28-09-2009 Tăng tiểu cầu nguyên phát (Thrombocythemia) và Tăng tiểu cầu thứ phát (Thrombocytosis) là tình trạng tăng số lượng tiểu cầu trong máu vượt quá mức cho phép.
Bình thường có khoảng từ 150.000 đến 450.000 tiểu cầu mỗi microlít máu. I-Tổng quát - Thuật ngữ tăng tiểu cầu nguyên phát (Thrombocythemia) được dùng khi nguyên nhân của tăng tiểu cầu không được biết rõ. Tình trạng này xảy ra khi các tế bào bị lỗi trong tủy xương (abnormal megakaryocytes) tạo ra quá nhiều tiểu cầu. Tủy xương là mô xốp bên trong xương. Nó chứa những tế bào gốc sau đó phát triển thành các hồng cầu, bạch cầu, hoặc tiểu cầu. Lý do khiến tủy xương sản xuất ra quá nhiều tiểu cầu chưa được biết rõ. - Với tăng tiểu cầu nguyên phát (thrombocythemia), tiểu cầu tăng cao có thể xảy ra đơn độc hoặc đi kèm với rối loạn của các tế bào khác trong máu. Số tiểu cầu có thể dao động từ 500.000 đến hơn 1.000.000 tiểu cầu mỗi microlít máu. Tình trạng này thường không phổ biến. - Hầu hết những người có tiểu cầu cao đều không có dấu hiệu hoặc triệu chứng. - Hiếm khi gặp các tình trạng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng như đông máu và chảy máu. Các tình trạng này thường gặp ở những bệnh nhân có tăng tiểu cầu nguyên phát ( thrombocythemia). II-Quan Điểm Đối với những người tăng tiểu cầu nguyên phát nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng bệnh thì chưa cần điều trị, với điều kiện là sức khoẻ vẫn ổn định. Một số khác có thể cần phải dùng đến thuốc hay thủ thuật điều trị khác. Hầu hết những người có tăng tiểu cầu nguyên phát (thrombocythemia) có thời gian sống bình thường. Nhận định và điều trị tình trạng tăng tiểu cầu thứ phát (thrombocytosis) sẽ tuỳ thuộc vào nguyên nhân. III-Nguyên nhân gây tăng tiểu cầu nguyên phát (Thrombocythemia) và tăng tiểu cầu thứ phát (Thrombocytosis) A. Tăng tiểu cầu nguyên phát (Thrombocythemia) - Trong tình trạng này, các tế bào gốc trong tủy xương bị lỗi tạo ra quá nhiều tiểu cầu. Nguyên nhân gây ra điều này thường không được biết rõ. Khi quá trình này diễn ra mà không ảnh hưởng đến các tế bào máu khác, nó được gọi là tăng tiểu cầu bản chất (essential thrombocythemia). - Có một dạng tăng tiểu cầu nguyên phát hiếm gặp mang tính di truyền. Trong một số trường hợp, đột biến di truyền gây ra tình trạng đó. - Trong tăng tiểu cầu nguyên phát, các tiểu cầu không bình thường. Chúng có thể dưới hình thức huyết khối, hoặc ngược lại, gây chảy máu khi hoạt động không đúng mức. Chảy máu còn có thể xảy ra do một bệnh lý gọi là bệnh von Willebrand. Tình trạng này ảnh hưởng đến quá trình đông máu. Sau nhiều năm, bệnh có thể diễn tiến đến tình trạng tủy xương hoá sẹo. B. Tăng tiểu cầu thứ phát (Thrombocytosis) - Xảy ra khi một bệnh lý, một điều kiện, hoặc một tác nhân ngoại lai làm gia tăng số lượng tiểu cầu. Ví dụ, 35 % những người có tiểu cầu cao có thể bị thêm ung thư, đa số là ung thư phổi, ung thư ruột, ung thư vú, ung thư buồng trứng, và lymphoma. Đôi khi số lượng tiểu cầu cao lại chính là dấu hiệu đầu tiên của ung thư. - Ngược lại với tăng tiểu cầu nguyên phát, các tiểu cầu trong tăng tiểu cầu thứ phát thường là bình thường. - Những điều kiện hay yếu tố có thể gây tăng tiểu cầu
gồm: • Loãng xương • Stress • Phẫu thuật IV. Nguy cơ Tăng tiểu cầu nguyên phát và thứ phát A-Tăng tiểu cầu nguyên phát - Tình trạng này không phổ biến lắm. Số người bị bệnh chưa được biết chính xác. Ước tính có khoảng 1-2,5 trường hợp tăng tiểu cầu nguyên phát cho mỗi 100.000 người. Con số này có thể thấp hơn thực tế, vì hầu hết bệnh nhân thường không có triệu chứng và không biết là mình đang mắc bệnh. - Tăng tiểu cầu nguyên phát gặp chủ yếu trong độ tuổi từ 50 đến 70, nhưng có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Vì lý do chưa được biết rõ, tỉ lệ Tăng tiểu cầu nguyên phát cao hơn ở phụ nữ so với nam giới ở lứa tuổi 30. B. Tăng tiểu cầu thứ phát Đây là tình trạng phổ biến hơn tăng tiểu cầu nguyên phát. Trong hai nghiên cứu ở những người có số lượng tiểu cầu cao, hầu hết những người có số lượng tiểu cầu >500.000 đều là tăng tiểu cầu thứ phát. V-Dấu hiệu và triệu chứng của tăng tiểu cầu nguyên phát hoặc thứ phát Hầu hết những người tăng tiểu cầu nguyên phát hoặc thứ phát đều không có dấu hiệu hoặc triệu chứng bệnh lý. Các tình trạng này thường chỉ được phát hiện sau khi xét nghiệm máu định kỳ. A-Tăng tiểu cầu nguyên phát Thông thường, những người tăng tiểu cầu nguyên phát chỉ có triệu chứng ở mức độ nhẹ. Các triệu chứng phổ biến nhất liên quan đến huyết khối và xuất huyết. Đó là cảm giác yếu mệt, chảy máu, nhức đầu, tê bàn tay và bàn chân. - Huyết khối + Trong tăng tiểu cầu nguyên phát, cục máu đông thường phát triển ở não, tay và chân. Nhưng chúng cũng có thể xảy ra ở bất cứ vị trí nào trong cơ thể, kể cả ở tim và ruột. + Cục máu đông ở não gây ra các triệu chứng đối với 25 % số
bệnh nhân. Triệu chứng thường gặp là đau đầu và chóng mặt mãn tính. Có thể xảy ra đột quỵ trong những trường hợp nghiêm trọng. + Các dấu hiệu và triệu chứng của cục máu đông có thể bao gồm: - Xuất Huyết B-Tăng tiểu cầu thứ phát VI-Chẩn đoán A. Bệnh sử B. Khám Lâm
Sàng C. Các Xét nghiệm để Chẩn đoán Tiểu cầu tăng cao trong bệnh tăng tiểu cầu nguyên phát và thứ phát. Các tế bào máu, bao gồm cả tiểu cầu, được hình thành trong tủy xương. Chọc hút và sinh thiết là hai xét nghiệm tủy xương chủ yếu. -Chọc tủy để tìm hiểu xem tủy xương có sản xuất quá nhiều tiểu cầu hay không. Chọc hút bằng kim một ít chất lỏng từ tủy xương. Sau đó quan sát các mẫu dưới kính hiển vi để tìm kiếm các tế bào bị lỗi. - Sinh thiết tủy xương thường được thực hiện ngay sau khi chọc hút. Đối với thử nghiệm này, bác sĩ dùng kim rút một lượng nhỏ các mô tuỷ xương. Kiểm tra mô học để đánh giá số lượng các loại tế bào trong tủy xương. Trong những trường hợp tăng tiểu cầu nguyên phát và thứ phát, tuỷ xương chứa một số lượng đại bào (là những tế bào sản sinh ra tiểu cầu=megakaryocytes) cao hơn bình thường. + Các xét nghiệm khác Xét nghiệm máu để tìm các yếu tố di truyền có thể gây ra tình trạng tăng tiểu cầu. VII-Điều trị tăng tiểu cầu nguyên phát và thứ phát A. Tăng tiểu cầu nguyên phát - Hiện nay, tình trạng này được xem là ít nguy hiểm hơn so với trước kia và tiên lượng thường là tốt. Những bệnh nhân không có dấu hiệu hoặc triệu chứng thì không cần thiết phải điều trị, miễn là điều kiện sức khoẻ vẫn ổn định. - Dùng aspirin có thể hữu ích cho những người có nguy cơ huyết khối, vì aspirin ngăn ngừa cục máu đông. Tuy nhiên, cần thận trọng khi sử dụng aspirin, vì nó có thể gây chảy máu. Các bác sĩ đều dùng thuốc aspirin cho đa số những phụ nữ mang thai có tăng tiểu cầu nguyên phát vì aspirin không gây nguy cơ cao cho thai nhi. - Một số bệnh nhân tăng tiểu cầu nguyên phát có thể cần phải dùng đến thuốc hoặc thủ thuật y tế để giảm thiểu số lượng tiểu cầu của họ. - Thuốc làm giảm số lượng tiểu cầu Cần dùng thuốc để giảm số lượng tiểu cầu khi: B-Tăng tiểu cầu thứ phát - Tăng tiểu cầu thứ phát được xử lý bằng cách giải quyết những bệnh lý tiềm ẩn gây ra nó. - Tiểu cầu của họ nhìn chung là bình thường (khác với trường hợp tăng tiểu cầu nguyên phát). Ngoài ra, số lượng tiểu cầu của họ thường không đủ cao để gây nguy cơ cục máu đông hay chảy máu. VIII-Đề phòng tăng tiểu cầu nguyên phát và thứ phát - Không thể ngăn chặn được tăng tiểu cầu nguyên phát. Tuy nhiên, vẫn có thể thực hiện được các bước để giảm nguy cơ đông máu và ngăn ngừa các vấn đề liên quan. - Tuổi tác, tiền sử cục máu đông, đái tháo đường, tăng huyết áp, tăng cholesterol máu, và hút thuốc lá là tất cả các yếu tố nguy cơ của huyết khối. Để giảm tác hại, nên ngưng hút thuốc và kiểm soát các yếu tố nguy cơ khác. - Không phải lúc nào cũng ngăn chặn được các yếu tố dẫn đến tăng tiểu cầu thứ phát. Tuy nhiên, nếu thường xuyên được chăm sóc y tế, có thể sẽ sớm phát hiện những tác nhân này trước khi xuất hiện tình trạng tăng tiểu cầu. IX-Sống chung với tình trạng tăng tiểu cầu nguyên hoặc thứ phát - Nếu bị tăng tiểu cầu
nguyên hay thứ phát, cần chú ý đến những điều quan trọng sau đây: - Nếu đang dùng thuốc để giảm số lượng tiểu cầu, cần thông báo cho bác sĩ hoặc nha sĩ biết trước khi thực hiện bất kỳ thủ thuật, phẫu thuật hoặc can thiệp nha khoa nào. Những loại thuốc làm “loãng” máu có thể làm tăng chảy máu khi thực hiện các thủ thuật đó. Các loại thuốc làm “loãng” máu cũng có thể gây xuất huyết nội. Dấu hiệu của xuất huyết nội bao gồm các vết bầm tím, máu hoặc phân đen như hắc ín, nước tiểu màu hồng hoặc có máu, tăng chảy máu kinh nguyệt, chảy máu nướu răng, và chảy máu cam. Liên hệ ngay với bác sĩ nếu có các dấu hiệu kể trên. - Tránh dùng các thuốc giảm đau bán tự do như ibuprofen (ngoại trừ paracetamol). Các loại thuốc này có thể làm tăng nguy cơ xuất huyết tiêu hoá nhưng lại hạn chế tác dụng của aspirin. - Cần nhận biết rằng những thuốc điều trị cảm lạnh, thuốc giảm đau và một số thuốc khác được bán không cần toa bác sĩ có thể chứa ibuprofen. BS. ĐỒNG NGỌC KHANH - BV Đa Khoa Hoàn Mỹ Sài Gòn |