Phủ định biện chứng là gì nêu đặc điểm khác

Phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép Biện chứng duy vật do Mác, Ăngghen sáng lập dựa trên những tiền đề khoa học của các nhà triết học tiền bối.

Quy luật phủ định của phủ định nói lên rằng: bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong. Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là tính khách quan và tính kế thừa. Phủ định biện chứng mang tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển, vì thế, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực.

Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, giữa sự khẳng định với sự phủ định, quá khứ với hiện thực. Phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ ra khuynh hướng, con đường phát triển của các sự vật và hiện tượng. Phủ định biện chứng là một quá trình khách quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái tích cực đã đạt được từ cái cũ. Quá trình phủ định của phủ định tạo thành sự vận động và phát triển không ngừng, mang tính chu kỳ của thế giới khách quan. Trải qua một số lần phủ định, sự vật, hiện tượng dường như lặp lại những giai đoạn đã qua trên cơ sở mới, cao hơn. Thông qua quy luật phủ định của phủ định, ta thấy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng không phải là một quá trình đồng nhất tuyệt đối, có thể tiến hết bước này đến bước khác theo bậc thang từ thấp đến cao liên tục, mà là một quá trình mâu thuẫn giữa cái khẳng định và phủ định, giữa cũ và cái mới. Sự phát triển phải trải qua nhiều giai đoạn, trong đó bao hàm cả những bước đi thụt lùi, quanh co. Đây chính là nét đặc trưng cơ bản về tính biện chứng trong sự phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, mà diễn ra quanh co, phức tạp, trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng biệt. Hiểu những đặc điểm ở từng chu kỳ để có cách tác động phù hợp với yêu cầu phát triển. Theo đó, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ và do đó, trong hoạt động của mình, con người phải biết kế thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn.

Vận dụng quy luật phủ định của phủ định nhận định quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn, nhiều thử thách. Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều chưa phát triển, nước ta tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa nên hầu như những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội còn khó khăn. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Khi cái mới và cái cũ còn hiện hữu đầy mâu thuẫn, quá trình đấu tranh giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa tư tưởng tập thể và tư tưởng cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, khi tiềm lực kinh tế còn chưa đủ mạnh, những tiêu cực trong xã hội vẫn còn những tồn tại, dẫn đến những khó khăn và thách thức này. Từ đó, Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới tại Đại hội VI. Đại hội đã đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đưa nước ta thoát ra khỏi sự khủng hoảng và ngày càng phát triển.

Ngày nay, khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Để đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế, các quốc gia tiến hành điều chỉnh chiến lược phát triển theo hướng tăng cường liên kết, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, nhất là trong các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, nhân lực, khoa học - công nghệ,... Dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập trong lĩnh vực kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện. Chúng ta đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế, như: tham gia đóng góp và xây dựng Cộng đồng ASEAN; hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết Tổ chức Thương mại Thế giới, tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do đa phương và song phương; tham gia đàm phán Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, yêu cầu của hội nhập quốc tế, không bị tụt hậu với thế giới, chúng ta đã mở cửa để hội nhập. Đây cũng chính là điều kiện và cơ hội để Việt Nam có thể có những bước nhảy vọt trong sự phát triển về kinh tế - xã hội, từ đó rút ngắn con đường phát triển của mình.

Trên cơ sở vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này được Đảng ta thể hiện rất rõ tại Đại hội VI, Đảng ta khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là một tất yếu khách quan. Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đến Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đến các Đại hội VIII, IX, X, XI, XII của Đảng, đều có sự bổ sung và làm rõ hơn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội và về cơ bản đều nhất quán với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua. Nhìn vào thành tựu to lớn sau hơn 30 năm đổi mới, chúng ta thấy được sự đúng đắn, hợp lý của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong việc lựa chọn con đường phát triển, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.

Nghiên cứu, nhận thức đầy đủ quy luật phủ định của phủ định của chủ nghĩa Mác-Lênin về khuynh hướng của sự phát triển, chúng ta càng tin tưởng vào sự lựa chọn con đường phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng - con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Phủ định biện chứng là gì và có những đặc điểm nào?

Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa. Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển.

Phủ định biện chứng là gì *?

Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là mất khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới tiến bộ hơn sự vật cũ.

Đâu là đặc điểm của phương pháp biện chứng?

Đặc trưng của phương pháp duy vật biện chứng là coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác, trong sự đấu tranh với đối tượng đối lập dẫn đến hình thành đối tượng mới mang đặc tính của cả hai.

Theo quan điểm biện chứng duy vật nguyên nhân phủ định nằm ở đâu?

Tính khách quan của phủ định biện chứng thể hiện ở chỗ: Nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng. Đó là kết quả chuyển hoá của các mặt đối lập nhằm giải quyết những mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật, hiện tượng và của quá trình tích lũy về lượng dẫn đến nhảy vọt về chất.