SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐĂKLĂK TRƯỜNG THPT DTNT N’ TRANG LƠNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “Sử dụng phương pháp kể chuyện nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy phần “công dân với đạo đức” trong môn GDCD lớp 10”. Giáo viên: LÊ THỊ THỦY
Mạnh Tử đã từng nói: “Nhân chi sơ tính bổn thiện, tính tương cận tập tương viện”, nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ lương lương thiện, tính tình khá đồng nhất, nhưng do môi trường và sự tiếp cận học hỏi khác nhau mà tính tình đâm ra khác biệt nhau. Tuân Tử cũng đã từng nói: “Nhân chi sơ tính bổn ác, lý tính hậu lai tập đắc”, nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ là ác, nhưng sau này có học tập mà có lý trí, biết cái đúng cái sai. Mạnh Tử và Tuân Tử đều là bậc thầy của Nho giáo thời Chiến quốc, dù có những đánh giá khác nhau về tính con người nhưng đều thống nhất rằng môi trường và sự giáo dục sẽ làm con người thay đổi, nghĩa là giáo dục đóng vai trò quyết định cho nhân cách con người trong tương lai. Thật ra, đánh giá khác nhau về bản chất con người của hai ông không có gì mâu thuẫn. Tuân Tử nhìn theo hướng tiến hóa của vạn vật, cho rằng con người là một loại động vật trong thế giới sinh học nên theo nguồn gốc ban đầu vốn dữ tính, muốn thành người có lý trí thì phải được giáo dục. Mạnh tử nhìn con người từ khía cạnh xã hội học, cho rằng con người được sinh ra trong cộng đồng, có tình thương của cha mẹ, anh em, bạn bè nên bản tính ban đầu lương thiện, nhưng khi tiếp xúc, học tập trong các điều kiện xã hội khác nhau thì tính tình ắt sẽ khác nhau. Từ đó có thể thấy từ xưa đến nay, mọi thế hệ nhân loại đều khẳng định vai trò vô cùng to lớn của giáo dục đối với con người. Mục tiêu của giáo dục thật sự rất rõ ràng là dạy làm người, nghĩa là rèn luyện đạo đức và nhân cách con người. Giáo dục đồng thời cung cấp kiến thức, kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn minh. Nền giáo dục của nước ta cũng phải tìm ra các biện pháp để đạt được hai mục tiêu trên. Trong đó, môn Giáo dục công dân (GDCD) giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục học sinh ý thức và hình thành phát triển nhân cách con người toàn diện. Khác với các môn học khác, môn GDCD nói chung và môn GDCD ở trường THPT nói riêng là môn học có vai trò quan trọng giúp học sinh phát triển về đức, trí, thể, mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN. Môn GDCD với pháp luật có trách nhiệm trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân trên một số lĩnh vực cơ bản. Từ đó học sinh hiểu rằng: Bất cứ người dân nào, bất cứ ở đâu, ở bất kỳ cương vị nào đều phải sống và làm việc theo pháp luật, phải có trách nhiệm xây dựng đất nước giàu mạnh, giữ gìn kỷ cương xã hội, xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho mọi người. Sự giác ngộ sâu sắc về các vấn đề được đề cập trong chương trình sẽ giúp các công dân tương lai của đất nước có được sự chủ động, sáng tạo khi thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ trong cuộc sống chung của đất nước. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay đa số học sinh ngại học môn GDCD vì coi đây là môn phụ, không phục vụ cho việc thi tốt nghiệp và Đại học, Cao đẳng. Từ quan niệm đó nên các em chỉ học một cách đối phó, qua loa, xem nhẹ bộ môn đang diễn ra phổ biến và trở thành thực trạng chung. Bên cạnh đấy, bản thân một số giáo viên dạy môn GDCD còn xem nhẹ môn của mình, coi là môn phụ, không có hứng thú trong giảng dạy, ít đầu tư vào chuyên môn. Đến lớp chỉ truyền thụ những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa, nặng về phương pháp dạy học truyền thống, ít đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến tiết học khô khan, học sinh dễ nhàm chán và ngại học. Vì vậy, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, để học sinh đóng vai trò trung tâm trong các tiết học đòi hỏi mỗi giáo viên dạy môn GDCD cần phải đổi mới phương pháp dạy học. Kho tàng truyện kể Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng, những câu chuyện cũng là những bài học cho tất cả mọi người về mọi mặt của đời sống. Nếu người giáo viên biết cách chọn lựa, dẫn dắt và kể những câu chuyện sao cho phù hợp với bài học và đối tượng học sinh khi dạy môn GDCD chắc chắn sẽ giúp học sinh say mê, hứng thú học tập từ đó đạt kết quả tốt hơn. Việc khai thác các câu chuyện thông qua các bài giảng GDCD là một hướng đi mang bản sắc riêng của nền giáo dục nước nhà. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay. Những câu truyện kể sẽ tác động trực tiếp đến nhận thức, thái độ, hành vi của các em học sinh từ đó các em sẽ nhận thức được vai trò và nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội đây chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến niềm yêu thích môn GDCD của học sinh. Hơn nữa khéo léo sử dụng truyện kể không chỉ có tác dụng tích cực đến kết quả học tập bộ môn cho học sinh mà còn có tác dụng trong việc gìn giữ văn hóa dân tộc; giáo dục truyền thống lịch sử; khơi gợi lòng yêu nước, tự hào dân tộc… Đối với những bài học về đạo đức, đạo làm người trong chương trình GDCD thì việc sử dụng những câu chuyện kể về người thật, việc thật càng trở nên thiết thực và có ý nghĩa hơn. Bên cạnh đó, những quan sát bước đầu về thực tiễn dạy – học môn GDCD, phần “Công dân với đạo đức” ở trường THPT hiện nay cho thấy việc sử dụng PPKC trong thiết kế bài dạy học và giảng dạy trên lớp của GV chỉ dừng lại ở mức khởi đầu. Ngoài ra, quá trình sử dụng phương tiện này trong quá trình dạy học phần này chưa thực sự mang lại hiệu quả cao. Nhiều GV vẫn sử dụng PPKC một cách tự phát, kinh nghiệm mà chưa có những chỉ dẫn đầy đủ, hệ thống về mặt lí luận. Đó là nguyên nhân khiến cho việc sử dụng hệ thống phương tiện này chưa khai thác được tiềm năng và ưu thế vốn có của nó trong việc giúp nâng cao kết quả dạy học. Từ đây, kết quả nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần giải quyết những khó khăn, lúng túng của GV, góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học phần “Công dân với đạo đức” nói riêng, môn GDCD nói chung ở trường THPT hiện nay. Xuất phát từ những lí do nêu trên tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Sử dụng phương pháp kể chuyện nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy phần “công dân với đạo đức” trong môn GDCD lớp 10”. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và đánh giá thực trạng, đề tài đề xuất các biện pháp sử dụng PPKC trong dạy học môn GDCD phần “ Công dân với đạo đức – Giáo dục công dân lớp 10”. nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học phần này trong môn GDCD ở trường THPT hiện nay. Đề tài sẽ trả lời cho các câu hỏi khoa học: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung của đề tài. + Khái quát cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề sử dụng PPKC trong dạy học môn GDCD phần “ Công dân với đạo đức” ở trường THPT. + Đề xuất nguyên tắc và biện pháp sư phạm của việc sử dụng hiệu quả PPKCtrong dạy học môn GDCD phần “ Công dân với đạo đức” trường THPT hiện nay. + Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá hiệu quả, tính khả thi của các biện pháp sử dụng PPKC mà đề tài đã đề ra. Để nghiên cứu đề tài này bản thân tôi đã sử dụng những phương pháp sau: + Phân tích, tổng hợp (phân tích từng đối tượng học sinh, tổng hợp các kết quả đạt được, phân tích tổng hợp tài liệu qua tham khảo sách báo…) + Phương pháp quan sát (trong quá trình giáo dục của giáo viên và học tập của học sinh …) + Phương pháp điều tra, đánh giá (điều tra mức độ tiếp thu, hứng thú học tập và kết quả của học sinh sau bài dạy…..) + Nghiên cứu các loại tài liệu sư phạm, tâm lí , giáo dục học có liên quan đến đề tài. + Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn (lấy ý kiến học sinh, giáo viên, phụ huynh…) + Phương pháp thực nghiệm (áp dụng cụ thể với tập thể học sinh, đối tượng học sinh …)
Đối tượng nghiên cứu Học sinh các lớp 10 mà tôi được phân công giảng dạy năm học 2017 – 2018: Lớp 10A1, 10A2, 10A3, 10A4, 10A5, 10A6 – Trường THPT DTNT N’ Trang Lơng. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. Phần “Công dân với đạo đức” sách giáo khoa giáo dục công dân 10 – Nhà xuất bản giáo dục năm 2011. 1.1. Cơ sở triết học: Ngay từ thời cổ đại, khi bàn về tầm quan trọng của việc sử dụng các dẫn chứng, ví dụ, minh họa từ trong trò chuyện, giao tiếp đến truyền đạt tri thức, kinh nghiệm cho nhau, người ta đã từng cho rằng, cần phải biết lấy ví dụ để làm rõ điều mình muốn nói. Trong quá trình đó, việc sử dụng TK để minh họa cho điều cần truyền đạt luôn được xem là một phương cách mang lại hiệu quả cao. Lênin nói rằng: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tiễn khách quan”. Luận điểm triết học này của Lênin chỉ ra rằng trực quan sinh động và tư duy trừu tượng gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức thế giới khách quan; từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn mới hoàn thành một chu trình của quá trình nhận thức. Nhận thức là một quá trình từ cảm tính đến lí tính, đây là cơ sở khoa học quan trọng trong việc sưu tầm truyện kể để vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt vào bài học nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Bởi vì: Dạy học là một quá trình truyền thụ tri thức khoa học, kĩ năng và phương pháp hành động. Đó là sự tác động của người dạy vào các giác quan của học sinh, cung cấp các kiến thức mang tính chất kích thích tư duy nhận thức của người học. Do vậy, GV cần sưu tầm có hệ thống và có chọn lọc các câu chuyện phù hợp với nội dung bài học nhằm mang lại kết quả cao nhất. Việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh là một hoặc nhiều chu trình của quá trình nhận thức thực tiễn khách quan đó. Quá trình học tập của học sinh có đạt kết quả nhanh hơn và tốt hơn hay không phụ thuộc vào việc giải quyết các bước của quá trình nhận thức như thế nào, người giáo viên có vai trò không nhỏ trong việc hiện thực hoá những chu trình nhận thức của học sinh. Cụ thể hơn trước khi để học sinh có những nhận thức về lí tính thì giáo viên cần giúp học sinh có được thật nhanh, thật nhiều những nhận thức về cảm tính. Đối với từng tiết học cụ thể ta thấy những câu chuyện sẽ tác động rất nhanh đến sự nhận thức cảm tính đó của học sinh. Sử dụng chuyện kể chính là sử dụng những di sản tinh thần quý báu, là kho tri thức về tấm gương sống và đạo lí làm người mà ông cha ta đã để lại phù hợp nhất để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức tốt hơn, từ đó hình thành cho các em những tư tưởng đạo đức tốt đẹp, các em sẽ yêu thích môn GDCD hơn. 1.2. Cơ sở giáo dục học: Như chúng ta đã biết ngành giáo dục đã trải qua rất nhiều cuộc cải cách giáo dục và đã phấn đấu thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ, đáp ứng phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới . Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Có thể khẳng định rằng Giáo dục, đào tạo con người phát triển toàn diện về Đức- Trí- Thể- Mĩ đã được đặt ra từ quá khứ, song hiện tại điều đó lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: “ …Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại.” GDCD nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng là môn học không thể thiếu trong chương trình của các trường phổ thông hiện nay. Bởi đây là một môn học tổng hợp nhiều tri thức khoa học, vừa góp phần nâng cao nhận thức vừa giúp các em hoàn thiện nhân cách bản thân. Tuy nhiên, ngay khi các em mới bắt đầu bước vào lớp đầu tiên của khối THPT các em đã tỏ ra coi thường thậm chí học đối phó vì cho đây là môn phụ… Thật vậy, bản thân là giáo viên giảng dạy môn GDCD tôi rất băn khoăn, trăn trở nên đã không ngừng tìm tòi, học hỏi để làm sao tạo sự hứng thú cho các em trong học tập và đạt được kết quả cao nhất. Đây chính là cơ sở giáo dục học rất quan trọng giúp tôi thực hiện đề tài này. 1.3. Cơ sở tâm lí học: Bất kì phương pháp dạy học nào được hình thành cũng dựa trên cơ sở tâm lí nhất định, nhằm tạo ra sự mới mẻ, kích thích tư duy, hứng thú, thúc đẩy ham muốn, khám phá tìm hiểu chân lí tri thức của học sinh. Tâm lí học cho rằng: Trong khi khám phá thế giới, con người không chỉ nhận thức nó mà còn tỏ thái độ của mình đối với nó. Những hiện tượng tâm lí biểu thị thái độ của con người đối với những cái mà họ nhận thức được gọi là đời sống tâm lí con người. Đời sống tình cảm của con người rất phong phú, đa dạng, thể hiện ở nhiều hình thức và mức độ khác nhau, có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ quá trình nhận thức. Thực tiễn dạy học cho thấy, những tri thức nào khơi dậy được ở học sinh những cảm xúc tích cực, mạnh mẽ được các em lĩnh hội một cách nhanh chóng và vững chắc hơn những tri thức mà các em dửng dưng, không có thái độ đặc biệt với nó. Một trong những đặc điểm của học sinh THPT là sự nhạy cảm với những ấn tượng mới trong cuộc sống. Ở mức độ nhận thức của các em đã biết sử dụng các thao tác của tư duy để giải quyết các vấn đề đặt ra. Vì vậy khi sưu tầm các câu chuyện giáo viên cần sưu tầm có chọn lọc để các em liên tưởng tốt, vận dụng tốt hơn, từ đó khắc sâu kiến thức. Nắm được đặc điểm tâm lí của học sinh để lựa chọn hình thức và phương pháp dạy học phù hợp là rất cần thiết nhằm góp phần thực hiện mục tiêu trong quá trình giảng dạy và giáo dục hiện nay. Đây được xem là cơ sở tâm lí học rất quan trọng và thiết thực. Phương pháp vận dụng các câu chuyện trong giảng dạy nhằm giúp cho học sinh tham gia chủ động trong quá trình học tập. Học sinh tự biết mình phải noi theo những tấm gương nào, làm điều tốt như thế nào,… và có thể nói những câu chuyện đã tác động đến tâm lí, hành vi của các em và từ đó hướng các em đi đúng con đường mà xã hội đang cần và mong muốn.
a.Lí luận về phương pháp kể chuyện Kể chuyện là gì? Theo Từ điển Bách khoa Wikipedia, kể chuyện là một hình thức chuyển tải những sự kiện bằng lời, hình ảnh, âm thanh và trong khi kể chuyện người ta thường ứng khẩu cũng như thêm thắt những chi tiết cho câu chuyển kể. Trong mọi nền văn hóa, mọi đất nước, kể chuyện được coi như một cách giải trí, một phương pháp giáo dục, một phương tiện chuyển tải và bảo tồn văn hóa, hun đúc những giá trị đạo đức cho người nghe. Những thành phần cốt lõi của một câu chuyện và trong kể chuyện gồm cốt truyện, nhân vật, và quan điểm của người kể chuyện. Theo định nghĩa trên thì phương pháp kể chuyện nên được dùng trong dạy và học môn học Giáo dục công dân vì nó có rất nhiều lợi ích.
Kể chuyện góp phần hình thành cho học sinh những phương pháp học tập tích cực, năng động, sáng tạo, tạo cho học sinh hiểu sâu và nhớ lâu kiến thức. Bằng những câu chuyện có thật, học sinh sẽ hứng thú tìm tòi các tình tiết và tìm cách giải quyết, phán đoán phù hợp với thực tiễn. Vì tính thực tiễn của câu chuyện rất cao, nên sẽ giúp học sinh có kinh nghiệm, thái độ ứng xử trong cuộc sống một cách hợp lý nhất. Từ những câu truyện được kể giáo viên sẽ giúp học sinh nhìn nhận vấn đề một cách khách quan và giúp các em điều chỉnh hành vi của mình Sử dụng những câu chuyện có thật ngắn gọn, hấp dẫn sẽ là phương pháp hiệu quả để tạo được ở các em học sinh những ấn tượng mạnh mẽ, những cảm xúc sâu sắc và sự hứng thú trong học tập.
Sử dụng phương pháp kể chuyện để giảng dạy phần “công dân với đạo đức” trong môn giáo dục công dân lớp, giáo viên phải thực hiện theo 3 bước sau: Bước 1: Giáo viên chuẩn bị các câu chuyện thật có nội dung phù hợp với bài học. Sau đó, giáo viên tóm tắt ý chính của câu chuyện cho ngắn gọn, dễ hiểu, dễ đưa vào bài học. Bước 2: Học sinh lắng nghe câu chuyện. Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích và trả lời câu hỏi ở cuối câu chuyện. Bước 3: Giáo viên theo dõi, lắng nghe, phân tích và tổng hợp các ý kiến của học sinh trả lời; đồng thời nhận xét, bổ sung và đưa ra kết luận.
Để đạt hiệu quả tối ưu trong quá trình sử dụng phương pháp kể chuyện nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo dục công dân lớp 10 thì giáo viên cần chú ý các nguyên tắc sau: – Các câu chuyện phải xuất phát từ nội dung cơ bản của bài, sát với thực tế cuộc sống, phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lý lứa tuổi học sinh. – Các câu chuyện phải có nguồn trích dẫn rõ ràng, nguồn thông tin đó phải là nguồn chính thống để cung cấp cho học sinh. – Các câu chuyện phải ngắn gọn, súc tích, đảm bảo tính thẩm mỹ, ngôn ngữ chính xác, dễ hiểu, không cầu kỳ, sáo rỗng. – Các câu chuyện được khai thác theo các hướng khác nhau, thể hiện ở cách giáo viên đặt câu hỏi gợi ý cho học sinh. Trong quá trình sưu tầm các câu chuyện để giảng dạy phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo dục công dân lớp 10, giáo viên phải vận dụng một cách đồng bộ tất cả các nguyên tắc trên, nếu bỏ qua một nguyên tắc nào đó thì khi đưa câu chuyện vào giảng dạy sẽ không hoàn thành mục tiêu bài học. Ở bậc học phổ thông, môn GDCD là một trong những môn học cơ bản góp phần giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh. Nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và pháp luật cho học sinh được thực hiện ở tất cả các môn học thông qua các hình thức giáo dục trong nhà trường. Nhưng chỉ môn GDCD mới có thể trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức đó theo một hệ thống xác định và toàn diện. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy có một bộ phận học sinh chưa thật sự chú ý học tập môn GDCD, chưa ý thức được vai trò và vị trí của môn học, học theo hình thức đối phó, nhận thức sai dẫn đến hành động sai. Có lẽ đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự xuống cấp về đạo đức của một bộ phận không nhỏ thanh niên học sinh hiện nay. Hệ quả đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ phía phụ huynh và học sinh, thậm chí là chính đội ngũ giáo viên và các cơ quan chức năng chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò và tầm quan trọng của môn GDCD trong việc hình thành thế giới quan và nhân sinh quan trong mỗi học sinh để góp phần giáo dục nhân cách cho các em. Mặt khác, nội dung chương trình GDCD ở phổ thông còn thiếu tính thời sự, nặng về tính lý luận, phương pháp dạy học chưa phù hợp, phương tiện dạy học còn nghèo nàn, sơ sài, không kích thích được hứng thú học tập cho học sinh… mặt khác, cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh hiện nay còn nhiều bất cập (đánh giá còn mang tính định tính, chưa mang tính định lượng). Do vậy, để đạt được hiệu quả cao trong giảng dạy, ở mỗi tiết học giáo viên cần có cách thiết kế bài giảng sao cho phù hợp với nội dung kiến thức, phương tiện dạy học và năng lực của học sinh. Người giáo viên cần phải tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài học. Để qua mỗi phần học, tiết học, học sinh nắm được kiến thức, có khả năng vận dụng kiến thức đã học trên lớp để xử lý các thông tin mà các em tiếp xúc hằng ngày. Qua các năm giảng dạy, bản thân tôi luôn tìm tòi, suy nghĩ vận dụng những kinh nghiệm từ thực tiễn, những phương pháp những cách thức…làm thế nào để dạy học đạt kết quả cao nhất, gây hứng thú cho HS nhằm giúp các em khắc sâu kiến thức đã học đồng thời biết vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Xuất phát từ thực tiễn dạy học và từ chính kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy rằng sẽ rất hiệu quả nếu giáo viên có thể vận dụng truyện kể trong việc giảng dạy. Vì vậy khai thác giá trị của nó để vận dụng vào giảng dạy chắc chắn sẽ khơi dậy được niềm say mê học tập của học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học. Hơn thế nữa, giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng như Bác Hồ đã khẳng định: “ Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên.” Đặc biệt, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức của giới trẻ hiện nay, một bộ phận thanh thiếu niên đã có những biểu hiện xuống cấp về đạo đức thì việc giáo dục đạo đức cho học sinh càng trở nên quan trọng và cần thiết. Giáo viên cần khai thác những giá trị của đạo đức truyền thống đã được ông cha ta đúc kết trong các câu chuyện để giảng dạy cho học sinh qua các giờ học nói chung và giờ học đạo đức trong môn giáo dục công dân nói riêng. Theo tôi, đó là con đường ngắn nhất nhằm giáo dục đạo đức một cách có hiệu quả. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân như:
Từ những lí do trên mà trong giờ học Giáo dục công dân lớp 10 chưa gây hứng thú cho học sinh. Vì vậy, trong giảng dạy Giáo dục công dân lớp 10, tôi đã sử dụng phương pháp kể chuyện để gây hứng thú cho học sinh.
– Khi kể chuyện và nghe kể chuyện thì học sinh phải phát huy trí tưởng tượng của mình. Điều này giúp học sinh tạo dựng hay chấp nhận những ý kiến mới và sáng tạo. Phát triển trí tưởng tượng cũng giúp học sinh tự tin hơn, thấy mình có khả năng thực hiện được những mơ ước hoài bão, từ đó có hứng thú học tập hơn. Đồng thời kể chuyện cũng giúp phát triển các kỹ năng tư duy và phản ứng đối đáp nhanh nhạy hơn. Hơn nữa, khi nghe kể chuyện, người học sinh thường được yêu cầu phỏng đoán kết cục câu chuyện nên kỹ năng phỏng đoán cũng tốt hơn. Những kỹ năng học tập kể trên rất cần trong quá trình giáo dục. – Kể chuyện giúp phát triển một thái độ lạc quan, hài hước. Các câu chuyện được kể thường là chuyện hay và vui nhộn, nên học sinh biết cách tự giải trí và giúp người khác thư giãn. – Một điểm quan trọng nữa là trong quá trình kể chuyện, học sinh được làm người kể chuyện và làm khán giả. học sinh nghe chuyện với những tình cảm vui buồn khác nhau. Họ phản ứng, đối đáp lại câu chuyện bằng cách nói, viết, đóng kịch, hát, múa, v.v. Việc này giúp phát triển kỹ năng hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, biết lắng nghe người khác, biết giao tiếp. Đây là những kỹ năng quan trọng trong học các môn khác nói chung – Lợi ích khác nữa của kể chuyện là giúp học sinh liên hệ, vận dụng được những kỹ năng, kiến thức đã học với những điều mới. – Những kỹ năng khác học sinh phát triển được từ giờ kể chuyện là khả năng nhận biết, phân tích và diễn đạt. – Nội dung chương trình Giáo dục công dân lớp 10 rộng nên việc sưu tầm tài liệu cần phải chọn lọc. Việc chọn lọc câu chuyện cũng rất mất thời gian đối với cả giáo viên và học sinh. Giáo viên phải đầu tư thời gian để cập nhật các câu chuyện mới nhất, có tính thời sự và liên quan đến nội dung bài học. – Khi giảng dạy bằng câu chuyện có thật, nếu giáo viên không có năng lực quản lý lớp, không định hướng cho học sinh đi vào giải quyết những vấn đề trọng tâm thì sẽ bị cuốn theo những cuộc tranh luận của học sinh. – Đòi hỏi tinh thần tự học, thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động… Nếu học sinh học thụ động, không hợp tác thì sẽ làm giảm hiệu quả bài giảng. – Vì là những câu chuyện nên trong quá trình dạy học rất dễ cháy giáo án nếu giáo viên chọn câu chuyện dài hoặc ôm đồm nhiều câu chuyện
.
5.1. Trước khi áp dụng đề tài. Với đặc thù của môn GDCD nói chung và phần “Công dân với đạo đức – GDCD 10” nói riêng, khi chưa thay đổi phuơng pháp giảng dạy thì một điều dễ nhận thấy là các em không có hứng thú học môn GDCD, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến đạo đức, nó cũng không phải là vấn đề mới mẻ, các em đã được tiếp cận từ những lớp ở cấp dưới. Đa số các em chỉ học mang tính chất đối phó cho qua, học để lấy điểm. Do vậy, học sinh không hiểu được bản chất của vấn đề ( Như trên tôi đã trình bày, đó là xem thường bộ môn GDCD, là một nguyên nhân dẫn đến sự xuống cấp trầm trọng của một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay). 5.2. Sau khi áp dụng đề tài. * Kết quả định tính: Qua tìm hiểu, điều tra, thăm dò từ học sinh đề tài đã đạt được những kết quả định tính sau đây: – Giáo viên lên lớp với tâm lí thoải mái, tự tin hơn trong việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho học sinh. – Học sinh tiếp thu kiến thức tốt hơn, lớp học đã trở nên sôi nổi, học sinh có cảm xúc yêu thích bài học này. Học sinh lĩnh hội và nắm được kiến thức bài học một cách nhanh nhất, chắc chắn và nhớ lâu kiến thức đã học. – Học sinh hứng thú say mê, tích cực, chủ động suy nghĩ trong việc tìm tòi kiến thức. Học sinh mạnh dạn, chủ động tranh luận cởi mở, sôi nổi, tự tin đưa ra ý kiến của mình, lắng nghe ý kiến đóng góp, phê bình của các bạn; từ đó giúp học sinh hoà đồng với cộng đồng, tạo cho học sinh tự tin hơn. – Trong quá trình học tập lĩnh hội kiến thức của bài học và từ đó biết vận dụng kiến thức của bài học vào thực tiễn cuộc sống và giải thích được các hiện tượng xảy ra ở địa phương mình. – Đã chuyển trọng tâm từ hoạt động của thầy sang hoạt động của trò. – Đã giúp học sinh từ chỗ học tập thụ động, chuyển sang hoạt động chủ động, học sinh tích cực chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng thu thập, xử lý trình bày trao đổi thông tin thông qua các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức hướng dẫn. * Kết quả định lượng: Để đo mức độ hứng thú của học sinh khi vận dụng truyện kể Việt Nam vào dạy học phần “Công dân với đạo đức” Giáo dục công dân lớp 10, tôi đã tiến hành thực nghiệm như sau: + Qua kết quả điều tra. Sau khi áp dụng đề tài vào dạy học năm học 2015 – 2016 tại trường THPT DTNT N’ Trang Lơng tôi đã phát phiếu điều tra 185 học sinh khối 10 và đã nhận được kết quả như sau: Câu 1. Cảm nhận của em về bài giảng theo hướng này như thế nào?
Câu 2. Theo em mức độ kích thích tính tư duy của bài giảng ra sao?
Câu 3. So với phương pháp dạy học truyền thống thì phương pháp dạy học mới này có tạo được hứng thú học tập tốt hơn không? .a. Có: 185/185 tỉ lệ 100%. Câu 4. Em thấy có nên sử dụng truyện kể trong dạy học môn GDCD nữa không?
+ Kết quả bài kiểm tra: Nội dung kiểm tra: Kiểm tra 1 tiết phần “công dân với đạo đức” Kết quả kiểm tra được thống kê, so sánh như sau: Khi sử dụng truyện kể vào giảng dạy:
Khi chưa sử dụng truyện kể vào giảng dạy:
Kết quả khảo sát cho thấy, phần lớn học sinh (chiếm 93,5%) đều cho rằng sử dụng truyện kể vào bài giảng sẽ giúp cho bài giảng dễ hiểu hơn. Có tới 85,9% số HS được hỏi cho rằng phương pháp này kích thích được tính tư duy của học sinh. Đặc biệt 100% học sinh đánh giá rằng phương pháp vận dụng truyện kể tạo được hứng thú tốt hơn cho học sinh so với phương pháp dạy học truyền thống. 100% các em đều ủng hộ việc vận dụng truyện kể khi dạy học môn Giáo dục công dân, nhất là phần “Công dân với đạo đức ” môn Giáo dục công dân lớp 10. Như vậy, kết quả thực nghiệm đã khẳng định tính đúng đắn, chân thực của việc sử dụng truyện kể trong dạy học phần “Công dân với đạo đức ” – GDCD lớp 10 nói riêng và môn GDCD nói chung ở trường THPT. Điều này minh chứng những giải pháp của đề tài thực sự đem lại giá trị trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân hiện nay.
Qua tổ chức thực hiện cũng như qua kết quả nghiên cứu bước đầu từ thực tế giảng dạy, tôi có một vài kiến nghị, đề xuất như sau:
Để nâng cao hứng thú học môn Giáo dục công dân nói chung và môn Giáo dục công dân lớp 10 nói riêng luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ, là mục đích hướng tới của từng giáo viên có lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp. Vấn đề cốt lõi của nâng cao hứng thú học môn Giáo dục công dân lớp 10 là hướng tới hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, chống lại thói quen học tập thụ động, liên hệ trực tiếp với những hành động của bản thân và xã hội là đúng hay sai, từ đó giúp các em tránh được những cám dỗ của xã hội. Bản thân tôi khi lựa chọn đề tài “Sử dụng phương pháp kể chuyện nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo dục công dân 10” đã vấp phải không ít khó khăn trong quá trình nghiên cứu và thực hiện. Phần vì là giáo viên trẻ, kinh nghiệm giảng dạy của bản thân chưa nhiều; phần vì đối tượng học sinh còn thụ động. Song bằng nỗ lực của bản thân, qua đề tài này tôi muốn có cái nhìn mới về đổi mới phương pháp giảng dạy môn Giáo dục công dân trong nhà trường phổ thông. Từ đó, đưa ra một số kết luận và kiến nghị qua quá trình thực hiện, với hi vọng rằng đề tài này là một tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với các đồng nghiệp, đặc biệt là các đồng nghiệp trực tiếp giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 10. Đề tài này được đúc kết từ những trải nghiệm của bản thân, do đó không thể tránh khỏi những hạn chế và bất cập. Tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học nhà trường, đặc biệt là những thông tin phản hồi từ phía học sinh để đề tài này hoàn thiện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [01] . Sách giáo khoa GDCD lớp 10, NXB Giáo dục (2006). [02] . Sách giáo viên GDCD lớp 10, NXB Giáo dục(2006). [03] . Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. [04] . Giáo trình triết học Mác – Lê Nin, NXB Chính trị Quốc gia. [05] . Dương Thiệu Tống, Suy nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại, tạp chí Dạy và học ngày nay, số tết. [06] Đinh Văn Đức, Dương Thị Thúy Nga (2010), Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng môn GDCD lớp 10, Nxb Đại học Sư phạm. [07] Nguyễn Thị Kim Oanh (2010), Một số biện pháp phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh THPT trong học tập môn GDCD, Tạp chí Giáo dục, số 236. [08] Nguyễn Sĩ Quyết Tâm (2003), Dạy và học môn GDCD ở trường THPT, Tạp chí Giáo dục, số 62. [09] Nguyễn Văn Cư (2008), Giáo dục đạo đức cách mạng cho HS lớp 10 THPT quaviệc dạy và học môn Giáo dục công dân, Tạp chí Giáo dục, số 186. [10] Kho tàng giai thoại Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học Việt Nam 1994. [11] Nhiều tác giả (2010), Chuyện kể về Bác Hồ, NXB Giáo dục Việt Nam. [12] Lê Bá Hiển (2012), Thời niên thiếu của các danh nhân Việt Nam – tập 1, NXB Trẻ. [13] Lê Bá Hiển (2012), Thời niên thiếu của các danh nhân Việt Nam – tập 2, NXB Trẻ. [14] Lê Bá Hiển (2012), Thời niên thiếu của các danh nhân Việt Nam – tập 3, NXB Trẻ. [15] Hoài Anh (2010), Kể chuyện lịch sử nước nhà dành cho học sinh, NXB Trẻ. [16] Nguyễn Huy Tưởng (2010), Lá cờ thêu sáu chữ vàng, NXB Kim Đồng.
|