Liên hệ bản thân giáo viên Tiểu học

MUỐN TRỞ THÀNH GIÁO VIÊN TIỂU HỌC GIỎI ?

***

       Trường tiểu học là nơi đầu tiên dạy trẻ em biết yêu gia đình, quê hương, đất nước và con người, biết đọc, biết viết biết làm tính, biết tìm hiểu tự nhiên, xã hội và con người. Chính vì vậy, qua nhiều năm giảng dạy ở bậc Tiểu học tôi cảm nhận thấy đứng về kiến thức khoa học thì không nhiều nhưng rất khó thành công điều này đòi hỏi ở người thầy phải có kiến thức sư phạm thật cao. Công tác chủ nhiệm của người thầy ở đây đòi hỏi hết sức khắc khe so với các bậc học khác.

          - Nghề dạy học ở Tiểu học có đặc điểm giống như các bậc học khác, nhưng có đặc thù riêng về mặt sư phạm  mà người làm nghề dạy học khác không cần hoặc không có được. Chính vì vậy giáo viên Tiểu học cần trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng sư phạm, đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Tiểu học thật tốt.

          - Phương châm giáo dục của bản thân là “lạt mềm buộc chặt”, giáo viên chủ nhiệm phải thực sự là người thân thiện,  nhất là đối với những học sinh chưa ngoan. Xem các em như chính con em mình để yêu thương và nhẹ nhàng gần gũi, động viên chia sẻ với các em mọi vui buồn trong cuộc sống... Từ đó giáo dục tốt về đạo đức, tư tưởng lối sống, ý thức rèn luyện mọi mặt cho các em.

          - Một lớp học được xem là thân thiện có nghĩa là ở đó phải kích thích được niềm yêu thích của các em với tri thức, đánh thức những khả năng tiềm tàng trong các em. Muốn làm được điều này tôi nghĩ các thầy cô giáo không nên làm những cây cổ thụ tỏa bóng râm che mát cho các em mà nên làm những người hướng đạo đầy bản lĩnh cùng các em làm khách bộ hành trên con đường khám phá tri thức.

          - Phải trang bị cho mình phương pháp dạy học và thói quen làm việc khoa học ở mỗi môn học, mỗi bài học để đạt được hiệu quả cao trong giảng dạy. Cần xác định được mục tiêu của bài. Đặc biệt cần dành tâm sức trí tuệ và thời gian cho việc dạy học. Việc thiết kế bài dạy  phải căn cứ vào mục tiêu dạy học, đặc điểm của học sinh, tính chất của môn học, điều kiện vật chất có thể sử dụng được trong quá trình dạy học. Trước khi lên lớp người giáo viên cần phải xác định được:

          1/ Dạy cái gì ? (Xác định nội dung dạy học).

          2/ Sau khi học song học sinh cần biết hoặc biết làm cái gì? (Xác định mục tiêu).

          3/ Kiến thức thực sự của học sinh hiện nay như thế nào?

          4/ Học sinh thực sự đã biết gì? (Đánh giá những điều học sinh đã biết trước khi học và sau khi học).

          5/ Dạy bài học đó như thế nào? (Lựa chọn phương pháp và kỹ năng dạy học).

          6/ Giáo viên cần hiểu biết về những đặc điểm của học sinh, lứa tuổi, thói quen trình độ học sinh, trẻ bị tật, trẻ có gia đình khó khăn...

          7/ Cần chú ý đến cách mở đầu bài học sao cho hứng thú trong học tập với học sinh và cách kết thúc bài học để gây ấn tượng cho học sinh. Nhất là đảm bảo tính đa dạng và hài hoà của các phương pháp dạy học được áp dụng, điều này đặc biệt quan trọng với học sinh Tiểu học.

          - Giáo viên tiểu học dạy nhiều môn, mỗi giáo viên phụ trách một lớp. Do đó giáo viên tiểu học phải có:

           +  Hiểu biết cơ bản, khái quát nhất về nhiều lĩnh vực.

           + Cần vốn văn hoá chung, hơn những đòi hỏi chuyên môn quá sâu về mỗi môn học hoặc lĩnh vực.

          - Giáo viên tiểu học đúng nghĩa là “người thầy tổng thể”.

          - Giáo viên tiểu học là “thần tượng” của học sinh tiểu học.

          - Học sinh nhất nhất nghe theo giáo viên; trong mắt các em giáo viên là người tốt nhất, là người giỏi nhất, là người đúng nhất.

          - Giáo viên phải là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo cho học sinh.

          - Mỗi giáo viên tiểu học hãy là “thần tượng” của học sinh mình.

          - Giáo viên tiểu học là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục tiểu học.

          * Tiểu học là cấp học của phương pháp dạy học:

          + Giáo viên tổ chức các hoạt động học cho học sinh.

          + Học sinh thực hiện các hoạt động học sẽ hình thành các khái niệm khoa học. Theo cách như vậy học sinh tự làm kiến thức cho mình.

          - Để việc dạy học đạt kết quả tốt thì ngoài việc thiết kế bài dạy tốt còn một việc quan trọng nữa là hướng dẫn học sinh thi công bài học đó. Như vậy mỗi giáo viên ngoài việc phải trang bị những kiến thức sư phạm  còn phải sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học, đồ dùng dạy học (Hướng dẫn vào trọng tâm ) trên cơ sở kế thừa phát huy những phương pháp cũ tích cực. Việc kiểm ra đánh giá kết quả học tập cũng là khâu hết sức quan trọng phải được làm thường xuyên, liên tục để giáo viên nắm bắt được thông tin ngược từ phía học sinh từ đó điều chỉnh quá trình dạy học cho phù hợp và có hiệu quả. Khi kiểm tra đánh giá kết quả học tập của các em cần coi trọng động viên, khuyến khích sự tiết bộ của học sinh tránh để lại dấu ấn tiêu cực chán nản trong tâm trí học sinh. Muốn làm tốt được những việc trên để công tác dạy học đạt kết quả cao bản thân người giáo viên phải luôn tự giác tích cực học tập, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ cho mình. Việc học tập có thể qua nhiều kênh thông tin, qua bồi dưỡng thường xuyên, qua bạn bè đồng nghiệp, sách báo.

          - Người giáo viên làm công tác giảng dạy còn phải tích cực tìm tòi, nghiên cứu sách vở, học hỏi đồng nghiệp và những người đi trước để vận dụng các phương pháp dạy học một cách linh hoạt, khéo léo, phù hợp với từng bài, từng phần nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cũng như để lôi cuốn, tạo hứng thú và đưa các em đến với niềm đam mê thích thú trong học tập.

          - Luôn giữ mối quan hệ gần gũi, thân thiết và tốt đẹp với học sinh, khuyến khích các em nói ra những gì mình nghĩ để tất cả các giờ học đều thoải mái, vui tươi và sôi nổi hơn. 

          Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc rút được trong nhiều năm dạy học ở tiểu học rất mong ban giám hiệu và bạn bè đồng nghiệp trong hội đồng sư phạm nhà trường bổ sung đóng góp thêm.

         Xin trân thành cảm ơn!

@_01/2014

Nguyễn Thị Lệ

Giáo viên-khối trưởng 3 - Trường tiểu học Mạc Đĩnh Chi, thành phố Kon Tum.

e-mail:

Nội dung cơ bản về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh? Thuật ngữ tiếng Anh? Liên hệ bản thân học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh?

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mang đến các kiến thức nhận thức cũng như thực tiễn cho mỗi công dân. Trong đó, các cán bộ Đảng viên cần thấy được trách nhiệm cũng như ý nghĩa học tập, rèn luyện của mình. Liên hệ bản thân giúp chúng ta tự nhận định, tự rèn luyện cũng như noi theo các bài học của bác. Từ đó mỗi người đều có được cho mình các kinh nghiệm, bài học quý báu. Cũng như qua đó nhìn nhận, soi xét trong nhiệm vụ, trách nhiệm của mình. Dưới đây là bài viết liên hệ của bản thân Đảng viên đối với học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568

1. Nội dung cơ bản về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh:

1.1. Về tư tưởng Hồ Chí Minh:

Các vấn đề nhận thức về tư tưởng:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm sâu sắc và toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, thể hiện ở những vấn đề:

+ Giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

+ Sức mạnh của nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân.

+ Về phát triển kinh tế, đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng.

Tư tưởng này đã soi đường cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng để dành được từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh:

+ Là các tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

+ Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

+ Mang đến độc lập, tự do, hạnh phúc.

Đây là giá trị nền tảng để phát triển bền vững, có khả năng giải quyết được những nhiệm vụ thực tiễn đặt ra của cách mạng Việt Nam.

1.2. Về đạo đức Hồ Chí Minh:

Đạo đức là một vấn đề được quan tâm xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người. Bác luôn đề cao các giá trị đạo đức của con người bên cạnh tài năng, năng lực. Hồ Chí Minh không chỉ để lại các tác phẩm lý luận về vấn đề đạo đức mà còn luôn gương mẫu thực hiện mẫu mực những hành vi đạo đức. Đó là yêu cầu cần thiết, bắt buộc đối với mỗi cá nhân trong tập thể. Càng trở lên quan trong hơn khi đây phải là một tiêu chí trong phân loại và lựa chọn Đảng viên.

Đạo đức của Hồ Chí Minh thể hiện trên các phương diện:

+ Là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Có những phẩm chất tiêu biểu là tuyệt đối trung thành và kiên định với lý tưởng cách mạng;

+ Hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân;

+ Hết lòng yêu thương đồng bào, đồng chí;

+ Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư;…

Đây là sự kết hợp giữa đạo đức truyền thống với tinh hoa văn hóa của nhân loại. Các nét đẹp trong văn hóa, ứng xử và đạo đức làm nên nét đẹp riêng của con người Việt nam. Nét đẹp này được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân của sự hoàn thiện, hoàn mỹ về đạo đức.

1.3. Về phong cách Hồ Chí Minh:

Phong cách của chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Người. Đặc điểm phong cách được thể hiện sinh động, tự nhiên trong sinh hoạt và ứng xử hằng ngày.

Phong cách của Người thể hiện ở các khía cạnh sau:

+ Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, gắn chặt lý luận với thực tiễn;

+ Phong cách làm việc dân chủ, khoa học;

+ Phong cách ứng xử văn hóa, tinh tế, mang tính nhân văn;

+ Phong cách nói đi đôi với làm;

+ Nói và viết ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu;

+ Phong cách sống thanh cao, giản dị, trong sạch;

+ Phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình nêu gương,…

Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng trong đạo đức, lối sống do đó mỗi cá nhân luôn cần học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Từ đó mà các nhận thức, các yêu cầu trong đoàn thể đều đặt dưới ý nghĩa noi theo Bác.

2. Thuật ngữ tiếng Anh:

Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh tiếng Anh là Studying and following Ho Chi Minh’s ethics.

3. Liên hệ bản thân học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh:

Là một đảng viên, tôi nhận thấy cần phải gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những việc làm cơ bản sau:

3.1. Về tư tưởng chính trị:

– Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng;

– Tin tưởng và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;

– Chấp hành tốt mọi chủ chương đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

– Tích cực đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng; bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người tốt;

– Gương mẫu thực hiện và có ý thức tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện theo đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

– Bản thân luôn tích cực tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu để tự học. Tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng do cấp trên tổ chức. Có ý thức học hỏi bạn bè đồng nghiệp để không ngừng nâng cao trình độ lý luận chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực công tác.

Tất cả các tư tưởng chính trị đều nhận diện trên quy định, bắt buộc chung trong hoạt động quản lý nhà nước.

3.2. Về phẩm chất đạo đức, lối sống:

– Thực hiện tốt “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Có tinh thần hợp tác, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp;

– Thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, nói không đi đôi với làm, lợi dụng chức vụ để thu vén lợi ích cho bản thân và gia đình;

– Bản thân luôn giữ gìn tư cách, phẩm chất đạo đức cách mạng và tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Thực hiện tốt các Quy định của Ban chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm;

– Bản thân luôn nêu cao ý thức trách nhiệm và tinh thần phục nhân dân. Giải quyết tốt các đề xuất, kiến nghị về quyền và lợi ích chính đáng của đảng viên và quần chúng trong đơn vị tổ. Tích cực đấu tranh với các biểu hiện vô cảm, quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà đối với nhân dân.

– Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, thẳng thắn, sống sống đoàn kết tập thể, hoà nhã, gần gũi với bạn bè đồng nghiệp và nhân dân nơi cư trú. Quan hệ mật thiết với nhân dân. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở;

– Có ý thức trong tự phê bình và phê bình. Biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người khác. Tích cực đấu tranh với những biểu hiện chia rẽ, bè.

3.3. Đề xuất những giải pháp, ý tưởng:

Để xây dựng được mối đoàn kết nội bộ theo tôi chúng ta cần Đặt lợi ích tập thể lên đầu. Sự đoàn kết, thoải mái trong tư tưởng sẽ khiến con người ta nhiệt tình và yêu mến công việc hơn. Từ đó cũng mang đến hiệu quả phân công, phối hợp thực hiện tốt các hoạt động trong nhiệm vụ chung.

– Xây dựng kế hoạch làm việc của tập thể và phân định công việc cụ thể cho từng cá nhân ngay từ đầu:

Sự rạch ròi trong công việc sẽ khiến mỗi người có trách nhiệm hơn trong công việc của mình. Khi đó, họ phải đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, chịu nhiệm cho nhiệm vụ ấy. Dù cá nhân hay tập thể đều phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp để tìm ra cái đúng, cái hay mà sửa chữa để hoàn thiện mình.

– Mỗi đảng viên cần thấm nhuần và học theo phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

+ Xóaa bỏ mọi cách biệt về chức vụ, địa vị, giữa cấp trên cấp dưới, giữa lãnh tụ với nhân dân; Hướng đến chính sách vì nhân dân, đảm bảo quyền lợi cho nhân dân.

+ Đem đến cho mọi người ý thức về sự bình đẳng hoàn toàn. Bình đẳng không có nghĩa là cào bằng, tuy nhiên phải để mọi người có được lợi thế như nhau khi tham gia vào tập thể, cộng đồng.

+ Mỗi chúng ta ai ai cũng cần học bác những đức tính tốt đẹp ấy trong cơ quan đơn vị.

Học tập theo gương bác là là niềm vinh dự tự hào đối với mỗi cán bộ đảng viên và mỗi người dân Việt Nam.

– Các ý nghĩa học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:

Đối với bản thân là một Đảng viên, học theo gương Bác là một nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên. Qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là con cháu của Bác.

Nhận biết được điều đó bản thân tôi luôn tự rèn luyện, trau dồi về phẩm chất đạo đức. Từ đó thực hiện các hành động cụ thể trong trách nhiệm của mình như sau:

+ Biết kính trên nhường dưới, cư xử đúng mực, hòa nhã với đồng nghiệp, người thân, bà con lối xóm;

+ Đồng cảm và sẵn sàng giúp đỡ những người có hoàn cảnh đặc biệt;

+ Không kiêu căng, tự cao, tự đại trong mọi trường hợp.

+ Đặc biệt không tham gia vào các tệ nạn xã hội, là tấm gương cho con cái noi theo.

Học tập đạo đức của Bác Hồ, chúng ta còn có thể học tập qua chính những tấm gương đồng nghiệp, bè bạn xung quanh. Mỗi tấm gương tốt cần được động viên, tuyên dương để thấy được giá trị và ý nghĩa của hành động thực tiễn. Và hãy để việc học tập đó đi vào chính cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta chứ không phải là những hoạt động có tính chất phong trào. Bởi học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là để giúp chúng ta sống tốt hơn, đẹp hơn. Mang đến một cộng đồng văn minh, nền văn hóa đẹp hơn của Việt nam trong mắt bạn bè quốc tế.

Đó không chỉ là trách nhiệm của cá nhân tôi, cá nhân chúng ta, mà còn vì vận mệnh của đất nước Việt Nam. Là trách nhiệm của mỗi một công dân trong công việc, sinh hoạt cũng như các điều kiện của mình. Sống giản dị như Bác còn là để trả ơn cuộc đời, trả ơn những máu và nước mắt của các thế hệ cha anh đã ngã xuống cho tự do, độc lập hôm nay.

3.4. Về sự nhận thức:

Về sự cần thiết phải học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay:

Sinh thời Bác Hồ của chúng ta đã khẳng định: Đạo đức là gốc của cách mạng.

Bác coi đạo đức của con người như gốc của cây, như nguồn của sông. Phải có đạo đức, có nhận thức và thay đổi trong tư duy đạo đức của con người. Người luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng và tích cực của đạo đức trong đời sống xã hội. Bên cạnh các chuẩn mực, nguyên tắc, đạo đức đóng góp giá trị lớn cho thành công và đặc sắc riêng của dân tộc ta.

Ngày nay trong giai đoạn mở cửa, nhiều văn hóa cũng như nét sống mới du nhập. Tuy nhiên các giá trị đạo đức làm gốc rễ phải được tôn trọng và gìn giữ. Mặt khác, thực tiễn cuộc sống cũng cho thấy đã và đang xẩy ra tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức và trong các tầng lớp nhân dân. Vì vậy với đợt học tập này lại càng có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt.

Việc học tập, rèn luyện giúp chúng ta thường xuyên được nhắc nhớ đến tư tưởng, đến ý nghĩa việc làm. Từ đó mà tinh thần cũng như các phẩm chất đạo đức được giữ kiên định.