Người dân Litva tụ tập ở thủ đô Vilnius để đòi tách khỏi Liên Xô (Nguồn -baobinhdinh.vn) Tính cấp thiết phải tiến hành đổi mới kinh tế đất nước nhìn từ bình diện quốc tế
Quy luật vận động của mọi quốc gia là phải luôn cải cách để phát triển. Các nước xã hội chủ nghĩa cũng nằm trong sự vận động tất yếu đó. Công cuộc cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đòi hỏi tất yếu trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là sự tự nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội nhằm khắc phục những sai lầm, hạn chế đã mắc phải, tìm con đường phát triển thích hợp với bối cảnh của thời đại. Vào đầu những năm 1980, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bắt đầu bộc lộ sự lạc hậu. Trong xây dựng kinh tế, các quốc gia này chỉ duy trì quan hệ khép kín trong Hội đồng Tương trợ kinh tế (Khối SEV). Điều này đi ngược xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ. Quan hệ giữa các Đảng Cộng sản và các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng mắc nhiều sai lầm. Một khuôn mẫu Xô Viết đã áp đặt cho hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa mà bỏ qua sự khác nhau về lịch sử, xã hội, địa lý, văn hóa cũng như điểm xuất phát và những điều kiện riêng của từng nước. Những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, những sai lầm trong thực tiễn chậm được phát hiện, những hậu quả chưa khắc phục kịp thời, cùng với sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” đã đẩy các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào sự khủng hoảng toàn diện. Lòng tin của người dân vào Đảng Cộng sản ở các nước, vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội giảm sút nghiêm trọng. Thực tiễn đó, đặt ra yêu cầu các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong đó, có Việt Nam phải tiến hành cải cách, đổi mới đất nước toàn diện. Sự sụp đổ CNXH của các nước Đông Âu (Nguồn-nghiencuulichsu.com)Nhận thức rõ tính cấp bách phải khắc phục được những khó khăn, hạn chế và sai lầm nảy sinh từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều Đảng Cộng sản cầm quyền đã chủ động tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới đất nước như Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1978, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Lao động Triều Tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam từ nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Thực tiễn cho thấy Trung Quốc, Việt Nam, Cuba từng bước vượt qua khủng hoảng, đạt được nhiều thành tựu đáng kể về chính trị, xã hội, kinh tế sau thời gian cải cách, đổi mới đất nước. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân nên kết quả ở mỗi nước xã hội chủ nghĩa không hoàn toàn giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Một số Đảng Cộng sản không tìm ra lối đi thích hợp, dao động hoặc xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, mất cảnh giác trước thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc nên công cuộc cải tổ, đổi mới đất nước lâm vào bế tắc và thất bại. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20 là minh chứng sinh động cho nhận định này. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới kinh tế đất nước Thực tiễn cho thấy để tiếp tục giữ vững chế độ, ổn định đời sống của người dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại. Quá trình này đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân không ngừng tìm tòi, sáng tạo có tính cách mạng. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam 1986 (Nguồn-daihoi13.dangcongsan.vn)Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 9/1979) được đánh giá là mốc khởi đầu của công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta. Tại Hội nghị này, lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ những quan điểm, chủ trương cơ bản này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, thể chế mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá như Chỉ thị 357 của Chính phủ cho phép nông dân được nuôi và mua bán trâu bò; Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư về “cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”… Hội nghị Trung ương 6 khóa V (7/1984) đã nhận định nền kinh tế nước ta hiện nay đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý năng động, có khả năng bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bảo thủ trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng đắn tập trung dân chủ. Tiếp đến tại Hội nghị Trung ương 7 khóa V (12/1984), Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục khẳng định, điều quan trọng nhất hiện nay là phải kiên quyết nhanh chóng bãi bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển toàn bộ nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của Việt Nam hôm nay là minh chứng cho sự đúng đắn về chủ trương đổi mới đất nước của Đảng (Nguồn-voh.com.vn)Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6/1985) có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc cải cách kinh tế đất nước. Hội nghị tập trung bàn và quyết định việc cải cách một bước giá cả, tiền lương, tài chính và tiền tệ để bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Trung ương 8 đã đáp ứng nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước. Những chuyển biến mới, tích cực của đất nước trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương dứt khoát cải cách toàn diện, sâu sắc nền kinh tế đất nước của Đảng. Đến cuối năm 1985, đầu năm 1986, do ảnh hưởng từ những biến động chính trị của thế giới, đặc biệt sự khủng hoảng trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, tình hình Việt Nam hết sức nguy cấp. Trước hoàn cảnh đó, trong Nghị quyết số 31/NQ/TW ban hành ngày 24/2/1986, Bộ Chính trị nhấn mạnh cần có những biện pháp xử lý kiên quyết, đúng đắn, nhanh chóng xoay chuyển tình thế, đưa hoạt động kinh tế - xã hội đất nước theo đúng hướng mà các Nghị quyết 6, 7, 8 Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra. Tiếp đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam. Đại hội khẳng định quan điểm đổi mới quản lý kinh tế như sau: (i) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên cơ sở đổi mới cơ cấu kinh tế, chấp nhận kinh tế nhiều thành phần và chuyển sang nền sản xuất hàng hóa. (ii) Kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý có kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. (iii) Cả nước là một thị trường thống nhất, có nhiều thành phần kinh tế tham gia; Nhà nước bỏ quyền định giá, giữ giá, thay vào đó điều tiết giá bằng các biện pháp, công cụ kinh tế. Sau năm 1986, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng ta tiếp tục diễn ra từng bước theo hướng vừa làm vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung, cải tiến trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm của thực tiễn. Đảng ta từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế cũ, dần hình thành cơ chế mới - cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành công to lớn trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước sau gần 40 năm đã chứng minh định hướng, chủ trương và phương thức đổi mới của Đảng là đúng đắn. Mặt khác, những thành công đó đã cho thấy khả năng lãnh đạo đất nước xoay chuyển tình thế, kịp thời thích nghi với bối cảnh chính trị - kinh tế mới của quốc tế nhưng vẫn giữ được những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nguyễn Hồ Phong Tin liên quan
Đồng chí Nguyễn Văn Linh với những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước
Nhân kỷ niệm 95 năm ngày sinh của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1/7/1915 – 1/7/2010), xin trân trọng giới thiệu bài viết “ Đồng chí Nguyễn Văn Linh với những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước” của PGS.TS Hoàng Trang (Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh):
Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng mở ra thời kỳ mới của cách mạng nước ta - thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Trước Đại hội VI, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã thể hiện trí tuệ và bản lĩnh của một nhà lãnh đạo kiên định, sáng tạo trong tìm tòi đổi mới cho cách mạng Việt Nam. Khởi xướng và lãnh đạo đổi mới, tại Đại hội VI, Đảng ta đã trao trách nhiệm cho đồng chí Nguyễn Văn Linh là người đứng đầu – là Tổng Bí thư của Đảng. Với cương vị mới, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người cầm lái số 1 con thuyền cách mạng Việt Nam ở những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước – là thời điểm cực kỳ khó khăn và đầy bất trắc.
Trước đổi mới, cách mạng nước ta đã phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm kéo dài, duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp khi nó không còn phù hợp nữa; lại rơi vào tư tưởng nóng vội - chủ quan, duy ý chí, “đốt cháy giai đoạn” cả trong cải tạo và xây dựng khi cả nước đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đất nước chìm sâu trong khủng hoảng kinh tế - xã hội, sản xuất trì trệ, các chỉ tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1981-1985) đều không đạt, nhiều lĩnh vực mức tăng trưởng là số âm, lạm phát tăng phi mã (774%-1986), giá cả tăng vọt, đời sống của cán bộ, công chức và nhân dân vô cùng khó khăn, hơn 7 triệu người thiếu đói, dự trữ quốc gia đặc biệt là ngoại tệ cực thấp. Nhà nước không có tiền trả lương cho cán bộ, công nhân viên. Tiêu cực xã hội phát triển rộng khắp, công bằng xã hội bị vi phạm, kỷ cương pháp luật không nghiêm. Tất cả dẫn tới tình trạng niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước bị suy giảm nặng.
Khi đất nước khủng hoảng kinh tế - xã hội nặng nề thì tình hình thế giới diễn biến ngày càng xấu, bất lợi cho ta. Chủ nghĩa xã hội ngày càng lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc. Cải tổ ở Liên Xô có nhiều sai lầm chủ quan, lại bị tấn công từ bên ngoài nên liên tiếp bị thất bại, rồi từng bước thoả hiệp, đầu hàng. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và châu Âu đứng trước khả năng bị sụp đổ. Sau Đại hội VI, Việt Nam chẳng những không còn nhận được viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, mà trao đổi ngang giá cũng chững lại, thị trường xuất khẩu của nước ta ngày càng bị thu hẹp.
Cùng lúc các thế lực đế quốc và phản động quốc tế triệt để lợi dụng tình hình để vu cáo, xuyên tạc, thực hiện “diễn biến hoà bình”, chúng rêu rao “Việt Nam xâm lược Cămpuchia”, rồi ra sức bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam tới mức cao nhất có thể nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã hy sinh xương máu nhiều thế hệ mới lập nên.
Tình hình thế giới và trong nước như vậy, Đảng ta và đồng chí Nguyễn Văn Linh đều nhận thấy: đổi mới thì sống, không đổi mới thì chết. Nhưng đổi mới như thế nào thì thắng lợi, thì sống. Như vậy trong mối bòng bong của những vấn đề trong nước và quốc tế chằng chịt, đan xen vô cùng phức tạp rối ren mà không biết đổi mới bắt đầu từ đâu, theo phương châm, tư tưởng chỉ đạo và nguyên tắc nào để gỡ mối đi ra thì đổi mới cũng có thể chết. Trọng trách này trước hết đặt trên vai người đứng đầu Đảng - đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Nắm vững quyết tâm của Đại hội VI là phải tìm ra những quyết sách làm xoay chuyển tình hình, tạo bước ngoặt cho cách mạng nước ta trong đổi mới, mà trước tiên nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội; ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân cả vật chất và tinh thần, đồng chí Nguyễn Văn Linh suy nghĩ, trăn trở tìm khâu đột phá đầu tiên cho đổi mới. Ngay sau Đại hội VI, đồng chí triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ hai và chọn vấn đề phân phối, lưu thông làm chủ đề cho Hội nghị. Tại Hội nghị, đồng chí phân tích: “Phân phối, lưu thông bao gồm nhiều bộ phận hợp thành như giá cả, lưu thông vật tư hàng hóa, tài chính – ngân sách, ngân hàng - tiền lương… Phân phối, lưu thông vừa là điều kiện, vừa là kết quả của sản xuất. Như vậy, giải quyết vấn đề phân phối, lưu thông có liên quan chặt chẽ với quá trình sản xuất, với tổng thể cơ chế quản lý nền kinh tế quốc dân… Làm được việc đó, chắc chắn sẽ là bước khởi đầu tốt đẹp, tạo đà chuyển biến mạnh mẽ cho những bước sau”. Trung ương bàn thảo rất kỹ và đi tới thống nhất lấy phân phối, lưu thông làm khâu đột phá đầu tiên của đổi mới.
Đồng chí Nguyễn văn Linh cho thấy, nguyên nhân trực tiếp của lạm phát phi mã ở nước ta là bội chi ngân sách liên tục làm cho giá cả rối ren, tăng vọt, đời sống của cán bộ và nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đồng chí chỉ đạo thực hiện ngay bốn giảm: giảm tốc độ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát và giảm khó khăn về đời sống của nhân dân; và thi hành một số biện pháp cấp bách: tách hệ thống tài chính ra khỏi ngân hàng, lập kho bạc nhà nước, bơm tiền cho lưu thông, mở rộng giao lưu hàng hóa, xoá bỏ “ngăn sông, cấm chợ”… Những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn này được các cơ quan Nhà nước triển khai kịp thời, đồng bộ và kiên quyết đã tác động tích cực và mạnh mẽ đến quá trình sản xuất và lưu thông, tháo gỡ những ách tắc cho “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất, đã xử lý đúng đắn các lợi ích kinh tế tạo ra động lực cho sản xuất phát triển; tình trạng khan hiếm nhiều loại hàng hoá đã được khắc phục từng bước; tiền lương, giá cả, ngân sách, lãi suất ngân hàng dần dần được giải quyết tốt; lạm phát từ ba con số (1987) đã giảm xuống hai con số (61% năm 1991).
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội VI khẳng định “nông nghiệp phải thật sự là mặt trận hàng đầu”. Thực hiện nghị quyết Đại hội VI, đồng chí Nguyễn Văn Linh đặc biệt chú ý chỉ đạo giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp . Theo đồng chí, để thực hiện thành công ba chương trình kinh tế lớn là sản xuất lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất hàng xuất khẩu, thì trong việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phải lấy mặt trận nông nghiệp làm khâu đột phá. Năm 1988, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị, đánh giá mặt được và những hạn chế sau 7 năm thực hiện “khoán 100” trong nông nghiệp, và đi tới Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị (khoán 10). Nghị quyết này đi nhanh vào cuộc sống đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất trong nông nghiệp, chỉ sau một năm từ một nước hằng năm phải nhập nửa triệu tấn lương thực, thì năm 1989 Việt Nam đã sản xuất đủ nhu cầu trong nước, còn xuất khẩu được hơn 1 triệu tấn gạo, từ đây xuất khẩu gạo hàng năm của ta liên tục tăng.
Cùng thời gian lãnh đạo thực hiện những đột phá trên lĩnh vực kinh tế - tài chính, thực hiện phương châm của Đại hội VI: dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật , đồng chí Nguyễn Văn Linh đã khởi xướng chuyên mục "Những việc cần làm ngay" trên báo chí. Ngày 25-5-1987, báo Nhân dân đăng bài đầu tiên “Những việc cần làm ngay”, dưới ký tên N.V.L. Đồng chí Nguyễn Văn Linh nêu rõ: Thực hiện đổi mới, thì việc chống tiêu cực đã thành nhiệm vụ quan trọng dọn đường cho việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và các nghị quyết khác của Đảng nhằm đưa nước nhà khỏi cảnh khó khăn, đi đến ổn định tình hình mọi mặt, làm cho dân bớt khổ, ngày càng được hạnh phúc như Di chúc Bác Hồ đã dặn; làm cho xã hội ta đã tốt đẹp, càng tốt đẹp hơn, dân ta mới tin Đảng, Đảng mới càng hiểu dân, tin dân. Đồng chí đòi hỏi báo chí phải là vũ khí sắc bén, nhà báo phải là chiến sĩ dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực. Trên báo Nhân dân , ngày 24-6-1987, đồng chí viết: “Nhà báo phải có tấm lòng cương trực: yêu người làm đúng, làm tốt để ca ngợi; ghét kẻ làm xấu, làm sai, làm ác để lên án”. Cuộc đấu tranh chống tiêu cực được tác giả N.V.L khởi xướng đã mau chóng trở thành một phong trào rộng lớn trên báo chí và các phương tiện thông tin cả nước. Chính đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cảm nhận được: “Báo chí hưởng ứng đã có tác dụng tốt, tạo khí thế trong nhân dân để đẩy mạnh phê bình, tự phê bình, chống bọn tham nhũng, ăn cắp, ức hiếp nhân dân. Phải tiếp tục phanh phui các vụ, việc và xử lý thật nghiêm”.
Đổi mới ở Việt Nam giành thắng lợi là nhờ ngay từ đầu đã xác định rõ mục tiêu, nội dung, phương châm, tư tưởng chỉ đạo cốt lõi và nguyên tắc của đổi mới. Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã có cống hiến to lớn trong việc xác định những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới của dân tộc. Những nguyên tắc này được hình thành ở Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (3-1989) và Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (8-1989); bổ sung và được hoàn thiện tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (3-1990). Những nguyên tắc này đã trở thành cơ sở để thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, là sự bảo đảm chắc chắn cho sự nghiệp đổi mới không bị chệch hướng xã hội chủ nghĩa và đi tới thành công. vắn tắt những nguyên tắc này gồm: Một là, đổi mới trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải kiên trì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, dứt khoát không chấp nhận con đường tư bản chủ nghĩa. Hai là, muốn đổi mới thắng lợi, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cách mạng Việt Nam phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ba là, Đảng chủ trương đổi mới toàn diện, cả kinh tế và chính trị, song đặt trọng tâm vào đổi mới kinh tế, việc đổi mới chính trị phải tiến hành tích cực nhưng vững chắc để mang lại kết quả thực tế, không gây ra sự mất ổn định về chính trị và làm phương hại đến công cuộc đổi mới nói chung. Bốn là ,muốn đổi mới thành công phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực, phải làm cho dân chủ thành lực đẩy của sự nghiệp cách mạng, thực hiện đúng đắn tư tưởng “lấy dân làm gốc”, khơi dậy sức dân, đặc biệt trong kinh tế. Năm là, trong quá trình đổi mới, phải tiếp tục giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh “đã nêu ra và kiên trì thực hiện đổi mới có nguyên tắc - đổi mới nhưng luôn luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra “…Nhờ vậy đã củng cố sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng, chấn chỉnh được những biểu hiện dao động, chệch hướng, mất niềm tin, đem lại định hướng vững chắc cho sự nghiệp đổi mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hiểu sâu sắc kết luận của Đại hội VI: “Những sai lầm và khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng - tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân”. Đồng chí đã tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ then chốt của đổi mới là đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đồng chí chỉ rõ: Đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy, trong đó trước hết là đổi mới tư duy lý luận. Từ sự yếu kém về lý luận của Đảng và thực tiễn con đường đổi mới chưa có tiền lệ, đồng chí xác định: “Để tiến hành công cuộc đổi mới ở bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội, cần phải chuẩn bị trước về cơ sở lý luận. Sự khám phá về lý luận phải là tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn”. Và trên sự dẫn đường của lý luận mà thiết kế cơ chế, xây dựng chính sách, biện pháp, rồi đem thực nghiệm ở nhiều nơi khác nhau, qua chọn lọc của thực tiễn, cái gì phù hợp, được cuộc sống chấp nhận, thì triển khai trên qui mô đại trà. Như vậy là lý luận luôn gắn với thực tiễn và từ tổng kết thực tiễn mà rút ra những kết luận mới bổ sung cho lý luận.
Cùng đổi mới tư duy lý luận, đồng chí Nguyễn Văn Linh chú ý đổi mới công tác cán bộ và thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư, Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã tự phê bình và phê bình trước Hội nghị Trung ương lần thứ tám (3-1990) về việc lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội VI. Những sai phạm về nguyên tắc đổi mới, tuyên truyền quan điểm đa nguyên, đa Đảng, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật Đảng đã bị phê phán nghiêm khắc và xử lý kỷ luật. Nhiệm vụ then chốt của đổi mới là xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thực hiện nghiêm túc và tích cực ngay từ buổi đầu công cuộc đổi mới, nhờ vậy đã củng cố được khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữ vững và phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng với cách mạng nước ta thực hiện sự nghiệp đổi mới.
Việt Nam khởi xướng đổi mới trong thế bị các thế lực đế quốc và phản động thế giới vu cáo, xuyên tạc, “ diễn biến hoà bình”, bao vây, cấm vận, cô lập cao độ và đe doạ lật đổ. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh quyết định điều chỉnh chính sách đối ngoại, phá thế bất lợi, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Quan điểm này được Hội nghị Bộ Chính trị (20-5-1988) bàn thảo và thống nhất trong Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị về điều chỉnh đường lối đối ngoại , tập trung giữ vững môi trường quốc tế hoà bình và phát triển kinh tế. Tổng Bí thư và Bộ Chính trị thống nhất xác định ba ưu tiên hàng đầu trong đối ngoại lúc này là: Rút quân khỏi Cămpuchia, bình thường hoá quan hệ Việt-Trung, và cải thiện đi tới bình thường hoá quan hệ với Mỹ.
Ngày 6/1/989, tại buổi lễ kỷ niệm lần thứ 10 Quốc khánh Cộng hòa nhân dân Cămpuchia, khi đó lực lượng của bạn đã đủ mạnh, đồng chí Nguyễn Văn Linh tuyên bố Việt Nam sẽ rút hết quân khỏi Cămpuchia vào tháng 9-1989. Sự kiện Việt Nam rút hết quân khỏi Cămpuchia đã vô hiệu hóa con bài của đối phương đòi “Việt Nam phải rút quân khỏi Cămpuchia”, đồng thời nó cũng mở đường cho việc xóa bỏ cấm vận của Mỹ, tiến tới bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Các nước phương Tây và ASEAN đã vượt qua lệnh cấm vận của Mỹ, bắt đầu làm ăn với Việt Nam .
Ngày 18-1-1989, Việt Nam và Trung Quốc gặp nhau ở cấp thứ trưởng ngoại giao về vấn đề Cămpuchia. Ngày 3 và 4-9-1990, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng đã có cuộc gặp gỡ bí mật với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng tại khách sạn Kim Ngưu ở Thành Đô - thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Hai bên đã nhanh chóng đi đến quyết định giải quyết vấn đề Cămpuchia và bình thường hoá quan hệ Việt – Trung.
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc đã mời đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và nhà nước Việt Nam sang thăm chính thức Trung Quốc vào tháng 11-1991. Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ văn Kiệt đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta sang thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc. Việc bình thường hóa quan hệ Việt-Trung đã đáp ứng lợi ích của hai nước, đồng thời góp phần vào tăng cường hòa bình, ổn định hợp tác ở khu vực; góp phần làm thay đổi tích cực tình hình Đông Nam Á; từ đây các nước ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, nhiều nước thuộc châu Á và cả Hoa Kỳ đã lần lượt bình thường hóa quan hệ và làm ăn với Việt Nam.
Những năm đầu đổi mới, với cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Linh còn tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao khác nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vị thế của nước Việt Nam trên trường quốc tế. Về quan hệ Việt-Mỹ, đồng chí tuyên bố với các nhà báo quốc tế rằng, “Việt Nam luôn luôn muốn có quan hệ tốt đối với nhân dân Mỹ, chính phủ Mỹ. Chiến tranh đã kết thúc 15 năm mà chưa có quan hệ bình thường là chậm. Việt Nam sẵn sàng giải quyết mọi trở ngại trên con đường bình thường hoá; trở ngại còn lại là ở phía Mỹ”.
Những năm đầu trong công cuộc đổi mới, với những hoạt động đối ngoại liên tục, tích cực, chủ động và nhạy bén, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã góp phần từng bước phá vỡ thế bao vây, cô lập của kẻ thù đối với Việt Nam, giảm áp lực chính trị - ngoại giao đối với nước ta khi chủ nghĩa xã hội trên thế giới khủng hoảng, mở ra bước chuyển mới trên thực tế thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Cũng trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã đi tới nhiều địa phương, nhiều cơ sở sản xuất công, nông nghiệp. Đồng chí đi theo kiểu Bác Hồ - không báo trước, không trống rong cờ mở mà chủ động, bất thần đến. Chính vì vậy, đồng chí được nghe, được thấy những sự thực của địa phương, của cơ sở. Đồng chí đã chỉ đạo giải quyết nhiều tiêu cực, khuất tất, oan sai mà đồng chí đã trực tiếp chứng kiến.
Những năm đầu của công cuộc đổi mới, khó khăn chồng chất, có lúc tưởng chừng đổi mới thất bại, cách mạng bị phản bội. Nhưng với tài năng và đức độ, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới vượt qua ghềnh thác và bão tố, từng bước giành thắng lợi và đặt những tiền đề quan trọng tiến thẳng theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiếp tục giành thắng lợi vẻ vang từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI./.
|