Môn Sinh học ở chương trình giáo dục phổ thông 2022 có vai trò và tính chất nổi bật là gì

Môn Sinh học trong Chương trình GDPT mới

          Sinh học là môn học được lựa chọn trong nhóm môn khoa học tự nhiên ở giai đoạn GD định hướng nghề nghiệp. Thời lượng môn học cho mỗi lớp là 105 tiết/năm học, dạy trong 35 tuần. Trong đó, thời lượng dành cho nội dung cốt lõi là 70 tiết.

          Mục tiêu quan trọng

          GS Đinh Quang Báo - Chủ biên chương trình (CT) môn Sinh học cho biết - môn Sinh học góp phần hình thành, phát triển ở học sinh (HS) các phẩm chất chủ yếu, năng lực chung cốt lõi và năng lực chuyên môn; phát triển ở HS năng lực nhận thức kiến thức sinh học, năng lực tìm tòi, khám phá thế giới sống và năng lực vận dụng kiến thức sinh học vào thực tiễn thông qua việc hệ thống hoá, củng cố kiến thức, phát triển kỹ năng và giá trị cốt lõi của sinh học đã được học ở giai đoạn giáo dục cơ bản. CT môn Sinh học cũng giúp HS tiếp tục tìm hiểu các khái niệm, quy luật sinh học làm cơ sở khoa học cho việc ứng dụng tiến bộ sinh học, nhất là tiến bộ của công nghệ sinh học vào thực tiễn đời sống; trên cơ sở đó HS định hướng được ngành nghề để tiếp tục học và phát triển sau THPT.

          Trả lời câu hỏi “Mục tiêu định hướng nghề nghiệp được thể hiện trong CT môn Sinh học như thế nào?”, GS Đinh Quang Báo cho biết, CT định hướng theo 2 giai đoạn; giai đoạn 1 được coi như nền tảng cốt lõi phổ thông đã hoàn thành, giai đoạn 2 được linh hoạt thiết kế theo hướng gắn với ứng dụng công nghệ. Nội dung sinh học được lựa chọn dựa trên các lĩnh vực công nghệ sinh học hiện đại. Ví dụ: Công nghệ tế bào, sinh học phân tử, di truyền học người, sinh thái nhân văn… Nội dung sinh học đi theo logic để tạo mô hình ứng dụng công nghệ sinh học.

Giới thiệu nhập môn Sinh học được giới thiệu các lĩnh vực ngành nghề liên quan đến tri thức sinh học. Trong mỗi chủ đề nội dung đều giới thiệu các ngành nghề liên quan đến chủ đề nội dung đó, mỗi chuyên đề cố gắng đi sâu vào một số lĩnh vực ngành nghề. Trong các năng lực môn học hướng tới năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn được mô tả thành cấu trúc rõ ràng để trong dạy học GV hướng tới hình thành và phát triển năng lực cho HS.

          “Phương pháp dạy học cố gắng tạo ra các tình huống ứng dụng để vừa học nội dung lý thuyết vừa giải quyết vấn đề ứng dụng thực tiễn lý thuyết đã học. Trong định hướng kiểm tra đánh giá cố gắng kiểm tra khả năng HS sử dụng kiến thức sinh học giải quyết vấn đề thực tiễn và ứng dụng công nghệ. Việc giới thiệu các ngành nghề chưa có điều kiện cho HS thực hành nghề sinh học hiện đại vì đòi hỏi nhiều trang thiết bị phổ thông chưa đáp ứng nên một số quy trình công nghệ được giới thiệu bằng các video/clip và khuyến khích cho HS tham quan các cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại” - GS Đinh Quang Báo chia sẻ thêm.

Môn Sinh học ở chương trình giáo dục phổ thông 2022 có vai trò và tính chất nổi bật là gì

  • Các tiết thực hành thông qua hướng dẫn của giáo viên giúp học sinh phát huy đầy đủ khả năng trong môn học

Thể hiện rõ định hướng phát triển năng lực

          Với yêu cầu cần đạt về phẩm chất, GS Đinh Quang Báo cho biết: Môn Sinh học giáo dục cho HS tình yêu thiên nhiên; tự hào với sự đa dạng và phong phú của tài nguyên sinh vật Việt Nam, đồng thời giáo dục các em trách nhiệm công dân trong việc giữ gìn, phát huy, bảo tồn sự đa dạng, phong phú của tài nguyên sinh vật trên Trái đất. HS sẽ được giáo dục, rèn luyện các đức tính như chăm chỉ, trung thực trong học tập, trong tìm tòi, khám phá khoa học, thái độ và trách nhiệm đúng đắn trong bảo vệ môi trường, phát triển bền vững quốc gia, toàn cầu... Tất cả những phẩm chất đó được giáo dục theo cách tích hợp xuyên suốt các chủ đề nội dung môn Sinh học.

          Yêu cầu cần đạt về năng lực chung, môn Sinh học có nhiều ưu thế hình thành và phát triển các năng lực chung: Năng lực tự chủ và tự học; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Về năng lực đặc thù: Môn Sinh học hình thành và phát triển cho HS các năng lực sinh học: Nhận thức kiến thức sinh học; tìm tòi và khám phá thế giới sống; vận dụng kiến thức sinh học vào thực tiễn. Các năng lực chuyên môn này được thể hiện theo các mức độ từ thấp lên cao gắn với các chủ đề sinh học từ lớp 10 - 12.

         Thực chất của việc hình thành, phát triển năng lực là tổ chức học tích hợp. Vì vậy, nội dung CT thiết kế các chủ đề mang tính khái quát, ở đó kết nối được nhiều nội dung khác nhau mà trước đây rời rạc. Chính kết nối ấy vừa có tác dụng nhận thức kiến thức khách quan hơn, đồng thời qua đó HS có khả năng nghiên cứu khoa học và vận dụng kiến thức vào thực tiễn, vì khi vận dụng kiến thức vào thực tiễn đòi hỏi HS không chỉ vận dụng kiến thức của một môn học mà của nhiều môn học khác. Khi đánh giá cần đánh giá thông qua HS giải quyết các tình huống. Thực chất các tình huống là các bài tập, câu hỏi, dự án đòi hỏi tích hợp các kiến thức, kĩ năng, thái độ ở những phạm vi khác nhau.

          Nói cụ thể về năng lực nhận thức sinh học, GS Đinh Quang Báo nhắc đến việc trình bày, giải thích, vận dụng được các kiến thức sinh học cốt lõi về các đối tượng, sự kiện, khái niệm và các quá trình sinh học; những thuộc tính cơ bản về các cấp độ tổ chức sống từ phân tử, tế bào, cơ thể, quần thể, quần xã – hệ sinh thái, sinh quyển. Từ nội dung kiến thức sinh học về các cấp độ tổ chức sống, HS khái quát được các đặc tính chung của thế giới sống là trao đổi chất và chuyển hoá năng lượng; sinh trưởng và phát triển; cảm ứng; sinh sản; di truyền, biến dị và tiến hoá.

          Năng lực tìm hiểu thế giới sống: Tìm tòi, khám phá các hiện tượng trong tự nhiên và trong đời sống liên quan đến sinh học, bao gồm: Đề xuất vấn đề; đặt câu hỏi cho vấn đề tìm tòi, khám phá; đưa ra phán đoán, xây dựng giả thuyết; lập kế hoạch thực hiện; thực hiện kế hoạch; viết, trình bày báo cáo và thảo luận; đề xuất các biện pháp giải quyết vấn đề trong các tình huống học tập, đưa ra quyết định...

          Năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng: Giải thích những hiện tượng thường gặp trong tự nhiên và đời sống hàng ngày liên quan đến sinh học; giải thích, bước đầu nhận định, phản biện một số ứng dụng tiến bộ sinh học nổi bật trong đời sống.

          Trả lời câu hỏi “Định hướng phát triển năng lực được thể hiện trong CT môn Sinh học như thế nào?”, GS Đinh Quang Báo chia sẻ: CT môn Sinh học vừa phải thể hiện năng lực chung và năng lực chuyên môn. Mỗi năng lực được mô tả thành cấu trúc với năng lực thành tố và mỗi thành tố được thể hiện bằng các kĩ năng tiến trình/các động từ hành động.

          Khi tổ chức dạy học từng chủ đề nội dung cần tích hợp cả năng lực chung và năng lực chuyên môn. Việc tích hợp này được thể hiện ở yêu cầu cần đạt/chuẩn đầu ra, được mô tả bằng các động từ hành động thể hiện ở những mức độ khác nhau của năng lực. Các mức độ này đã được kí hiệu trong các bảng mô tả năng lực.

          Dựa vào các động từ hành động/ kĩ năng tiến trình để khi biên soạn SGK và khi tổ chức dạy học thiết kế một chuỗi các tình huống yêu cầu HS giải quyết để bộc lộ năng lực vì HS phải sử dụng tích hợp các kiến thức, kĩ năng khác nhau theo các phạm vi khác nhau. Ngoài ra, trong dạy học cần sử dụng các PPDH tích cực như dự án, trải nghiệm, thực hành nhằm phát triển năng lực người học.

          Những kế thừa từ CT hiện hành

          CT môn Sinh học tuân thủ việc kế thừa CT hiện hành, vì quá trình phát triển CT đi theo đường xoắn ốc. CT mới kế thừa CT hiện hành ở những điểm sau:

          Các đơn vị nội dung kiến thức được cấu trúc lại theo định hướng tích hợp phát triển năng lực và ngành nghề. CT mới không làm đảo lộn trật tự kế hoạch thực hiện tiến trình dạy học các nội dung ở các lớp. Điều này thuận lợi cho GV vốn đang quen với sự sắp xếp kế hoạch hiện nay. Điều này cũng phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của HS phổ thông. CT mới cũng tiếp tục quán triệt tiếp cận hệ thống để xác định các cấp độ tổ chức của thế giới sống. Chú trọng phát triển kĩ năng thực hành thí nghiệm và ứng dụng thực tiễn; Vẫn định hướng dạy học tích cực.

          CT môn Sinh học mới cũng tiếp cận với xu hướng thế giới, thể hiện ở việc: Khi xác định các năng lực chuyên môn và các kĩ năng tiến trình đã tiếp thu xu hướng thế giới. Việc lựa chọn nội dung phản ánh các thành tựu sinh học hiện đại của thế giới cả về lý thuyết và công nghệ. Việc thiết kế các chủ đề, các mạch nội dung cũng tham khảo CT của các nước trên thế giới. Hiện nay, trên thế giới có xu hướng dạy khái quát hóa nội dung nên CT đã được thiết kế theo xu hướng đó, thể hiện sự tiếp cận tích hợp các mạch nội dung. Các phương pháp dạy học đặc biệt là tổ chức học tập trải nghiệm và kiểm tra đánh giá HS đều tiếp cận xu hướng thế giới.

          Nội dung giáo dục cốt lõi

          Theo chương trình môn Sinh học được Bộ GD&ĐT công bố, nội dung GD cốt lõi của môn học bao quát các cấp độ tổ chức sống, gồm: Phân tử, tế bào, cơ thể, quần thể, quần xã - hệ sinh thái, sinh quyển. Kiến thức về mỗi cấp độ tổ chức sống bao gồm: Cấu trúc, chức năng; mối quan hệ giữa cấu trúc, chức năng và môi trường sống.

          Từ kiến thức về các cấp độ tổ chức sống, chương trình môn học khái quát thành các đặc tính chung của thế giới sống như: Trao đổi chất và chuyển hoá năng lượng, sinh trưởng và phát triển, sinh sản, cảm ứng, di truyền, biến dị và tiến hoá.          Thông qua các chủ đề nội dung, chương trình môn học trình bày các thành tựu công nghệ sinh học trong chăn nuôi, trồng trọt, xử lí ô nhiễm môi trường, nông nghiệp và thực phẩm sạch; trong y - dược học.

          Bên cạnh nội dung GD cốt lõi, trong mỗi năm học, những HS có thiên hướng hoặc hứng thú với sinh học và công nghệ sinh học được chọn học một số chuyên đề học tập. Hệ thống các chuyên đề học tập môn Sinh học chủ yếu được phát triển từ nội dung các chủ đề sinh học ứng với chương trình mỗi lớp 10, 11, 12. Các chuyên đề nhằm mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng thực hành, tìm hiểu ngành nghề để trực tiếp định hướng, làm cơ sở cho các quy trình kĩ thuật, công nghệ thuộc các ngành nghề liên quan đến sinh học.

          Nội dung các chuyên đề hướng đến các lĩnh vực của nền công nghiệp 4.0 như: Công nghệ sinh học trong nông nghiệp, y - dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo... Các lĩnh vực công nghệ này ứng dụng theo cách tích hợp các thành tựu không chỉ của sinh học mà còn của các khoa học liên ngành (giải trình tự gene, bản đồ gene, liệu pháp gene...), trong đó công nghệ thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng.

          Học xong chương trình Sinh học lớp 10, HS củng cố, hệ thống hoá được các kiến thức, kĩ năng đã học ở giai đoạn GD cơ bản, đặc biệt từ môn Khoa học tự nhiên. Thông qua các chủ đề sinh học hiện đại như sinh học tế bào, sinh học vi sinh vật và virus, sinh học và phát triển bền vững, sinh học trong tương lai, công nghệ tế bào, công nghệ enzyme, công nghệ vi sinh vật...

          HS vừa được trang bị cách nhìn tổng quan về thế giới sống, làm cơ sở cho việc tìm hiểu các cơ chế, quá trình, quy luật hoạt động của các đối tượng sống thuộc các cấp độ tế bào, cơ thể và trên cơ thể; vừa có hiểu biết khái quát về sinh học, công nghệ sinh học và vai trò của sinh học đối với con người.

          Học xong chương trình Sinh học 11, HS phân tích được các đặc tính chung của tổ chức sống cấp độ cơ thể, trong đó phần sinh học cơ thể động vật chú trọng cơ thể người, từ đó HS được thực hành ứng dụng liên quan đến trồng trọt, chăn nuôi, y học, bảo vệ sức khoẻ. Sinh học 11 được trình bày theo các quá trình sống cấp độ cơ thể tương đồng ở thực vật và động vật, ở mỗi quá trình sống trình bày khái quát những đặc điểm chung cho cấp độ cơ thể, sau đó đi sâu nghiên cứu những điểm đặc trưng ở cơ thể thực vật và cơ thể động vật.

          Học xong chương trình Sinh học lớp 12, HS phân tích được các đặc tính cơ bản của tổ chức sống: Di truyền, biến dị, tiến hoá, quan hệ với môi trường. Các chủ đề này giúp HS phân tích sâu hơn về sinh học các cấp độ trên cơ thể: Quần thể, quần xã - hệ sinh thái; sinh quyển và khái niệm về loài, cơ chế hình thành đa dạng sinh học; từ đó tìm hiểu sâu hơn về cơ sở sinh học của các giải pháp công nghệ như công nghệ gene, kiểm soát sinh học, sinh thái nhân văn.

Môn Sinh học ở chương trình giáo dục phổ thông 2022 có vai trò và tính chất nổi bật là gì

Bài tập thực hành là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực HS trong môn học. Ảnh: Đức Chiêm

            Định hướng phương pháp và đánh giá kết quả giáo dục

          Theo GS Đinh Quang Báo, định hướng chung về phương pháp GD của chương trình môn Sinh học gồm: Dạy học tích hợp là cách tiếp cận xuyên suốt các phương pháp, hình thức dạy học. Rèn luyện được cho HS phương pháp nhận thức, kỹ năng học tập, thao tác tư duy. Thực hành thí nghiệm, hoạt động trải nghiệm trong môi trường tự nhiên, thực tiễn đời sống cá nhân và xã hội. Tăng cường phối hợp hoạt động học tập cá nhân với học tập hợp tác nhóm nhỏ.

          Một số phương pháp đặc trưng dạy học Sinh học có thể nói tới: Dạy học dự án ứng dụng công nghệ sinh học; dự án tìm hiểu các vấn đề sinh học trong thực tiễn. Dạy học thông qua thực hành trong phòng thí nghiệm, ngoài thực địa. Dạy học sử dụng các thí nghiệm ảo. Dạy học thông qua tham quan các cơ sở sản xuất nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, các nhà máy sản xuất công nghệ. Dạy học thông qua nghiên cứu khoa học.

          Kiểm tra, đánh giá môn học phải thực hiện được các chức năng chính sau: Kiểm tra, đánh giá có chức năng kép là đánh giá mức độ đạt được yêu cầu cần đạt và phương pháp dạy học. Kết hợp kiểm tra, đánh giá quá trình với đánh giá tổng kết; đánh giá định tính với đánh giá định lượng, trong đó đánh giá định lượng phải dựa trên đánh giá định tính được phản hồi kịp thời, chính xác. Kiểm tra, đánh giá được phối hợp nhiều hình thức khác nhau bảo đảm đánh giá toàn diện nội dung, năng lực chung, năng lực đặc thù môn học, phẩm chất. Đánh giá yêu cầu tích hợp nội dung, kỹ năng để giải quyết vấn đề nhận thức và thực tiễn. Đây là phương thức hiệu quả đặc trưng cho đánh giá năng lực HS.

          Để đáp ứng các yêu cầu trên, trong dạy học Sinh học, chú trọng đánh giá kỹ năng thực hành sinh học, đánh giá các kĩ năng tiến trình như quan sát thiên nhiên, thực hiện các dự án điều tra, tìm hiểu thiên nhiên, ứng dụng kiến thức sinh học trong đời sống…

          Điều kiện thực hiện chương trình

          Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, vì vậy, thực hành thí nghiệm vừa là nội dung, vừa là phương pháp, phương tiện dạy học. Mặt khác, chương trình đổi mới theo hướng phát triển kĩ năng gắn lý thuyết với thực hành, học lý thuyết bằng thực hành.

          Với yêu cầu đó, theo GS Đinh Quang Báo, cần trang bị các thiết bị, phương tiện dạy học đa dạng về chủng loại: Tranh, ảnh, mô hình, mẫu vật thật, dụng cụ, vật liệu, hoá chất, thiết bị kỹ thuật nghe nhìn, các loại máy móc. Thiết bị và phương tiện dạy học có thể được các công ty thiết bị sản xuất, cung cấp hoặc do giáo viên tự chế tạo bằng các nguyên liệu dễ kiếm, chi phí thấp ở địa phương. Thiết bị dạy học chủ yếu được kế thừa những gì đã trang bị cho chương trình hiện hành.

          Mỗi trường học cần có phòng thực hành thí nghiệm. Phấn đấu để có phòng bộ môn hiện đại, vườn thực nghiệm. Trong điều kiện các trường chưa có điều kiện trang bị, các trường cần phối hợp với các cơ sở có thiết bị hiện đại tạo điều kiện cho HS học tập. Ngoài ra, mỗi trường cần có nhân viên bảo quản, hướng dẫn sử dụng phòng thực hành.

          Riêng với giáo viên, GS Đinh Quang Báo lưu ý: Khi thực hiện tổ chức dạy học theo chương trình môn Sinh mới, giáo viên có thể gặp một số khó khăn vì chưa tiếp cận một cách đầy đủ với các mô hình kĩ thuật và công nghệ hiện đại. Cùng với đó là khó khăn trong việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực HS như dạy học dự án, dạy học trải nghiệm, dạy học thực hành do một số lý do khách quan và chủ quan. Khó khăn trong việc đánh giá năng lực HS, đánh giá tiến trình học tập.

          “Các khó khăn này có thể khắc phục những khó khăn trên thông qua tổ chức tập huấn, đặc biệt là tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Hình thức tập huấn có hiệu quả là xây dựng đội ngũ giáo viên cốt cán môn học và để tổ chức hoạt động phát triển chương trình nhà trường, trong đó các giáo viên môn học trở thành nhóm nghiên cứu bài học, thiết kế bài học, kế hoạch dạy học. Việc quản lý trường học, dạy học và giáo viên ở đơn vị nhà trường đóng vai trò quyết định” - GS Đinh Quang Báo cho hay./.

Theo báo GD&TĐ