải ngân mới sẽ cao hơn 1%-2% so với năm 2021. Trong khi đó, thông thường phải mất từ 1-2 quý để lãi suất cho vay đối với các khoản vay dài hạn cũ điều chỉnh lại hoàn toàn theo lãi suất huy động. Trong năm 2023, SSI dự báo diễn biến của lãi suất có thể sẽ có sự khác biệt giữa nửa đầu năm và nửa cuối năm. Nhiều khả năng lãi suất huy động sẽ vẫn chịu áp lực tăng trong nửa đầu năm 2023, với CPI theo ước tính là 5,2%. Sau đó, lãi suất huy động có thể sẽ hạ nhiệt trong nửa cuối năm 2023, khi áp lực lạm phát giảm dần (CPI theo ước tính là 3,4% trong nửa cuối năm 2023). Trong cả năm, lãi suất huy động dự kiến sẽ tăng khoảng 70-80 điểm cơ bản và tiệm cận mức trước COVID-19 tại một số ngân hàng. Trong dự báo mới đây, các tổ chức quốc tế cũng nhận định Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh tăng lãi suất điều hành sớm hơn dự kiến. Ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc toàn quốc Khối ngoại hối, thị trường vốn và dịch vụ chứng khoán, Ngân hàng HSBC Việt Nam cho rằng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một trong số ít ngân hàng trung ương ở châu Á chưa bắt đầu thắt chặt tiền tệ. Tuy nhiên, rủi ro lạm phát gia tăng (dù phần lớn là lạm phát “nhập khẩu” từ nước khác) sẽ thúc giục cơ quan này cần phải thắt chặt tiền tệ. Dựa trên những dự báo của HSBC, ông Khoa cho biết, lạm phát nhiều khả năng sẽ nghiêm trọng hơn từ quý 4/2022, thậm chí có lúc vượt trần 4% của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, thời điểm áp dụng biện pháp bình thường hóa tiền tệ sẽ đến sớm hơn trong bối cảnh áp lực giá gia tăng. Các chuyên gia của HSBC vẫn giữ quan điểm về việc Ngân hàng Nhà nước nhiều khả năng sẽ điều chỉnh lãi suất tăng 50 điểm cơ sở trong quý 3/2022 (hiệu lực từ quý 4/2022); đồng thời dự báo sẽ tăng 50 điểm cơ sở mỗi quý kể từ quý 4/2022 cho đến quý 2I/2023. Lãi suất điều hành theo đó sẽ tăng mạnh lên 6,5% vào cuối quý 3/2023. Trong khi đó, Ngân hàng Standard Chartered dự báo Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì lãi suất chính sách ở mức 4% trong năm 2022 và có thể sẽ thực hiện bình thường hóa chính sách vào quý 4/2023 với việc tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản lên 4,5%. Dẫu vậy, ông Tim Leelahaphan, chuyên gia kinh tế phụ trách Thái Lan và Việt Nam, Ngân hàng Standard Chartered cũng cho rằng, dù Ngân hàng Nhà nước chưa đưa ra tín hiệu về sự thay đổi trong lập trường. Cùng đó, sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam cũng chỉ vừa mới bắt đầu, nhưng khả năng Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ tăng lãi suất sớm hơn dự kiến, khi lạm phát ngày càng gia tăng và VND mất giá nhanh hơn dự kiến, đặc biệt là nếu Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục lập trường “diều hâu”-chính sách kinh tế ủng hộ tăng lãi suất để chống lạm phát./. |