Rong rêu là gì

Rong rêu là hiện tượng phổ biến xuất hiện do không được vệ sinh định kì khiến chúng phát triển và bám vào thành. Đặc biệt là những nơi gần nguồn nước ẩm ướt là điều kiện lý tưởng để chúng phát triển.

Nguyên nhân gây ra rong rêu lò hơi, nồi hơi, tháp giải nhiệt

Có nhiều nguyên do dẫn đến việc rong rêu bám trên những thiết bị nhưng cơ bản nhất chính là không vệ sinh định kỳ khiến rong rêu có thời cơ tăng trưởng và bám vào thành. Đặc biệt là trong những đường ống dẫn nước, vì chúng rất khó giải quyết và xử lý .

Rong rêu là gì
Hình ảnh rong rêu không được vệ sinh định kỳ – ảnh minh họa

Ngoài ra, dưới dây cũng là một số nguyên nhân gây ra rong rêu trong lò hơi, nồi hơi:

  • Những nơi ẩm, gần nguồn nước và những nơi có nước là điều kiện kèm theo lý tưởng cho rong rêu, vi tảo tăng trưởng .
  • Do thừa những chất dinh dưỡng có trong nước hoặc nước có độ pH thấp .
  • Sự tăng trưởng của tảo, rong rêu và những sinh vật tương tự như triển ngăn cản sự chảy của nước, gây biến hóa thành phần gây ra ô nhiễm do thải ra những chất khác …
  • Do hóa chất không đủ nồng độ nên không hề duy trì được quy trình giải quyết và xử lý tảo .
  • Vi sinh vật đã nhờn thuốc, đề kháng hóa chất

Ngoài rong rêu, cáu cặn cũng là nguyên do khiến lò hơi, nồi hơi có hiệu suất kém. Các bạn hoàn toàn có thể tìm hiểu thêm thêm ở bài viết https://blogchiase247.net/nguyen-nhan-gay-ra-cau-can-lo-hoi-va-cach-tay-cau-can-lo-hoi.html

Tác hại của rong rêu tới đường ống

Trong hệ thống làm mát, đường ống, rong rêu sẽ kết từng khối lớn bám vào thành ống làm giảm tốc độ của dòng chảy, làm khả năng truyền nhiệt kém, tiêu tốn nhiên liệu, hiệu suất công việc suy giảm, thậm chí đường ống còn bị tắc nghẽn.

Cùng với đó là những vi khuẩn, vi sinh vật có thể ăn mòn các lớp kim loại, bề mặt trao đổi nhiệt gây hiện trạng hỏng hóc đường ống thiết bị.

Ngoài ra, rong rêu còn tạo ra những mùi hôi khó chịu gây mất thẩm mĩ, thậm chí trong rêu còn có một số vi khuẩn gây hại cho các loài sinh vật trong hồ cá, bể cá

Hóa chất diệt rong rêu trong hệ thống đường ống, tháp giải nhiệt

Hóa chất diệt rong rêu là một hỗn hợp dạng lỏng hoạt động giải trí với nguyên tắc tao ra lớp màng mỏng mảnh ngăn ngừa sự đóng rễ, kết bám của rong rêu và những loại tảo hoặc những sinh vật tương tự như lên thành ống, thành mạch, vách … .

Rong rêu là gì

Đây là hóa chất diệt rong rêu GREEN WX 580 do Green cung ứng

Hóa chất diệt rong rêu là thứ không thể thiếu trong quá trình canh tác, nuôi trồng các loại sinh vật ở dưới nước. Trong công nghiệp sản xuất hay nuôi trồng thủy hải sản không thể tránh khỏi những sinh vật như rong rêu, vi tảo và các loại sinh vật tương tự khác.

Chúng ngăn chặn sự phát triển của các sinh vật trong hồ, làm đục nước, ngăn ánh sáng và gây ra ô nhiễm khi phân hủy. Còn trong công nghiệp, đời sống hàng ngày rong rêu đóng ở những nơi ẩm ướt, trong các cống rãnh và những đường ống chúng ta không thể dùng tay hay các thiết bị khác vì có thể các đường ống ở dưới mặt đất.

Vì vậy hóa chất diệt rong rêu là giải pháp vô cùng tối ưu trong những trường hợp này. Để tối ưu hóa việc diệt rong rêu, đặc biệt quan trọng là những nơi có những ngóc ngách và đường ống dài khó vệ sinh thì việc sử dụng hóa chất diệt rong rêu là lựa chọn tương thích nhất .

Mua hóa chất diệt rong rêu ở đâu?

Chúng tôi – Công ty TNHH Green luôn tự hào là đơn vị cung cấp những sản phẩm, dịch vụ về xử lý nước, hóa chất tẩy rửa cáu cặn, hóa chất dệt rong rêu,… hàng đầu Việt Nam.

Với hơn 20 năm kinh nghiệm, chúng tôi luôn cam đoan lấy lợi ích của khách hàng đặt nên hàng đầu, đem lại cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ chất lượng và an toàn nhất. Nếu bạn có nhu cầu về hóa chất diệt rong rêu hay một số hóa chất xử lý nước, chống cáu cặn.

Một số cách diệt rong rêu trên nền xi măng đơn giản

Ngoài cách diệt rong rêu bằng hóa chất, Green xin san sẻ thêm cho những bạn những cách diệt rong rêu mọc ở tường, ở sân, nền xi-măng, bể nước hoặc mọc ở sân cỏ đơn thuần nhất

1. Cần cọ rửa, vệ sinh tường, gạch thường xuyên

Đây là giải pháp đơn thuần và hiệu suất cao nhất để ngăn ngừa, ngưng trệ sự tăng trưởng và diệt rong rêu có trên tường, sân và bể nước .

Cũng như khử mùi hôi thì việc tiên phong bạn cần làm đó là vệ sinh vật phẩm mà bạn muốn khử ( phòng ngủ, phòng khách, tủ lạnh, giày ). Sau đó mới vận dụng những cách diệt và ngăn ngừa sư tăng trưởng của nó .

 2. Cho rong rêu tiếp xúc nhiều với ánh mặt trời

Chắc hẳn những bạn đều biết, rêu rất thích Open ở những nơi khí ẩm, ít ánh sáng, … Vậy nên, nếu nếu trong phòng hay ngoài sân có rêu mọc thì bạn không nên để chúng tiếp xúc với nước và cho rêu tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời .

3. Sử dụng máy xịt cao áp đánh bay rong rêu

Nếu bạn muốn vô hiệu rong rêu nhanh hơn, bạn hoàn toàn có thể dùng máy xịt rửa cao áp ( máy cao áp rửa xe hoàn toàn có thể vận dụng ) để vô hiệu rong rêu có trên tường hoặc bể nước, sân gạch .Khi dùng cách này, bạn sẽ không cần lo ngại rong rêu bị sót lại. Bởi vì, chỉ cần một chút ít rễ của rêu còn sống thì nó sẽ liên tục tăng trưởng khi gặp điều kiện kèm theo thích hợp .

4. Dùng vôi trong nông nghiệp

Vôi là nguyên vật liệu vô cùng quen thuộc với bà con nông dân. Nó được dùng để tái tạo đất, diệt sâu bọ và cũng có tính năng diệt rong rêu hiệu suất cao .Bạn chỉ cần lấy bột vôi rắc lên khu vực có rêu tăng trưởng là được ( Khối lượng vôi nhiều hay ít sẽ nhờ vào vào độ bao trùm của rong rêu ) .

Lưu ý: Khi rắc vôi bạn cần chuẩn bị các đồ bảo hộ như: găng tay, khẩu trang, kính trùm mắt,…

Đó là 4 cách diệt rong rêu khác mà Green muốn san sẻ với những bạn. Ngoài 4 cách này, green có một vài cách phòng tránh rong rêu tăng trưởng như :

– Khi xây nhà, lát gạch sân, bạn nên dùng các loại bề mặt, vật liệu ít bám rong rêu

Xem thêm: Sàng lọc phát hiện sớm ung thư cổ tử cung

– Thiết kế khoảng trống không thiếu ánh sáng và thông thoáng nhằm mục đích hạn chế sự tăng trưởng của rong rêu .- Không để rong rêu tiếp xúc với nước- ….

Rêu là từ chung để gọi một nhóm trong thực vật có phôi (Embryophyta) mà không phải là thực vật có mạch. Nó cũng là một phần của thực vật không mạch khi coi tảo lục cũng thuộc về giới thực vật và là toàn bộ thực vật không mạch khi coi tảo lục thuộc nhóm sinh vật nguyên sinh. Rêu có các mô và các hệ thống sinh sản, nhưng không có mô mạch để lưu thông các chất lỏng. Rêu không có hoa và cũng không sản sinh ra hạt, nó sinh sản nhờ các bào tử.

 

Rêu sừng bao gồm các loài rêu mà người ta tin là họ hàng gần nhất còn sinh tồn của thực vật có mạch.

 

Rêu "thật sự" là một trong ba nhóm rêu.

Theo truyền thống, tất cả các thực vật đất liền còn sinh tồn mà không có mô mạch từng được phân loại trong một một nhóm phân loại, thông thường là một ngành. Sau đó, nghiên cứu phát sinh chủng loài đã đặt câu hỏi về việc rêu có phải là một nhóm đơn ngành hay không. Nghiên cứu năm 2005 hỗ trợ cho quan điểm truyền thống cho rằng rêu là nhóm đơn ngành.[1]

Tuy nhiên vào khoảng năm 2010 thì nhiều nhà hệ thống học nhận thấy rêu không là một nhóm tốt theo quan điểm của phát sinh chủng loài, do nó không là một nhóm đơn ngành[2][3][4] mạc dù cả 3 nhóm còn sinh tồn đều là đơn ngành. Chúng là rêu tản, rêu sừng và rêu "thật sự", khi được coi là bậc phân loại ở cấp ngành thì danh pháp tương ứng là Marchantiophyta, Anthocerotophyta và Bryophyta.[5] Thực vật có mạch hay Tracheophyta tạo thành nhánh thứ tư, không phân hạng của thực vật đất liền, gọi là "Polysporangiophyta" (thực vật nhiều túi bào tử).

Trong các phân tích đề cập tại đây thì rêu sừng là chị em với thực vật có mạch còn rêu tản là chị em với nhánh chứa toàn bộ phần còn lại của thực vật đất liền, bao gồm cả rêu "thật sự", rêu sừng và thực vật nhiều túi bào tử.[4][6] Các nghiên cứu phát sinh chủng loài tới nay vẫn tiếp tục tạo ra các kết quả mâu thuẫn. Cụ thể, các nghiên cứu dựa vào trình tự gen gợi ý rằng rêu là nhóm cận ngành, trong khi các nghiên cứu dựa theo dịch mã amino acid của chính các gen đó lại gợi ý rằng rêu là nhóm đơn ngành. Một nghiên cứu năm 2014 kết luận rằng các thiên lệch thành phần chịu trách nhiệm cho các khác biệt này và rằng rêu là nhóm đơn ngành.[7]

Quan điểm cận ngành

 Thực vật có phôi 

 Rêu tản 




 Rêu thật sự 




 Rêu sừng 



 Thực vật có mạch




 Rêu 

 

Rêu tản được gộp trong nhóm rêu

Khi các thực vật tuyệt chủng được đưa vào phân tích thì bức tranh hơi bị thay đổi. Một số nhóm thực vật đất liền tuyệt chủng, như quyết sừng dê (Horneophytopsida) - không phải là rêu nhưng cũng không phải là thực vật có mạch vì tương tự như rêu thì chúng cũng không có mô mạch thật sự. Ở rêu thì thể bào tử là cấu trúc đơn giản không phân nhánh với cơ quan sinh bào tử đơn giản (túi bào tử). Ở tất cả các thực vật đất liền khác (Polysporangiophyta) thì thể bào tử phân nhánh và mang nhiều túi bào tử.[8][9] Người ta cho rằng sự tương phản này giữa rêu và các thực vật đất liền khác là ít làm sai lệch hơn so với phân biệt truyền thống về thực vật không mạch so với thực vật có mạch, do nhiều loài rêu đã tiến hóa các mạch dẫn nước tương đối phát triển.[10] Sự tương phản này được thể hiện trong biểu đồ phát sinh chủng loài hơi khác biệt dưới đây:[11]

 Thực vật đất liền 

Rêu tản

Rêu thật sự

Rêu sừng

 Thực vật nhiều túi bào tử 

"Protracheophyta", như Horneophyton hay Aglaophyton

Thực vật có mạch

Thuật ngữ "rêu" như thế là nói tới một bậc các dòng dõi được định nghĩa chủ yếu là theo những gì chúng không có. So với các thực vật đất liền còn sinh tồn khác thì chúng thiếu mô mạch chứa lignin và các thể bào tử phân nhánh mang nhiều túi bào tử. Sự nổi bật của thể giao tử trong vòng đời cũng là đặc trưng chia sẻ chung của cả 3 dòng dõi rêu (tất cả các thực vật có mạch còn sinh tồn chủ yếu là thể bào tử).

Quan điểm đơn ngành

Phát sinh chủng loài dựa theo amino acid chứ không phải gen chỉ ra rằng rêu là nhóm đơn ngành:[7]

 Thực vật có phôi 
 Rêu 

Rêu sừng

Rêu tản

Rêu thật sự

Thực vật có mạch

Nếu điều này là đúng thì thể bào tử phức tạp của thực vật có mạch còn sinh tồn có thể đã tiến hóa độc lập với thể bào tử không phân nhánh đơn giản hơn có trong rêu.[7] Các nghiên cứu khác gợi ý một nhóm đơn ngành bao gồm rêu tản và rêu thật sự, với rêu sừng là chị em với thực vật có mạch.[12]

Rêu nói chung nằm ở trạng thái thể giao tử; nghĩa là, thông thường chúng là các thể giao tử đơn bội, với cấu trúc lưỡng bội duy nhất là túi bào tử theo mùa. Kết quả là giới tính của rêu rất khác biệt giữa nhóm này với nhóm khác. Có 2 kiểu giới tính cơ bản ở các loài rêu:

  • Rêu đơn tính khác gốc chỉ sinh ra các túi đực (cơ quan sinh sản đực) hoặc các túi noãn (cơ quan sinh sản cái) trên một cây.
  • Rêu đơn tính cùng gốc sinh ra cả túi đực lẫn túi noãn trên một cây.

Một số loài rêu có thể là đơn tính cùng hay khác gốc, phụ thuộc vào các điều kiện môi trường, trong khi một số loài khác chỉ có một kiểu giới tính.

  • Thực vật có phôi
  • Ngành Rêu tản
  • Ngành Rêu sừng
  • Ngành Rêu thật sự
  • Giới tính thực vật
  •   Phương tiện liên quan tới Anthocerotophyta tại Wikimedia Commons
  •   Phương tiện liên quan tới Bryophyta tại Wikimedia Commons
  •   Phương tiện liên quan tới Marchantiophyta tại Wikimedia Commons

  1. ^ Goremykin, V. V.; Hellwig, F. H. (2005). “Evidence for the most basal split in land plants dividing bryophyte and tracheophyte lineages”. Plant Systematics and Evolution. 254 (1–2): 93–103. doi:10.1007/s00606-005-0337-1. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)
  2. ^ Konrat M.; Shaw A. J.; Renzaglia K. S. (2010). “A special issue of Phytotaxa dedicated to Bryophytes: The closest living relatives of early land plants”. Phytotaxa. 9: 5–10.
  3. ^ Troitsky A. V., Ignatov M. S., Bobrova V. K., Milyutina I. A. (tháng 12 năm 2007). “Contribution of genosystematics to current concepts of phylogeny and classification of bryophytes”. Biochemistry Mosc. 72 (12): 1368–76. doi:10.1134/S0006297907120115. PMID 18205621.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  4. ^ a b Knoop Volker (2010). “Looking for sense in the nonsense: a short review of non-coding organellar DNA elucidating the phylogeny of bryophytes”. Tropical Bryology. 31: 51–60.
  5. ^ “GLOSSARY B”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2009.
  6. ^ Qiu Y. L.; Li L.; Wang B. (tháng 10 năm 2006). “The deepest divergences in land plants inferred from phylogenomic evidence”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 103 (42): 15511–15516. Bibcode:2006PNAS..10315511Q. doi:10.1073/pnas.0603335103. PMC 1622854. PMID 17030812.
  7. ^ a b c Cox, Cymon J.; Li, Blaise; Foster, Peter G.; Embley, T. Martin; Civáň, Peter (2014). “Conflicting Phylogenies for Early Land Plants are Caused by Composition Biases among Synonymous Substitutions”. Systematic Biology. 63 (2): 272–279. doi:10.1093/sysbio/syt109. PMC 3926305. PMID 24399481. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)
  8. ^ Kenrick, Paul; Crane, Peter R. (1997a). The Origin and Early Diversification of Land Plants: A Cladistic Study. Washington D.C.: Smithsonian Institution Press. ISBN 978-1-56098-730-7. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)
  9. ^ Kenrick, P.; Crane, P. R. (1997b). “The origin and early evolution of plants on land”. Nature. 389 (6646): 33–39. Bibcode:1997Natur.389...33K. doi:10.1038/37918. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)
  10. ^ Bell, N. E.; Hyvönen, J. (2010). “Phylogeny of the moss class Polytrichopsida (Bryophyta): Generic-level structure and incongruent gene trees”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 55 (2): 381–398. doi:10.1016/j.ympev.2010.02.004. PMID 20152915. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)
  11. ^ Crane, P. R.; Herendeen, P.; Friis, E. M. (2004). “Fossils and plant phylogeny”. American Journal of Botany. 91 (10): 1683–99. doi:10.3732/ajb.91.10.1683. PMID 21652317. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)
  12. ^ Karol, Kenneth G.; Arumuganathan, Kathiravetpillai; Boore, Jeffrey L.; Duffy, Aaron M.; Everett, Karin D. E.; Hall, John D.; Hansen, S. K.; Kuehl, Jennifer V.; Mandoli, Dina F.; Mishler, Brent D.; Olmstead, Richard G.; Renzaglia, Karen S.; Wolf, Paul G. (2010). “Complete plastome sequences of Equisetum arvense and Isoetes flaccida: implications for phylogeny and plastid genome evolution of early land plant lineages”. BMC Evolutionary Biology. 10 (1): 321. doi:10.1186/1471-2148-10-321. PMC 3087542. PMID 20969798. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)

  • Prihar N. S. (1961). An Introduction to Embryophyta: Volume I, Bryophyta (Xuất bản lần thứ 4). Allahabad: Central Book Depot.
  • Watson E. V. (1971). The Structure and Life of Bryophytes (Xuất bản lần thứ 3). London: Hutchinson University Library. ISBN 0-09-109301-5.
  • Schofield W. B. (1985). Introduction to Bryology. New York: Macmillan. ISBN 0-02-949660-8.
  • Oostendorp Cora (1987). The Bryophytes of the Palaeozoic and the Mesozoic. Bryophytorum Bibliotheca, Band 34. Berlin & Stuttgart: J. Cramer. ISBN 3-443-62006-X.
  • Chopra R. N. & Kumra P. K. (1988). Biology of Bryophytes. New York: John Wiley & Sons. ISBN 0-470-21359-0.
  • Goffinet Bernard. (2000). Origin and phylogenetic relationships of bryophytes. Trong A. Jonathan Shaw & Bernard Goffinet (chủ biên), Bryophyte Biology, trang 124-149. Nhà in Đại học Cambridge. ISBN 0-521-66097-1.
  • Crum Howard (2001). Structural Diversity of Bryophytes. Ann Arbor: Vườn ươm của Đại học Michigan. ISBN 0-9620733-4-2.
  • Raven Peter H., Evert Ray F., Eichhorn Susan E. (2005). Biology of Plants (Xuất bản lần thứ 7). New York: W. H. Freeman and Company. ISBN 0-7167-1007-2.
  • Glime Janice M., 2007. Bryophyte Ecology, Volume 1. Physiological Ecology. Ebook sponsored by Michigan Technological University and the International Association of Bryologists.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Rêu&oldid=67405238”