Liệt kẻ những lời chúc của nhân vật nó trong bài thơ năm mới chúc nhau

Nhưng nói như thế không có nghĩa là Tú Xương “vơ đũa cả nắm”. Ông không hề và cũng không dám chê bai tục lệ chúc Tết đầu năm, ông chỉ chê bai, giễu cợt, một bọn người hãnh tiến, giàu có, hợm hĩnh và nhố nhăng. Đối tượng đả kích của ông Tú là chúng nó, một đối tượng vừa cụ thể, vừa bâng quơ theo kiểu ai “có tật giật mình”. Thời đại Tú Xương sống là thời đại mà bao nhiêu thói rởm đời, bao nhiêu kiểu “học làm sang” đang diễn ra từng ngày. Khác với cụ Tam Nguyên “tựa gối ôm cần” câu cá, vịnh cảnh nơi đồng nội, Tú Xương sống ngay ở thị thành, những cảnh đổi thay kia cứ đập vào mắt ông, khiến ông không kìm nổi mình, ông chửi: 

Chí cha chí chát khua giày dép,


Đen thủi đen chui cũng lượt là. 

Rồi cũng trong một dịp năm mới khác, ông lại chứng kiến cảnh: “Khăn là bác nọ to tày rế - Váy lĩnh cô kia quét sạch hè”. Những bức vẽ trên đây, dù sao cũng mới là chuyện hình thức, là y phục bề ngoài còn trong bài thơ, Tú Xương vạch trần bản chất, “lí tưởng”, nội dung bên trong của những kẻ thị dân, quan lại ích kỉ, giả dối. Đầu tiên là cảnh chúc thọ:

 

Lặng lặng mà nghe nó chúc nhau


Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.  

Có lẽ những lời chúc tụng kia phải ồn ào, pha tạp lắm nên ông Tú mới “lặng lặng mà nghe” để xem họ chúc nhau những gì. Thực ra, với mọi người, mong ước được “bách niên giai lão” là một mong ước chính đáng. Song nói sống lâu đến “bạc dầu râu” theo kiểu nói Tú Xương thì câu thơ không còn giữ nguyên vẻ kính trọng mà đã ngả sang chiều mai mỉa. Trong khi cuộc sống mọi người đang lầm than, cực khổ thế mà thật quá quắt, chúng lại mong muốn sống lâu để kéo dài kiếp sống ích kỉ của chúng. Từ mong ước kia của bọn người nhố nhăng, ông Tú nảy ra một sáng kiến:

 

Phen này ông quyết đi buôn cối


Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu. Xưng ông một cách trịch thượng, hạ những kẻ nhố nhăng xuống hàng đứa, nó, Tú Xương trực tiếp bộc lộ một cái nhìn khinh thị. Ngầm ẩn sau câu thơ là một cái nhếch mép sâu cay: những kẻ vô tích sự kia, hà cớ gì mà sống dai quá vậy? Sau chúc thọ lại đến màn chúc sang, chúc giàu: 

Lặng lặng mà nghe nó chúc sang


Đứa thời mua tước, đứa mua quan.

Nó lại mừng nhau cái sự giàu
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu? Ơ hay, quan tước phải do sự tu dưỡng gắng gỏi mới thành được, đằng này lại là một thứ hàng hóa được bày ra để mua bán ư? Đồng tiền trong thời đại Tú Xương quả đã ngự trên ngôi vị chúa tể, làm khuynh đảo xã hội. Cùng thời với Tú Xương, Nguyễn Khuyến cũng từng ngạc nhiên: 

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ


Đời trước làm quan cũng thế à? Trước những kẻ lắm tiền, lắm mưu nhiều kế, không từ một thủ đoạn nào thì những người thực tài như ông Tú hỏng thi không được trọng dụng âu cũng là điều dễ hiểu. Cũng như lần trước, Tú Xương hình thành ngay một giải pháp: 

Phen này ông quyết đi buôn lọng


Vừa bán vừa la cũng đắt hàng. 

Trên là giễu, bây giờ là chửi: “Vừa bán vừa la” mà kết quả vẫn “đắt hàng”! Thế mới biết, Tú Xương hiểu tường tận loại người này. Đã bỏ tiền mua quan mua tước, lẽ nào chúng không mua nốt cái lọng để đủ bộ vênh vang. Dẫu có bị mắng, bị chửi thì chúng cũng có để ý gì. Bao nhiêu sự trơ tráo, vô liêm sỉ của chúng đã bị lột trần. Nhưng chưa đủ:

 

Nó lại mừng nhau cái sự giàu


Trăm, nghìn vạn mớ để vào đâu? 

Thật trớ trêu, trong khi ông Tú cũng như bao người khác “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” lại phải chứng kiến cảnh “gà ăn bạc”, “đồng rụng đồng rơi” vương vãi khắp nơi. “Trăm nghìn vạn mớ” của chúng dứt khoát không phải do mồ hồi nước mắt lao động mà là do sự vơ vét, bóc lột của dân nghèo. Biện pháp nghệ thuật cường điệu, lối nói ngoa dụ đã vẽ ra được lòng tham vô đáy của lũ trọc phú trong thời đại bấy giờ. Tú Xương dành trọn khổ thơ thứ tư để nói cảnh chúc phúc:

 

Nó lại mừng nhau sự lắm con


Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn. 

“Nó lại chúc nhau” rồi “Nó lại mừng nhau” cứ như chúng muốn vơ tất cả cho đầy túi tham. Ao ước “sinh năm đẻ bảy” của chúng có gì khác hơn là sự “nhân giống” những cái xấu, cái ti tiện, tham lam, thật tai họa cho đời khi sự có mặt của chúng được hình thành theo cấp số nhân. Hai câu thơ cuối bài “Phố phường chật hẹp người đông đúc - Bồng bê nhau lên nó ở non” có thể hiểu: ông Tú muốn chúng xéo đi cho rảnh mắt (vì chật hẹp quá rồi); cũng có thể hiểu, chúng lên ở non cho tiện kiếp sông bầy đàn... với lòng tham ấy, cách sống nhố nhăng ấy, bọn người này dường như đã đánh mất phần người, chỉ còn lại phần con nữa thôi. Mới hay tiếng cười của Tú Xương không chỉ “độc” mà còn “thâm” nữa.

 

Xuyên suốt bài thơ là cái nhìn mỉa mai của “ông” dành cho chúng “nó”. Không một chút e dè, kiêng nể, Tú Xương quất thẳng vào chúng những tiếng chửi “ác khẩu” và mạnh mẽ. Thực ra, về bài thơ này, có bản còn chép thêm một khổ như sau:

 

Bắt chước ai ta chúc mấy lời


Chúc cho khắp hết cả trên đời.
Vua, quan, sĩ, thứ người muôn nước,
Sao được cho ra cái giống người. 

Cho dù đến nay nhiều học giả nhận xét rằng khổ thơ này là do người sau thêm vào thì vẫn phải thừa nhận ai đó đã rất tinh khi nhận ra ngầm ý của Tú Xương: “Sao được cho ra cái giống người”. Phải thôi, chủ nhân của những kiểu chúc tụng trên kia đâu có còn là người nữa. Không biết chừng, chúng sẽ lên non cùng khỉ lúc nào không hay.

 

Nói vậy thôi, ông Tú “miệng xà” nhưng “tâm phật”. Cũng giống như nhiều bài thơ khác “những lời kiêu bạc kia, những cái cười phá phách kia, những câu gây sự to tiếng chửi mắng kia cũng là sự chẳng đừng được của Tú Xương. Tình hình và thực chất thơ Tú Xương là bay nhẹ ở trên tất cả những cái đó kia” (Nguyễn Tuân). Châm biếm, giễu cợt, khinh ghét lối sống lố lăng kệch cỡm của những kẻ giàu sang, hãnh tiến đang nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đời nô lệ, dân chúng lầm than, Tú Xương gióng một tiếng chuông cảnh tỉnh, phê phán. Tiếng chuông ấy, thái độ thẳng thắn ấy, xét đến cùng, bắt nguồn từ một khao khát nhân bản: làm sao để cho cuộc đời được tốt đẹp hơn, làm sao phải xóa sạch kiểu chúc Tết khác “giống người” mà chắc chắn, hơn một lần Tú Xương đã phải đau lòng chứng kiến. 

Đề bài: Phân tích tiếng cười châm biếm của tác giả qua bài thơ Năm mới chúc nhau

Bài làm:

Trần Tế Xương hay còn gọi là Tú Xương, vốn là một người thông minh, sáng dạ nhưng khốn nỗi thi cử bao nhiêu lần cũng không đậu. Nguyên nhân bởi xã hội thời bới giờ đương buổi rối ren loạn lạc quá, cái tài năng của ông bị vùi dập bởi chế độ thuộc địa nửa phong kiến, bởi việc mua quan bán chức ầm ầm. Chính vì bất đắc chí trong việc học hành thi cử mà Trần Tế Xương thường trút hết nỗi niềm của mình vào thơ văn, thơ của ông không buồn mà là những tiếng cười mỉa mai châm biếm rất sâu cay, là cái roi mây quất vào mặt bọn cường quyền, thực dân những kể chẳng mấy ưa ông và ông cũng ngứa mắt bọn chúng. Dù chỉ được sống 37 năm ngắn ngủi của cuộc đời, lại sống trong cảnh nghèo khó, xã hội nhiễu nhương, nhưng Trần Tế Xương - một trí thức phong kiến đã có một cái nhìn rất chân thực về cuộc sống thời bấy giờ, thông qua những vần thơ trào phúng tưởng là chơi vui nhưng lại hóa hiện thực sâu sắc. Một trong số những bài thơ đó phải kể đến tác phẩm Năm mới chúc nhau.

Nhan đề thơ nghe có vẻ rất đỗi bình thường, năm mới thì những lời chúc tụng nhau vốn dĩ là chuyện rất nên làm, là những gì quen thuộc nhất khi dịp tết đến xuân về. Nhưng vào thơ của Tú Xương, cái lời chúc tết ấy lại có nhiều điều phải suy nghĩ và khi nghĩ ra rồi người ta mới thấy được cái tiếng cười châm biếm thật sâu cay của "bậc thần thơ thánh chữ" (theo lời Nguyễn Công Hoan). Những lời thơ như là tiếng chửi, tiếng mỉa mai những kẻ mà nhà thơ khinh ghét gọi là "nó". Đọc thơ người ta dễ dàng nhận ra sự mâu thuẫn hài hước giữa nội dung và hình thức, sao nghe câu chúc mà giống câu chửi quá, quả thực là nhà thơ đang chế giễu mấy tên hợm hĩnh lố bịch ấy.

"Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhauChúc nhau trăm tuổi bạc đầu râuPhen này ông quyết đi buôn cối

Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu."

Tú Xương tham gia vào bài thơ với vị trí là kẻ thứ ba nghe chuyện, ông rất từ tốn bình tĩnh "Lẳng lặng mà nghe", để xem cái quân giả tạo, thối nát ấy chúc nhau như thế nào, và rồi ông đưa lại vào thơ bằng một giọng tự sự đầy giễu cợt. Cớ sao đã chúc nhau "trăm tuổi bạc đầu" mà lại còn thêm chữ "râu" chi cho mất đi cái vẻ trang trọng mà thay vào đó là cái sự kém sang rành rành, bởi người ta chúc đầu bạc chứ chẳng ai chúc râu bạc bao giờ. Đã thế, Tú Xương còn hài hước chêm vào mấy câu tự xưng mình là "ông" xưng người là "thiên hạ", một giọng thơ rất đanh đá, lại có phần hơi thách thức. Thế hóa ra bọn "nó" già đến bạc cả râu, thì chắc răng cũng chẳng còn đâu nhỉ, Tú cứ buôn cối giã trầu thì chắc sớm mà giàu to thôi. Này thì cái bọn chúc nhau mau già, mau rụng răng, thích chí lắm.

Âý mới chỉ là những câu thơ mở đầu, Tú còn thể hiện cái sự căm ghét thói đời mà tiền đặt lên trên tất cả, đến quan chức mà có tiền mua thì cũng xong.

"Lẳng lặng mà nghe nó chúc sangĐứa thì mua tước, đứa mua quanPhen này ông quyết đi buôn lọng

Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng."

Tú Xương nghe chúng nó chúc nhau sao sang quá, cái sang của bọn ngu dốt lại thích màu mè, chúng cứ tưởng có cái chức quan mua được bằng những đồng tiền bóng lộn ấy trong cái xã hội nửa nạc nửa mỡ này là "sang" lắm, ngon lắm. Nhưng chúng nào có biết được chúng chỉ như đang làm trò hề trong mắt Tú, những kẻ đã kém cỏi từ tâm hồn đến trí tuệ ấy thì cho dù có đắp bao nhiêu phục trang lộng lẫy, hay mũ cánh chuồn úp đầu cũng chẳng khiến người ta nể nang cho được. Bởi chúng chỉ giống như mấy con khỉ thích giả làm người bằng mấy bộ đồ đi vay đi mượn, hoặc đi mua được. Qủa thực có mấy ai thèm, trừ lũ trưởng giả thích làm sang, thích tự bôi vẽ cái vẻ sang trọng quyền quý hài hước lên khuôn mặt bại hoại của chính bản thân mình. Câu thơ chốt hạ "Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng" của Tú Xương thật khiến cho người đọc được hả hê, phải bật cười bởi cái lũ kém sang ấy nào có biết đến việc ăn nói điềm tĩnh tử tế của bậc nho gia, chúng chỉ biết chửi, biết la như những kẻ đầu đường xó chợ. Thật hài hước sâu cay quá. Ôi đã nhiều quan chức đến thế, thì Tú ta buôn lọng cũng khối tiền!

"Nó lại mừng nhau cái sự giàuTrăm nghìn vạn mớ để vào đâuPhen này ắt hẳn gà ăn bạcĐồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.Nó lại mừng nhau sự lắm conSinh năm đẻ bẩy được vuông trònPhố phường chật hẹp người đông đúc

Bồng bế nhau lên nó ở non."

Tú hết chế giễu bằng lối chúc sống lâu, sống sang thì lại quay ra chế giễu mấy cái mừng, nào là mừng sự giàu, mừng lắm con nhiều cháu. Tiền bạc mà vào miệng của Tú thì cũng như "mớ" rau dưa, lộn xộn, để gà cũng ăn được. Rồi thì con cháu nhà quan lại mà cũng "sinh năm đẻ bảy" chẳng khác mấy đám ô hợp. Ôi, theo cái dự đoán của Tú thì phen này chúng nó đẻ lắm chỉ để ăn sao cho cốt hết số tiền bẩn thỉu do bọn ông cha hám tiền của chúng làm ra. Riết rồi cái lũ sâu bọ ấy đông đúc quá, phố phường cũng chẳng kham nổi lại phải bồng bế nhau lên núi mà ở thôi, chứ nơi nào chứa cho hết cái lũ chỉ quen bịp bợm của người dân nghèo khó.

Đọc thơ của Tú Xương, người ta thấy hiện lên rõ mồn một cái hiện thực oái oăm, hài hước của lũ người nhố nhăng trong cái xã hội tạp nham đủ thứ người, thứ chuyện, tưởng như đùa. Qua đó, người ta cũng thấy được cái cảnh cơ cực, khổ sở của nhân dân thời bấy giờ, phải chịu sống dưới sự chèn ép của bọn người ô hợp, tức lắm, ghét lắm, mà không thể làm gì được. Tú Xương là người bản lĩnh, ông tuy bất đắc chí tại đường công danh nhưng thơ, văn của ông luôn đem lại một cái nhìn thật sâu sắc về hiện thực xã hội lúc đó, cũng phần nào xả được cái nỗi uất ức bị kìm kẹp dưới chế độ nửa phong kiến của nhân dân ta. Những tiếng cười chế giễu như thứ vũ khí đâm thẳng vào mặt bọn cầm quyền ngu si, mà chúng tuy cay cú cũng chẳng thể làm gì được.

Trần Tế Xương là nhà thơ trào phúng nổi tiếng của Việt Nam, trong nhiều tác phẩm của mình, ông đã hướng ngòi bút phê phán, đả kích tầng lớp quan lại tay sai và bọn thực dân cướp nước. Trong bài thơ "Năm mới chúc nhau", nhà thơ đã không che giấu sự căm ghét mà châm biêm sâu cay đối với bọn người nọ. Các bạn hãy cùng phân tích tiếng cười châm biếm của tác giả qua bài thơ Năm mới chúc nhau để thấy rõ được chân dung đối tượng trào phúng cũng như sắc thái của tiếng cười trào phúng này nhé!

Bình giảng bài thơ Tiến sĩ giấy Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy Dàn ý phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn Hạnh phúc của một tang gia Dàn ý phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương Phân tích khổ 1 bài thơ Bếp lửa Cảm nhận bài thơ Lai tân