So sánh điểm giống và khác nhau giữa Kim Vân Kiều truyện và Truyện Kiều

SO SÁNH KIM VÂN KIỀU TRUYỆN VÀ TRUYỆN KIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.31 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN

BÀI THUYẾT TRÌNH NHĨM 1

MÔN: NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU

Đề tài: SO

SÁNH KIM VÂN KIỀU TRUYỆN VÀ
TRUYỆN KIỀU

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thu Yến

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NGÀY 21 THÁNG 09 NĂM 2017


MỞ ĐẦU
Xưa nay, hễ nhắc tới Truyện Kiều, người ta thường liên hệ đến Kim
Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Cũng dễ hiểu, bởi lẽ chính Kim
Vân Kiều Truyện đã tạo nguồn cảm hứng để Nguyễn Du sáng tạo nên thi
phẩm ưu tú nhất của nền văn học Việt Nam. Dẫu biết cốt truyện của Truyện
Kiều được mượn từ Kim Vân Kiều truyện, nhưng cũng cần phải hiểu rằng
Nguyễn Du đã thổi hồn dân tộc vào tác phẩm của mình, tạo cho nó một hình
ảnh mới, một giọng điệu mới, và một sức sống mãnh liệt chưa từng thấy.
Thế nên hàng trăm năm qua, Truyện Kiều đã sống chan hịa trong đời sống
dân tộc khơng riêng gì văn học Việt Nam mà còn cả trên văn đàn thế giới.
Cũng thật hiếm những tác phẩm chinh phục được đông đảo trái tim của bạn
đọc như Truyện Kiều. Vậy phần nào là phần sáng tạo của Nguyễn Du, phần
nào theo ý của Thanh Tâm Tài Nhân ? Điều đó đến nay vẫn còn nhiều ý kiến


đánh giá khác nhau và chưa giải quyết một cách triệt để. Trên cơ sở tham
khảo một số cơng trình nghiên cứu và sự tìm tịi phân tích của nhóm, chúng
tơi xin đưa ra một vài điểm tương đồng cũng như khác biệt của hai tác phẩm
nói trên.


NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung.
1.1.

Truyện Kiều.

1.1.1. Tác giả.
Nguyễn Du (1766 - 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên,
sinh ra trong một gia đình q tộc có truyền thống làm quan và văn chương
ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Truyền thống của gia đình đã có những
ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng, tình cảm, tâm hồn và tài năng của
Nguyễn Du. Gia đình Nguyễn Du có nhiều người đậu đạt cao và làm quan to
tại triều đình: Thân sinh của Nguyễn Du đậu tiến sĩ, từng làm tể tướng,
Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức
lớn dưới cả hai thời Trịnh Sâm và Trịnh Tông, Nguyễn Huệ, bác ruột
Nguyễn Du, đậu tiến sĩ. Theo Phạm Ðình Hổ thì dịng họ này có 12 tiến sĩ
và 5 quận cơng. Bản thân ông là người học rộng biết nhiều, am tường cả
Nho, Phật, Đạo.
Ông là một con người tài năng. Xuất thân trong một gia đình phong
kiến đại q tộc có danh vọng vào loại bậc nhất đương thời nhưng Nguyễn
Du sống trong cuộc sống nhung lụa không được bao lâu. Bởi vì nhà thơ lớn
lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ nhanh chóng theo đà sụp đổ của tập đoàn
phong kiến thống trị Lê-Trịnh. Nguyễn Du phải sớm đương đầu với những
biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Nhà thơ đã từng chịu nhiều nỗi bất

hạnh. Ông có một thời gian dài khoảng hơn 10 năm sống lưu lạc ở quê vợ ở
Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Ơng trải qua "mười năm gió bụi", có lúc ốm
đau khơng có thuốc, mái tóc sớm bạc. Ơng tự xưng là "Hồng Sơn liệp hộ"
(người đi săn ở núi Hồng), "Nam Hải điếu đổ" (Người câu cá ở biển Nam
Hải):


"Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,
Đò Cài mấy trượng là lòng bấy nhiêu!".
Năm 1802, Gia Long triệu Nguyễn Du ra làm quan. Chỉ trong vịng
hơn 10 năm, ơng đã bước lên đỉnh cao danh vọng: làm Chánh sứ sang Trung
Quốc (1813- 1814), giữ chức Hữu tham tri bộ Lễ. Năm 1820, lần thứ hai,
ông lại được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì bị
bệnh, qua đời. Những năm tháng bất hạnh ấy có ảnh hưởng trực tiếp quyết
định đến sự hình thành con người nghệ sĩ vĩ đại ở ơng.Nguyễn Du là một
nhà thơ có tấm lòng nhân đạo sâu xa.
Sống một cuộc đời chịu nhiều gió bụi của chiến tranh loạn lạc,
Nguyễn Du đã nhiều phen phiêu dạt nơi đất khách, sống những tháng ngày
lo âu chốn quan trường, mệt nhoài trong bệnh tật. Tâm hồn ông đã kinh qua
nhiều nỗi bi kịch, nhiều cảnh đời trái ngang và hơn hết, đọng lại trong tâm
hồn đa sầu đa cảm của thi nhân là những giọt nước mắt thương mình, thương
đời, thương người.
Nguyễn Du có một tâm hồn lớn, trái tim lớn, nhạy bén với thời cuộc
và có cái nhìn tồn diện về cuộc đời. Bản thân ông là một tác gia, một tấm
gương lớn của thời đại.
Về con đường văn nghiệp thì Nguyễn Du là một tác gia văn học
không chỉ thành công về mặt chữ Nơm mà cịn có thành tựu nghệ thuật về
mặt chữ Hán. Sáng tác của ông nặng trĩu tâm tâm tư của con người ưu thời
mẫn thế, thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân văn cũng như nghệ thuật viết
thật điêu luyện.

- Tác phẩm chữ Nơm gồm có:
Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi Đau Đứt ruột-Tên phổ
biến là Truyện Kiều), Được viết bằng chữ Nôm, gồm 3254 câu thơ theo thể


lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh
quãng Đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật
chính trong truyện, một cơ gái có tài sắc. Về thời Điểm sáng tác, Từ Điển
văn học (bộ mới) ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông Đi
sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi Đi sứ, có
thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau
Được nhiều người chấp nhận hơn".
Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế
mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời Điểm sáng tác. Trong văn bản do
Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông
Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa
dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sơng Đất nước âm khí
nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta Đều lập Đàn giải thoát Để cầu siêu
cho hàng triệu linh hồn. Ơng Hồng Xn Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du
viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ơng cịn làm cai bạ ở Quảng
Bình (1802-1812). Tác phẩm Được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184
câu thơ chữ Nơm.
Thác lời trai phường nón, 48 câu, Được viết bằng thể lục bát. Nội
dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cơ gái phường
vải.
Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, Để bày
tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cơ gái phường vải khác
- Tác phẩm chữ Hán gồm có:
“Thanh Hiên thi tập” 1786-1804



“Nam trung tạp ngâm” 1805-1812.
“Bắc hành tạp lục” 1813-1814.
Cả ba tập thơ đã được tập hợp lại thành tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
do nhóm Lê Thước và Trương Chính giới thiệu, xuất bản năm 1965 gồm 243
bài thơ.
Thơ chữ Hán có một vị trí khá quan trọng trong hành trình sáng tác
của Nguyễn Du. Đó là tập hợp những tư liệu phản ánh trực tiếp đời sống tư
tưởng, tình cảm của nhà thơ trong khoảng ba mươi năm gió bụi cuộc đời. Ba
tập thơ chữ Hán có sự phân định như sau:
- “Thanh Hiên thi tập”: Gồm 78 bài thơ Nguyễn Du sáng tác trong khoảng
thời gian từ 1786 đến 1804. Đó là khoảng thời gian mười năm gió bụi ơng
nương náu ở q vợ, sau đó trở về dưới chân núi Hồng, rồi ra làm quan ở
Bắc Hà.
- “Nam trung tạp ngâm”: Tập hợp 40 bài thơ được viết từ 1805 đến cuối
1812 khi Nguyễn Du thăng hàm Đông các điện học sĩ, làm quan trong Kinh
cho đến hết thời kì làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
- “Bắc hành tạp lục”: Gồm 132 tác phẩm được sáng tác trong chuyến đi sứ
Trung Quốc 1813 - 1814.
1.1.2 Tác phẩm.
Truyện Kiều tên gốc là Đoạn trường tân thanh, là truyện thơ chữ Nôm
theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm 3254 câu lục bát, dựa theo tiểu thuyết,
dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung
Quốc).
Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc
(1814-1820). Lại có thuyết nói ơng viết trước khi sứ, có thể vào khoảng thời
gian làm Cai bạ ở Quảng Bình(1804-1809). Thuyết sau được nhiều người



chấp nhận hơn. Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc in và
lưu hành rộng rãi. Hai bản in xưa nhất hiện còn là bản của Liễu Văn
Đường(1871) và bản của Duy Minh Thị(1872), đều ở thời vua Tự Đức.
Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán
mình chuộc cha của Thúy Kiều- nhân vật chính trong truyện là một cơ gái “
sắc nước hương trời” và có tài “cầm, kỳ, thi, họa” nhưng cuộc đời lại gặp
lắm truân chuyên.
Tác phẩm đã dựng lên một bức tranh xã hội rộng lớn phản ánh tình
trạng xã hội đương thời. Trong đó nhà thơ đã lên án, tố cáo những thế lực
chà đạp lên quyền sống, quyền được hạnh phúc của con người. Đó là sức
mạnh đen tối của đồng tiền phi nghĩa, nó đã trở thành kẻ đồng lõa với lòng
tham, sự bất cơng và cái ác. Vì tham tiền mà thằng bán tơ vu khống Vương
ơng, vì tham tiền mà Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh…đã dựng
lên cả một hệ thống nhà chứa, vì tham tiền mà sinh ra những kẻ phản trắc,
nhẫn tâm như Sở Khanh, Ưng Khuyển….. Đó là chế độ nhà chứa được dung
túng đã giam cầm, lừa lọc con người, đặc biệt là người phụ nữ. Biết bao
người con gái đã bị chôn vùi tuổi thanh xuân chốn lầu xanh nhơ nhớp ấy mà
Đạm Tiên và Thúy Kiều là số phận tiêu biểu. Giá trị hiện thực của tác phẩm
còn thể hiện ở việc tố cáo sự thối nát của chính quyền phong kiến mà đại
diện là Hồ Tôn Hiến và bè lũ tay sai…. Chúng chẳng những tàn bạo, lật
lọng, tham lam mà còn là một phường phán trắc dâm ơ.
Về nội dung thì sách “ Đoạn Trường Tân Thanh” thì tác giả khơng
chia ra từng hồi, nhưng ta có thể xét theo mạch lạc mà chia ra làm ba phần,
gồm 13 chương như sau:
Phần Thứ Nhất: HỘI NGỘ
A-Phát Đoạn
a) Tài mệnh tương đố


b) Gia thế

c) Tài sắc hai chị em Thúy Kiều.
B-Kiều gặp Kim Trọng
a) Chơi xuân đến mộ Đạm Tiên
b)Gặp Kim Trọng
c)Về nhà - nghĩ vẩn vơ - Mộng Đạm Tiên- Than thân.
C-Đi lại với Kim Trọng
a) Kim Trọng tương tư - thuê nhà
b)Kim Trọng gặp Kiều - giao ước
c)Kiều tìm Kim Trọng- thề nguyền - nói răn
Phần Thứ Hai:LƯU LẠC
A- Gia biến
Kim Trọng sang Liêu Dương
Cha và em Kiều mắc nạn- Kiều quyết bán mình
Mã Giám Sinh mua Kiều
Vương ơng được tha- Kiều khuyên giải
Kiều phó thác tâm sự cho em.
B- Vào lầu xanh lần thứ nhất
a) Mã Giám Sinh rước Kiều: Về trú phường- về Lâm Tri.
b) Đến lầu xanh- Tú bà ra oai- Kiều tự vẫn
c) Tú bà lập mưu- dỗ Kiều- Kiều ở lầu Ngưng Bích- bị Sở Khanh lừa- Tú bà
hành tội
d) Kiều tiếp khách.
C- Lấy Thúc Sinh
a) Kiều được Thúc Sinh chuộc ra
b) Bị Thúc ơng cáo quan- quan xử đồn tụ
c) Sợ vợ chính- Kiều khuyên Thúc Sinh về nhà


d) Hoạn Thư căm giận- Thúc Sinh về nhà không dám thù
e) Thúc Sinh đi, Hoạn Thư lập mưu bắt Kiều- Thúc Sinh tưởng Kiều chết

D - Mắc tay Hoạn Thư
a) Kiều bị bắt nộp cho Hoạn bà
b) Kiều phải sang hầu Hoạn Thư
c) Hoạn Thư làm nhục Kiều trước mặt Thúc Sinh
d) Kiều được tu ở Quan Âm các
e) Thúc Sinh lên thăm Kiều bị Hoạn Thư bắt được.
E-Vào lầu xanh lần thứ hai
a) Kiều sợ trốn vào am Chiêu Ẩn
b)Giác Duyên sợ lụy gửi Kiều cho Bạc Bà
c) Bạc Bà lừa bán Kiều cho lầu xanh.
G- Lấy Từ Hải- Hết nợ đoạn trường
a) Được Từ Hải chuộc ra
b)Từ Hải thành cơng-Kiều báo ân báo ốn- Giác Dun nói vận mệnh- Từ
Hải hùng cứ
c) Hồ Tôn Hiến dùng mưu dụ hàng- Từ Hải đầu hàng và bị giết
d)Kiều bị ép lấy thổ quan- Tự tử ở Tiền đường
e) Giác Duyên gặp sư Tam Hợp nói chuyện Kiều- thuê thuyền vớt Kiều.
Phần thứ ba: ĐOÀN VIÊN
A- Kim Trọng trở lại vườn Thúy
a) Trở về thấy cảnh điêu tàn
b) Gặp gia đình Thúy Kiều
c) Ni cha mẹ Kiều-lấy Thúy Vân


B- Tìm Thúy Kiều
a) Kim Trọng, Vương quan thi đậu và được bổ quan
b) Hỏi được tin Kiều ở Lâm Tri
c) Hỏi được tin Kiều ở Hàng Châu- tưởng Kiều đã chết
C- Sum họp một nhà
a) Gặp đàn Tế - gặp Giác Duyên

b) Giác Duyên dẫn đi tìm Kiều- Kiều từ giả Giác Duyên
c) Mừng đoàn viên- Kiều cố từ việc kết hôn không được
d) Kim Trọng hứa xem nhau là bạn bè- Kiều đành đoạn kết liều đời bạc
mệnh.
D- Kết Thúc
a) Tài và mệnh
b) Thiện tâm sửa được số mệnh.
Về nội dung, Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá
trị nhân đạo. Tác phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với
bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận những người bị áp bức, đau
khổ, đặc biệt là số phận bi kịch của người phụ nữ.
Về nghệ thuật,Truyện Kiều đã đạt được những thành tựu to lớn về
nhiều mặt, nổi bật là ngôn ngữ và thể loại. Đến Truyện Kiều, ngôn ngữ tiếng
Việt đã đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ nghệ thuật ở cả ba phương diện biểu
đạt, biểu cảm và thẩm mĩ ; kết hợp hài hịa giữa ngơn ngữ bình dân và ngôn


ngữ bác học. Đồng thời nghệ thuật tự sự và miêu tả trong tác phẩm cũng rất
đa dạng.
Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản với số lượng
lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh
giá rất cao về Truyện Kiều. Và có thể nói rằng kiệt tác Truyện Kiều có sức
chinh phục khá lớn đối với nhiều thế hệ đọc giả cả trong và ngoài nước.
1.2.

Kim Vân Kiều Truyện.

1.2.1. Tác giả.
Thanh Tâm tài nhân tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ Vị, cịn có bút
danh khác là Thiện Tri, Thanh Đằng, Điền Thủy Nguyệt. Theo một số

tư liệu ghi lại, ông sinh năm 1521 và mất năm 1593, là nhà văn Trung
Quốc sống dưới đời nhà Thanh. Ông học giỏi, hiểu biết rộng nhưng lận
đận chốn quan trường, thi không đỗ bèn làm mặc khách của Hồ Tôn
Hiến. Đã có lần ơng thảo tờ biểu “Dâng hươu trắng” cho vua nên trở
thành nổi tiếng.
Ngoài Kim Vân Kiều Truyện, ông còn viết bộ kịch “Tứ thanh viên”
(Vượn kêu bốn tiếng) gồm bốn vở Ngư dương lộng, Thúy nương
mộng, Hoa mộc lan và Nữ trạng nguyên.
1.2.2. Tác phẩm.
Kim Vân Kiều Truyện là một trong vô vàn tiểu thuyết Minh Thanh
(cuối Minh đầu Thanh), là cuốn tiểu thuyết chương hồi có kết cấu
truyền thống theo kiểu văn xuôi cổ điển Trung Quốc, với chủ đề chính
là tình và khổ. Tác phẩm viết về cuộc đời của Vương Thúy Kiều - cô
gái sống ở đời Minh, tài sắc vẹn tồn nhưng khơng tránh khỏi kiếp hồng
nhan bạc mệnh. Cuộc sống của cô như một trị đùa của định mệnh, cơ


phải sống lưu lạc, chịu nhiều khổ sở, đắng cay: “Thanh lâu hai lượt,
thanh y hai lần.” ( Kiều hai lần vào lầu xanh và hai lần làm nữ tỳ). Cuốn
tiểu thuyết gồm 20 hồi, trước mỗi hồi đều có phần giới thiệu, tóm tắt
nội dung và bình luận. Kết cấu tác phẩm được viết theo thời gian tuyến
tính, diễn biến theo các sự kiện và hoạt động của nhân vật chính. Kim
Vân Kiều Truyện thiên về mơ tả sự kiện, đi sâu miêu tả thực tại, khắc
họa chân dung nhân vật một cách cụ thể- điều mà đôi khi ta cảm thấy
hơi khó chịu.
Cũng như các tiểu thuyết chương hồi khác, tác phẩm gần như không
đề cập đến diễn biến tâm lý nhân vật mà chỉ có các biến cố, hành động
của nhân vật. Tác phẩm lại đặc biệt coi trọng mâu thuẫn xung đột, tập
trung mô tả nhiều chi tiết để tơ đậm một tính cách nào đấy của nhân vật.
Diện mạo nhân vật gần như chỉ là những nét chấm phá chứ không miêu

tả cụ thể.Trong tác phẩm, tác giả cũng đã đưa vào những đoạn thơ, bài
phú miêu tả thiên nhiên, nhưng thiên nhiên ấy lại bị tách rời khỏi cốt
truyện và đôi khi lại không gắn bó gì với tâm trạng của nhân vật.
Nội dung từng hồi trong Kim Vân Kiều Truyện:
Hồi 1: Lược thuật gia thế họ Vương, sau đó là tài sắc của chị em Thúy
Kiều, cùng gặp gỡ Kim Trọng khi đi thăm mộ Đạm Tiên.
Hồi 2: Thúy Kiều về nhà mộng thấy Đạm Tiên và họa thơ bạc mệnh.
Kim Trọng giả danh du học đến thuê nhà ở vườn Thúy, rồi được hội
ngộ, trao thoa đổi quạt với Thúy Kiều.
Hồi 3: Nhân dịp cha mẹ đi ăn lễ sinh nhật ở ngoại gia, Thúy Kiều cáo
bệnh ở nhà gặp gỡ Kim Trọng. Hai người hẹn ước trăm năm.
Hồi 4: Kim Trọng phải sang Liêu Dương hộ tang. Chàng vừa đi thì
nhà Thúy Kiều mắc họa. Nàng định bán mình chuộc cha, trước khi đi
có nhờ em gái là Thúy Vân thay mình giữ lời hẹn ước với Kim Trọng.


Hồi 5: Vương ông cùng cả nhà không ai chịu cho Thúy Kiều bán
mình. Nàng hết lời phân giải thiệt hơn, Vương ông cũng không nghe,
toan tự vẫn.
Hồi 6: Mã Giám Sinh đưa tiền trang trải xong xuôi mọi việc. Thúy
Kiều cảm ơn Chung Sự là người lo toan mọi việc, nhận làm kế phụ.
Hồi 7: Thúy Kiều viết thư từ biệt Kim Trọng rồi chết ngất đi. Thúy
Vân thuật chuyện tâm sự của chị cho cha mẹ nghe. Mã Giám Sinh rước
Kiều đi, nàng nghi ngờ thái độ của Mã nên thủ sẵn một con dao để
phòng thân. Ngày thứ ba, Mã đưa Kiều về Lâm Tri.
Hồi 8: Về đến Lâm Tri, Kiều biết mình đã vào lầu xanh nên phản đối,
bị Tú bà đánh đòn. Kiều rút dao tự tử nhưng không chết. Tú bà chạy
thuốc, dỗ ngọt, cho nàng tịnh dưỡng ở lầu Ngưng Bích và hứa sẽ gả
chồng. Tại đây, Kiều gặp Sở Khanh.
Hồi 9: Kiều mắc mưu Sở Khanh, nhờ hắn cứu thoát, bị người của Tú

bà chạy theo bắt về, phải chịu đòn đau.
Hồi 10: Tú bà ép Kiều phải tiếp khách. Sở Khanh quay lại, toan hành
hung để che lấp xấu hổ nhưng bị kỷ nữ chửi mắng nên bỏ đi. Tú bà dạy
cho Thúy Kiều bảy chữ tám nghề.
Hồi 11: Kiều ở lầu xanh, than thở cảnh mình và hát để tiêu sầu. Nàng
gặp Thúc Sinh, cùng vui đùa ngâm vịnh khiến chàng say mê.
Hồi 12: Thúc Sinh giấu Kiều ở một nơi rồi lập kế chuộc ra. Được một
năm, cha Thúc Sinh đến, kiện con ở phủ đường bắt ly dị. Nhưng bài thơ
“Mộc giả” của Thúy Kiều khiến quan phủ xiêu lịng, xử cho đồn tụ.
Hồi 13: Hoạn Thư là vợ chính của Thúc Sinh nghe tin, nhưng làm ngơ
để tiện thi độc kế. Kiều khuyên chồng về thú với Hoạn Thư, Thúc ông
cũng khuyên. Vợ chồng ngâm vịnh khi tiễn biệt. Về đến nhà, tưởng


Hoạn Thư vẫn chưa biết nên chàng giấu. Được một năm, Thúc Sinh trở
lại Lâm Tri, Hoạn Thư qua bàn với mẹ lập mưu bắt Kiều.
Hồi 14: Hoạn Thư sai gia đình dị đường tắt đi bắt Thúy Kiều. Thúc
Sinh về đến nơi, tưởng kiều đã bị chết cháy. Kiều bị mẹ con Hoạn Thư
hành hạ, Thúc Sinh về nhà thăm vợ thì Hoạn Thư bắt Kiều ra chào.
Hồi 15: Thúc Sinh và Thúy Kiều gặp nhau mà không dám rỉ răng.
Kiều phải hầu tiệc, Hoạn Thư bắt Thúc Sinh tra sao Kiều có vẻ buồn,
sau đồng ý để nàng ra tu ở Quan Âm các sau vườn.
Hồi 16: Thúc Sinh ra thăm Kiều, khuyên nàng trốn đi, Hoạn Thư bắt
được. Thúy Kiều sợ, trộm chuông khánh trốn đi, được sư Giác Duyên
thu dụng.
Hồi 17: Hoạn Thư cho đi tầm nã nhưng Thúc Sinh can. Ở am Chiêu
Ân, vì có người biết nên Kiều phải thú với sư Giác Duyên chuyện ăn
trộm chuông khánh. Bà vãi cho Kiều trốn ở nhà Bạc bà là một tay bợm
già. Bạc bà lừa gả Kiều cho cháu là Bạc Hạnh để bán nàng vào lầu xanh
ở Thái Châu. Ở đây, nàng gặp Từ Hải là một kẻ cự phú hào hoa. Từ cảm

mấy lời tri kỷ, chuộc Kiều ra, ở với nhau được một năm thì Từ đi làm
giặc.
Hồi 18: Từ Hải đi được 3 năm, lập nên sự nghiệp, cho người về rước
Kiều đến đại doanh. Kiều xin báo ân báo oán. Hồ Tôn Hiến đem quân
đến tiểu trừ, thấy thế giặc mạnh phải lập mưu chiêu hàng. Tôn Hiến dụ
hàng, Từ không nhận lễ nhưng Kiều khuyên nên nhận.
Hồi 19: Kiều lấy lời trung hiếu khuyên khiến Từ Hải phải xuôi, nhận
lời với sứ giả. Nhưng khi Từ đã giải bình thì Tơn Hiến đánh úp, trở mặt.
Từ Hải chết đứng, đến khi Thúy Kiều ơm khóc thì mới ngã xuống. Tôn
Hiến ép gả Kiều cho một người tù trưởng mới hàng. Kiều nhớ đến lời
báo mộng của Đạm Tiên, trầm mình xuống sơng Tiền Đường. Giác


Duyên theo lời tiên tri của sư Tam Hợp, vớt cứu được Kiều. Khi nàng
mê mẩn, gặp Đạm Tiên trả lại tập thơ Đoạn trường và báo cho nàng biết
được sống lại.
Hồi 20: Cuối cùng là cuộc tái ngộ với Kim Trọng. Từ khi chàng trở về
vườn Thúy, thi đỗ làm quan, dò la tin tức của Thúy Kiều. Cho đến khi
tưởng Kiều đã chết, lập đàn giải oan và được sư Giác Duyên dẫn đi gặp
Kiều. Thúy Kiều nể lời cha mẹ và Kim Trọng nên nhận lời tái hợp.
Nhưng thấy thân đã nhục không đáng hiến cho kẻ chung tình, xin Kim
Trọng xem mình như một người bạn.
2. Điểm tương đồng và khác biệt giữa Truyện Kiều và Kim Vân
Kiều Truyện.
2.1.

Điểm tương đồng.

Về nội dung cơ bản cả hai đều nói về một nhà viên ngoại họ Vương,
sống vào năm Gia –Tĩnh triều Minh, có 3 người con, người con út là Vương

Quan rất chăm chỉ và hiếu học, có hai chị gái là Vương Thúy Kiều và Vương
Thúy Vân đều xinh đẹp, mỗi người một vẻ, đặc biêt là với Thúy Kiều khơng
chỉ có nhan sắc mà cịn có tài cầm kì thi họa. Nhân lễ tết thanh minh, 3 chị e
vơ tình viếng mộ một ca kỹ yểu mệnh là nàng Đạm Tiên. Biết chuyện cuộc
đời đoạn trường của Đạm Tiên khiến Thúy Kiều thương xót cho người mà
cũng lo lắng cho mình. Gặp Kim Trọng đem lịng u mến và thề nguyền lứa
đơi. Chẳng bao lâu Kim Trọng vì việc nhà phải trở về, gia đình Kiều lại
mang họa án oan, để cứu gia đinh thốt vịng lao lí, Kiều phải bán mình cho
Mã giám sinh để chuộc cha. Rồi nàng bị lừa và lưu lạc vào chốn lầu xanh, bị
Sở Khanh và Tú Bà lừa tiếp khách, nàng rơi xuống vũng bùn của xã hội. Tại
lầu xanh, nàng quen biết với Thúc Sinh và được chàng chuộc về. Vợ chàng
Thúc Sinh là Hoạn Thư vì ghen ghét đã hành hạ, và giam lỏng nàng, ép nàng
chép kinh. Thừa cơ hội bỏ trốn, nàng tìm đến và nương nhờ sư Giác Duyên.


Rồi vì lo ngại sống khơng n, Thúy Kiều ra đi va bị Bac Bà và Bạc Hạnh
lừa vào lầu xanh lần nữa. May thay lần này nàng gặp được người anh hùng
Từ Hải cứu về làm phu nhân. Từ Hải. Mượn thanh thế và quyền lực của Từ
Hải,Thúy kiều đã báo ân và báo ốn cho mình. Nàng khun Từ Hải đầu
hang triều đình để cầu cuộc sống bình yên, Từ Hải đồng ý. Quan phủ nuốt
lời, Từ Hải phải chết, Kiều bị ép gã cho Thổ quan, quá phẫn chí, nàng nhảy
xuống Sơng Tiền Đường tự vẫn, được sư Giác Duyên cứu sống. Đúng lúc
Kim Trọng theo tin tức tới khóc điếu nàng thì gặp nhau, cả gia đình đồn
tụ.Dây cũng chính là điểm giống nhau về nội dung của hai tác phẩm.
Về thống nhân vật: Nguyễn Du hầu như đã lấy tồn bộ hệ thống nhân
vật chính của Kim Vân Kiều truyện để sáng tạo cho tac phẩm Truyện Kiều.
Cụ thể các nhân vật chính bao gồm: Vương ông, Vương bà, Thúy Kiều,
Thúy Vân, Vương Quan, Đạm Tiên, Kim Trọng, Thằng bán tơ, Mã Giám
Sinh, Tú bà, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hoạn phu nhân, Thúc ông,
Khuyển, Ưng, Giác Duyên, Bạc bà, Bạc hạnh, Từ Hải, Hồ Tơn Hiến.

Nhìn một cách tổng qt, cả hai cuốn truyện này đều có những điểm
tương đồng ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng tín ngưỡng dân gian . Trước
hết, cả hai đều khởi đầu bằng thuyết lý “Hồng nhan bạc mệnh” như một thứ
định luật cố hữu theo niềm tin của người Đông phương và đặc biệt là Trung
Hoa. Dưới cách nhìn của phương Đơng, những kẻ tài sắc thường bị mệnh
bạc, tạo hóa ghen ghét mà theo lý giải của dân gian cho rằng họ đã tạo
nghiệp trong kiếp trước; kiếp này sinh ra có sắc có tài, nhưng tài sắc ấy chỉ
làm cho họ khổ lụy như là hậu quả của việc gây nhân từ kiếp trước. Nhân
vật Đạm Tiên có thể xem là một bằng chứng cho lý thuyết ấy cũng như một
dự báo trước cho Thúy Kiều, một người cũng có tài sắc:


“Chắc vì hồn cảnh khơng may dun dủi vào nơi bể lửa vùi dập ngày
xuân. Vậy thì thuyền trước thuyền sau, biết đâu chị em mình lại chẳng
là kiếp sau của người đó?” ( Kim Vân Kiều Truyện)
Và với Nguyễn Du, ông vẫn giữ lại ý tưởng này nhưng triển khai rộng
hơn nhắm đến thân phận của đàn bà nói chung, trong đó có những kẻ hồng
nhan:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy hóa cơng,
Ngày xanh mịn mỏi má hồng phơi pha”.
Và rằng

“Hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”.

Ngoài ra, trong cả hai cuốn truyện này đều nhấn mạnh số kiếp và định
nghiệp đời Kiều. Định nghiệp có lẽ bắt nguồn từ nghiệp nhân kiếp trước
nhưng bây giờ trước mắt Kiều cái định nghiệp ấy như một thứ ám ảnh đeo

đuổi và không thể chối từ dù bằng cái chết của mình:
Trong Kim Vân Kiều Truyện, Thanh Tâm Tài Tử qua lời Đạm Tiên đã nhắc
nhở Thúy Kiều:

“Huống chi trong lúc mình vừa chợp mắt, rõ ràng Đạm Tiên đã bảo:
“Món nợ oan nghiệt chưa trang trải xong, vội thoát cõi trần sao
được? Như vậy mà cứ liều chết, chẳng những nợ của kiếp trước chưa


hồn, mà nợ oan nghiệt kiếp này cịn chồng chất lên nữa, thì đến kiếp
nào mới trả xong?”. ( Kim Vân Kiều Truyện)
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, ông vẫn giữ nguyên ý kiến của
Thanh Tâm Tài Tử về định nghiệp, nhưng lại khốc vào đó một ngun nhân
tối thượng rất gần với tâm hồn Việt Nam là ông Trời. Song ơng Trời ở đây
có lẽ chỉ nên hiểu như một biểu tượng của màn lưới bao trùm định nghiệp
oan tiền nghiệp chướng ấy:
“Kể rằng: “Nhân quả dở dang,
Để toan trốn nợ đoạn tràng được sao!
Số còn nặng kiếp má đào,
Người dù muốn quyết trời nào đã cho!”
Hoặc:
“Vả trong thần mộng mấy lời,
Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
Kiếp này nợ trả chưa xong,
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!”
Nói khác đi, ơng trời ở đây có thể tạm hiểu là một quyền năng của đấng
hóa cơng trong quan niệm “Thiên mệnh” của Nho giáo, nhưng với Nguyễn
Du, ơng trời chỉ là một cách nói nơm na, bình dân của nghiệp nhân nghiệp
quả mà thôi.
2.2.


Điểm khác biệt.

2.2.1. Về nhan đề.


Trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tên tiểu thuyết
là Kim Vân Kiều Truyện đơn thuần chỉ là câu chuyện của ba nhân vật chính,
hợp nhất tên của ba nhân vật Kim Trọng, Vương Thúy Vân, Vương Thúy
Kiều mà thôi.
Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc đã sáng tác Truyện Kiều, truyện thơ
bằng chữ Nôm, một kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm được
nhà thơ lấy tên là Đoạn trường tân thanh với nghĩa là tiếng kêu mới xé lòng
đứt ruột. Ngay trong nhan đề, tác phẩm đã thể hiện được tấm lòng nhân đạo
sâu sắc của thi nhân. Tác phẩm tự sự này xoay quanh kể về cuộc đời nhân
vật chính là nàng Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bị những thế
lực hắc ám vùi dập, đọa đày một cách thương tâm. Đó cũng là sự đại diện
cho số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa.
2.2.2. Về thể loại.
2.2.2.1. Kim Vân Kiều Truyện.
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thuộc thể loại văn
xuôi, thiên về mơ tả sự kiện, nó có điều kiện đi sâu vào mô tả thực tại, khắc
họa chân dung nhân vật một cách cụ thể, chi tiết hơn qua việc phối hợp các
hình thức đối thoại - kể chuyện - phân tích tâm lí một cách tương đối tự do,
linh động. Là một tác phẩm văn xuôi, một tiểu thuyết chương hồi, Kim Vân
Kiều truyện được kết cấu theo tuyến thời gian, theo một trình tự diễn biến
các sự kiện, theo quá trình hành động của các nhân vật chính. Thường trần
thuật một cách liên tục, hết một hồi là hết một truyện nhỏ, một hồi kết thúc ở
chỗ hay, chỗ cao trào hay một "nút thắt". Hồi này móc vào hối kia tạo ra một
thể liên hồn, để tăng thêm phần hấp dẫn, hồi thường kết thúc bằng câu:

"Muốn biết thế nào xem hồi sau sẽ rõ". Song tư duy tiểu thuyết loại này có
đăc điểm riêng, mang rõ dấu ấn chủ quan của người viết, thể hiện rõ qua
điểm “văn dĩ tải đạo”, đan xen giữa cốt truyện và lời phê bình, chỉ dẫn.


2.2.2.2. Truyện Kiều.
Truyện Kiều của Nguyễn Du được thể hiện bằng văn vần, toàn bộ câu
chuyện được tái hiện bằng ngôn ngữ thơ, vừa thông qua cảm xúc chuyển
dịch của chủ quan nhà thơ trên cơ sở một tác phẩm cũ, vừa liên kết xây dựng
văn bản mới với nguồn mạch cảm hứng trữ tình có nhiều thay đổi, động thời
lại vừa phải tn theo vần điệu, nhạc tính, hình ảnh và thể cách của thể thơ
lục bát. Truyện Kiều của Nguyên Du chính là một đỉnh cao rực rỡ của loại
Truyện thơ Nôm. Thể thơ lục bát đến Truyện Kiều cũng được quy chuẩn và
hoàn thiện hơn. Với 3254 câu Lục bát, Nguyễn Du đã huy động hầu hết các
bộ vần trong tiếng Việt vào tác phẩm. Với thể thơ Lục bát Truyên Kiều,
Nguyễn Du đã phát huy tối đa khả năng diễn tả vốn có của câu thơ Lục bát.
Nó có thể miêu tả, có thể kể chuyện, có thể bình luận triết lí…nó có thể đối
thoại, cũng có thể độc thoại…có thể diễn tả cái hùng, cái bi, cái cao thượng,
cái hài hước…Khả năng diễn đạt của Lục bát chẳng kém gì văn xi, thậm
chí cịn có thể hơn văn xuôi.
2.2.3. Về nhân vật.
Khi viết tiểu thuyết Kim Vân Kiều Truyện, Thanh Tâm Tài Nhân đã
sáng tạo ra một hệ thống nhân vật như: Kim Trọng, Thúy Vân, Hoạn Thư,
Thúc Sinh, Tú Bà, sở Khanh, Mã Giám Sinh, Giác Duyên, Tam Hợp đạo cô.
Đến Truyện Kiều, Nguyễn Du thấy hệ thống nhân vật như vậy là đủ, khơng
cần thêm bớt gì nữa. Nhưng đi vào chi tiết thì mức độ sáng tạo của Nguyễn
Du là cao hơn. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật hết sức thành cơng của
mình, Nguyễn Du đã làm cho các nhân vật trở nên quen thuộc với mọi người
Việt Nam. Tên các nhân vật gắn liền với tính cách, chẳng hạn như hai chữ
“Thúy Kiều” được dùng để chỉ những thiếu nữ tài sắc, “Thúc Sinh” để chỉ

những chàng trai hào hoa, “Hoạn Thư” để chỉ những mụ vợ ghen tuông cay


nghiệt, hay những cái tên như “Sở Khanh”, “Tú Bà” thành tên gọi chỉ kẻ xảo
trá và chủ nhà chứa,…
Cá tính nhân vật có sự khác nhau giữa hai tác giả. Ở Thanh Tâm Tài
Nhân tuy có miêu tả chi tiết, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật nhưng chưa khắc họa
rõ chiều sâu cá tính. Chẳng hạn như việc tác giả muốn thể hiện Từ Hải như
một anh hùng uy vũ nhưng rồi lại tốn khơng ít bút mực miêu tả các chi tiết o
ép sứ giả, người hùng cùng quân binh đại bại như thế nào; việc nắm lấy
người làm giá che đỡ, đến khi chết đứng mà không chịu ngã khiến đám qn
lính khơng dám đến gần. Nhưng do văn của Thanh Tâm Tài Nhân chưa xuất
chúng nên các tình tiết tác giả đưa ra cịn vụn về chưa thể hiện được cá tính
mạnh mẽ của Từ Hải. Còn đến với Nguyễn Du, Từ Hải xuất hiện trong
Truyện Kiều là một trang anh hùng cái thế, hoàn toàn tồn khơng có một
chút biểu hiện của một tên tướng cướp giặc cỏ, từ hình hài dung mạo đến khí
phách phong độ:
-"Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
-Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài,
-Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể sở sơng Ngơ tung hồnh"
Người anh hùng ấy cịn có một tính cách, một tấm lịng bao dung:
"Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng,
-Sao cho muốn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng."
Còn là một tấm lịng ngay thẳng. Vì ngay thẳng mà chết oan chết đứng, chết
không nhắm mắt



Ngồi ra Kim Vân Kiều Truyện cịn khắc họa tâm lý nhân vật rất sơ
lược. Mục đích chính của tác phẩm là kể lại cuộc đời đầy bi kịch của một
thiếu nữ tài cao bạc mệnh. Đồng thời tấn bi kịch đó cũng liên quan đến bi
kịch của các nhân vật khác như Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải. Trong khi
thuật lại những tấn bi kịch đó, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ chú trọng đến việc
miêu tả tình tiết mà không mấy chú ý đến biểu hiện tâm lý nhân vật nên
chưa dễ hấp dẫn đối với người đọc. Chẳng hạn như cách miêu tả nổi đau khổ
của Kim Trọng khi biết được Thúy Kiều lưu lạc chỉ giản lược: “Càng khóc
càng thương, khóc cho đến khi miệng ứa máu tươi, ngất đi rồi tỉnh, tỉnh rồi
lại khóc”.
Đến Đoạn trường tân thanh thì khơng thế. Những chỗ chưa nhất qn
và khơng hợp lí trong ngun tác đều được Nguyễn Du nói lại theo cách của
mình. Nguyễn Du vẫn muốn thể hiện Thúy Kiều như một thiếu nữ đáng yêu
đáng kính song khơng q cường điệu ý nghĩa ln lý mà hết sức chú trọng
miêu tả những biến động và cảnh ngộ chua cay trong cuộc đời của Thúy
Kiều. Trong một vài cảnh ngộ, phản ứng của nàng có khi quyết liệt, có khi
nhẫn chịu, nhưng khơng phải khơng hợp tự nhiên, không khác với ứng xử
của con người đời thường. Điều đó cho thấy sự nhất quán trước sau trong
tính cách Thúy Kiều.
Trong Đoạn trường tân thanh, ngơn ngữ và cử chỉ nhân vật cũng được
miêu tả hết sức sinh động, phù hợp với mỗi thân phận và cá tính cụ thể.
Chẳng hạn như đoạn diễn tả phong thái Thúy Kiều khi bán mình:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng.
Hoặc đoạn diễn tả thái độ nàng trước việc cả nhà khuyên nhủ hãy cùng
chàng Kim tái hợp:
Hết lời, khôn lẽ chối lời,



Cúi đầu, nàng những ngắn dài thở than…
Ngoài ra, ngay cả ngôn ngữ, cử chỉ nhân vật phụ cũng được thể hiện khá phù
hợp, ví như Mã Bất Tiến:
Trước thầy sau tớ lao xao…
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…
Hay như Tú Bà:
Lão kia có giở bày bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
Khơng chỉ có thế, mỗi nhân vật cũng đều có cá tính rất rõ ràng. Điều
đó giải thích ngun nhân vì sao tên tuổi các nhân vật kia trở thành những
danh từ tiêu biểu trong kho tang ngôn ngữ tiếng Việt. Chẳng hạn mỗi cử chỉ,
hành động, lời nói của Từ Hải đều biểu hiện rõ ràng tính cách anh hào, mạnh
mẽ, khơng chịu trói buộc, tuy có say đắm Thúy Kiều nhưng khơng vì thế mà
đánh mất tráng chí bốn phương:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lịng bốn phương.
Trơng vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Sau khi lấy Thúy Kiều làm phu nhân, khác với Từ Hải trong nguyên
tác chỉ chăm chú tới vinh hoa phú quý, Từ Hải bộc bạch:
Cười rằng: “Cá nước duyên ưa,
Nhớ lời nói những bao giờ hay khơng?
Anh hùng mới biết anh hùng,
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”


Một điểm khác nữa, tác giả Kim Vân Kiều Truyện chưa chú trọng đến
miêu tả ngoại hình nhân vật mà chỉ nói một cách giản lược “người kiều

diễm, đang độ thanh xuân” (Thúy Kiều), “vẻ tựa Phan Anh, tài ngang Tử
Kiến” (Kim Trọng)…Nguyễn Du ngược lại, với nhân vật nào cũng đều nhập
thần với bút pháp tô điểm, ước lệ, khắc họa chân dung và phong thái cực kì
độc đáo. Chẳng hạn như khi miêu tả Thúy Kiều:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Hay như miêu tả Từ Hải:
"Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
-Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.”
Có khi miêu tả Tú Bà:
Thoắt trơng lờn lợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!
Nhưng thành tựu nghệ thuật to lớn nhất của Nguyễn Du chính là đã
thể hiện được thế giới tình cảm và tâm lý nhân vật. Thi nhân không hề tiếc
bút mực để trau chuốc, khắc họa cho được tâm trạng Thúy KIều nương theo
mỗi cảnh ngộ cụ thể. Chẳng hạn việc diễn tả tâm lí Thúy Kiều khi bị giam
giữ chốn lầu xanh tưởng nhớ Kim TRọng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời gốc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?


Cho đến mười mấy năm sau, một lần nữa nổi niềm thương nhớ Kim Trọng
lại được thể hiện sâu sắc, khơng hề trùng lập:
Tiếc thay! Chút nghĩa cũ càng,

Dẫu lìa ngó ý cịn vương tơ lịng.
2.2.4. Về tình tiết và nội dung.
Cũng như các tiểu thuyết tài tử giai nhân khác, Kim Vân Kiều Truyện
được kể thành hồi (20 hồi) với mơtíp thơng dụng của đơi tài tử giai nhân yêu
nhau rồi đau khổ, chia ly, lưu lạc để đến hồi đồn tụ. Chỉ có điều nhân vật ra
tay cứu nạn ở đây lại là người anh hùng Từ Hải và cảnh đồn tụ lại có khúc
bi ai giữa Th Kiều và Kim Trọng. Trong những tiểu thuyết tài tử giai nhân
chỉ có sự việc và sự việc, chúng tập trung ở từng hồi một thành những mưu
mô. Những mưu mơ này lại móc xích với nhau một cách khá lỏng lẻo để mỗi
mưu mơ có tính độc lập riêng với nhiều tình tiết tỉ mỉ, chi li và người đọc có
thể đọc hồi sau, khơng cần biết hồi trước nói gì mà vẫn hiểu được. Kim Vân
Kiều Truyện cũng được kết cấu như vậy nên có rất nhiều mưu mơ như Kim
Trọng tìm cách chiếm được trái tim Kiều, bọn sai nha lo xoay sở tống tiền,
Thuý Kiều bàn tính để cha mẹ bằng lịng cho được bán mình… Các mưu mơ
ở đây được trình bày khéo léo nên lôi cuốn được người đọc.
Các chi tiết nhỏ nhặt, Thanh Tâm Tài Nhân đều giải thích đầy đủ,
nhưng Nguyễn Du bỏ hết, ông chọn những chi tiết nào thật cần thiết mới giữ
lại và cũng trình bày theo cách kể của ông. Nguyễn Du vay mượn hệ thống
nhân vật cũng như sự kiện nên không tránh khỏi việc tiếp thu những yếu tố
này nhưng ông không đơn thuần chỉ theo nguyên truyện mà sáng tạo lại và
phát huy những điểm mạnh để làm cho đúng theo ý đồ nghệ thuật của mình.
Tuy nhiên từ Kim Vân Kiều Truyện bước sang Truyện Kiều là một thế giới
khác hẳn, Nguyễn Du hầu như bỏ hết các sắp đặt tính tốn, để cho sự việc


S0 SÁNH TRUYỆN KIỀU VỚI KIM VÂN KIỀU TRUYỆN

Ngày 06 tháng 08 năm 2015

Đến nay đã có nhiều công trình khảo sát, khảo luận, đối chiếu, so sánh quan hệ nhiều mặt giữa kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du với nguyên tác tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Đương nhiên đây là mối quan hệ đơn nhất, một chiều, đi từ Kim Vân Kiều truyện tới Truyện Kiều; hay nói cách khác là thi hào Nguyễn Du đã tái tạo, sáng tạo kiệt tác Truyện Kiều từ chính việc tiếp nhận cốt truyện tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện. Vấn đề chúng tôi đặt ra ở đây là Nguyễn Du đã tiếp nhận và xử lý cốt truyện Kim Vân Kiều truyện theo cung cách nào? Ông đã chủ ý lược giản cốt truyện, nhân vật, sự kiện, tình tiết, chương đoạn nào và theo chiều hướng ngược lại, chú trọng khai thác, mở rộng, gia tăng, nhấn mạnh những phương diện nội dung và nghệ thuật trữ tình nào? Điều quan trọng hơn, những phương diện đó đã tạo nên tính qui luật như thế nào trong quá trình sáng tạo, chuyển đổi từ loại hình văn xuôi tự sự tới tự sự - trữ tình, từ thể loại tiểu thuyết chương hồi tới truyện thơ Nôm, từ Kim Vân Kiều truyện tới Truyện Kiều?...

I- Từ công trình nghiên cứu so sánh của Đào Duy Anh, Phạm Đan Quế và những người khác

Ngoại trừ những lời bình điểm khái quát của các nhà nho trước đây, trên thực tế có thể xác định học giả Đào Duy Anh là người đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện một cách tương đối hệ thống, khách quan, theo xu thế khoa học hiện đại qua công trình Khảo luận về Kim Vân Kiều Trong công trình này, Đào Duy Anh tập trung triển khai nội dung so sánh qua hai chương cơ bản gồm: Chương thứ nhất - Lai lịch sách Đoạn trường tân thanh: Chương thứ hai - Từ Kim Vân Kiều truyện đến Đoạn trường tân thanh... Đào Duy Anh xác định: "Ta đã thấy rằng Nguyễn Du đem sách Kim Vân Kiều truyện phiên dịch ra Quốc văn thành sách Đoạn trường tân thanh. Trước khi xét đến bút pháp tài tình của Nguyễn Du, ta hãy xem nội dung của hai sách ấy thế nào" (tr.51). Từ đây ông tóm tắt cốt truyện và nội dung chi tiết từng hồi của thiên tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện, tổng cộng gồm 20 hồi. Đến Truyện Kiều, ông nhận xét: "Sách Đoạn trường tân thanh thì tác giả không chia ra chương hồi nhưng ta có thể xét theo mạch lạc mà chia ra làm ba phần, gồm 13 chương như sau này" (tr.56). Việc chia tác phẩm thành ba phần là tuân theo lối kết cấu Hội ngộ - Lưu lạc - Đoàn viên vốn rất phổ biến trong loại truyện thơ Nôm có nguồn gốc cốt truyện Trung Quốc. Tuy nhiên, khác với việc phân tích kết cấu tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện gồm 20 hồi, tới Truyện Kiều lại được chia thành ba phần, mỗi phần có số chương khác nhau (Phần thứ nhất 3 chương, Phần thứ hai 6 chương, Phần thứ ba 4 chương) và trong mỗi chương này lại chia thành từ 2 đến 5 mục nhỏ.

Phù hợp với cách so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện trong thế đối sánh về kết cấu, Đào Duy Anh nêu lên những nhận xét hữu lý:

"So sánh hai bản cương yếu trên, ta thấy Nguyễn Du giữ nguyên sự tích của tiểu thuyết Tàu, hầu như không thêm bớt chút gì.

Song nguyên văn thì tự thuật rườm rà, tỉ mỉ, kết cấu theo một trật tự dễ dàng đơn giản, mà Nguyễn Du thì châm chước và sắp đặt lại thành một tổ chức có giàn giá chặt chịa, có mạch lạc khít khao.

Nhưng nếu ta muốn thấy rõ phần sáng tác của Nguyễn Du để hiểu rằng ông không phải là một nhà phiên dịch tầm thường thì phải đem xét nội dung của Đoạn trường tân thanh và tùy tiện so sánh với nguyên văn của Thanh Tâm Tài Nhân" (tr.60)...

Một công trình nghiên cứu so sánh bề thế khác nữa là Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế. Chỉ xin lưu ý rằng quan điểm nghiên cứu được ông dẫn giải khá ngắn gọn trong Lời nói đầu, mục B- So sánh đối chiếu giữa hai tác phẩm chỉ gồm vài ba trang và cũng chỉ tập trung ở một đoạn: "Nhìn chung, chúng ta có thể nói: Về cốt truyện, hệ thống nhân vật, thứ tự trình bày các sự kiện, những vấn đề luân lý, triết lý và đôi khi cả các chi tiết, Nguyễn Du đã dựa rất nhiều vào bản gốc của Thanh Tâm Tài Tử. Tuy nhiên, ông đã chỉ chọn những sự việc chính, lược bỏ nhiều những đoạn rườm rà và có khi tóm tắt trong một số ít câu cả một đoạn dài trong truyện. Và sự khác nhau cơ bản là ở chỗ: Các sự kiện trong Kim Vân Kiều truyện là sự kiện chắp nối còn trong Truyện Kiều là sự kiện hữu cơ. Nguyễn Du đã đổi mới Kim Vân Kiều truyện bằng cách thay đổi các quan hệ số lượng giữa các bộ phận (...) và nhất là khi đi vào từng chi tiết, từng đoạn văn cụ thể". Tiếp đó là thao tác so sánh có tính thủ công/ kế toán qua việc chia đoạn Truyện Kiều ứng với từng hổ Kim Vân Kiều truyện. Nhà nghiên cứu xác định việc phân chia Truyện Kiều theo từng hồi cũng như lập bảng so sánh giữa hai cuốn theo từng hồi để đối chiếu là hoàn toàn có tính tương đối" và đi đến nhận xét khái quát: "Qua bảng so sánh trên ta thấy Nguyễn Du gần như giữ nguyên trình tự các sự kiện. Tuy nhiên, ông đã bỏ hẳn hồi 5 và hồi 6, chỉ thu lại trong 20 câu xen vào giữa hồi trước. Riêng hồi 20 -Tái hồi Kim Trọng - ông đã diễn tả bằng 526 câu, tức gần 1/6 tác phẩm. Và nếu tính cả hai hồi trước đó thì ba hồi cuối chiếm tới 1024/3254 câu, gần bằng 1/3 tác phẩm"(tr. 16-18)...

Ngoài hai công trình tiêu biểu của Đào Duy Anh và Phạm Đan Quế còn có khá nhiều chuyên luận, tiểu luận cùng bàn đến vấn đề so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện"'... Nhân đây, chúng tôi xin lưu ý rằng những sự kiện, chi tiết được coi là "rườm rà" thực chất lại là đặc điểm và thế mạnh riêng của Kim Vân Kiều truyện. Những sự kiện, chi tiết đó chính là thuộc tính, yêu cầu và sức mạnh của lối văn xuôi tự sự vốn thiên về tả thực, được trình bày theo tuyến tính biên niên sử của tiểu thuyết chương hồi. Thử hỏi nếu bản thân Kim Vân Kiều truyện lại lược bỏ đi những sự kiện, chi tiết cụ thể thì thiên tiểu thuyêt này còn lại những gì? Dẫn giải như thế để thấy rõ hơn tính hợp lý của những chi tiết, sự kiện được thể hiện trong Kim Vân Kiều truyện và nó chỉ được coi là "rườm rà", “dài dòng” khi đặt trong tương quan với Truyện Kiều và nhìn từ đặc trưng nghệ thuật Truyện Kiều. Trẽn thực tế, nếu sự so sánh chỉ coi trọng tư duy văn xuôi tự sự, coi trọng tuyến cốt truyện, sự kiện, nhân vật, chi tiết và "Nguyễn Du đã in dấu ý thức chủ quan của mình cho một số nhân vật, làm tổn hại sự hoàn chỉnh và thống nhất về tính cách của những nhân vật ấy ở mức độ nhất định" thì tất yếu sẽ dẫn đến cách nhìn đơn giản hoá Truyện Kiều như nhà nghiên cứu Đổng Văn Thành (Trung Quốc); còn nếu bình điểm, qui chiếu Truyện Kiều bằng thước đo nội dung trữ tình và từ đặc trưng nghệ thuật thể loại truyện thơ thì lại thật khó xác định đúng mức giá trị tự thân của tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện.

II- Xu thế lược giản cốt truyện, nhân vật, sự kiện, tình tiết

Khi chuyển đổi từ tác phẩm văn xuôi tự sự tới truyện thơ in đậm sắc thái trữ tình, Nguyễn Du đã thực hiện việc lưa chon các nhân vật, sự kiện, tình tiết sao cho vẫn đảm bảo được nội dung cốt truyện và lại phải đảm bảo được mạch thơ, chất thơ âm điệu, vần luật của thể thơ lục bát dân tộc. Có thể nhận ra một qui luật là Nguyền Du thường lược giản hoặc tóm tắt những chương đoạn thiên về tả thực, kể sự, miêu tả sự kiện; những nhân vật phụ, những đoạn đối thoại dài dòng, những bài thơ xướng họa, đề vinh, cảm khái...

Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du đã chuyển hoá phần lời bình được coi là của Kim Thánh Thán thành những khái quát trữ tình có ý nghĩa đúc kết trải nghiệm cá nhân trong cuộc đời, về những quan niệm triết lý "Tài mệnh tương đố", "Bỉ sắc tư phong”, "Tạo vât đố hồng nhan", "Hồng nhan bạc mệnh". Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du lược bỏ đi hầu hết các bài từ, các bài thơ tứ tuyệt, ngũ ngôn luật, ngũ ngôn trường thiên, thất ngôn; những bài thơ trong tập Đoạn trường, thơ đề tặng Kim Trọng, thơ bày tỏ nỗi lòng khi quyết định bán mình chuộc cha, thơ bày tỏ nỗi niềm thương nhớ gia hương khi ở nhà Tú Bà, thơ xướng hoạ với Thúc Sinh, thơ Thúc Sinh ghi cảnh Thúy Kiều tắm, thơ Thúy Kiều mong nhớ Thúc Sinh; những khúc ca Bạc mệnh oán, Nguyệt nhi cao nói về thân phận người đẹp, Khốc hoàng thiên thương cảm cuộc đời người kỹ nữ, lời ca thảm sầu khi phải hầu rượu Hoạn Thư; bài kệ viết trên cánh cửa gác Quan Âm nhà Hoạn Thư; những bài thơ Thuý Kiều đề vịnh Chiêu Ân Am nơi ở sư thầy Giác Duyên, thơ Lục tuyệt trước khi trẫm mình trên sông Tiền Đường; rồi bài ca trường thiên Chiêu hồn của Tống Ngọc được Kim Trọng đọc thay bài văn tế khóc viếng Thúy Kiều; rồi mười bài thơ của Thúy Kiều trong cuộc đại đoàn viên... chính là nhằm tạo cho cấu trúc truyện thơ trở nên chặt chẽ, liền mạch hơn. Thực tế cho thấy các tác phẩm văn xuôi truyền thống (Nam Ông mộng lục, Truyền kỳ mạn lục, ThánhTông di thảo, Vân Cát thần nữ cổ lục, Truyền kỳ tân phả, Thượng kinh ký sự, Hoa viên kỳ ngộ, Hoan Châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí...) thường có đan xen rất nhiều những bài thơ của chính nhân vật trong truyện hoặc như những lời đề từ, đề vinh, phẩm bình dài ngắn khác nhau. Đặc điểm này có thể thích hợp với cách tiếp nhận của người trung đại nhưng lại khiến cho mạch tự sự bị gián đoạn. Việc Nguyễn Du triệt để lược bỏ những bài thơ này giúp cho truyện thơ gắn bó liền mạch, phù hợp hơn với tiếng nói thơ ca.

Trước đây chúng tôi đã có dịp giải thích việc Nguyễn Du không mô tả chi tiết sự kiện Tú Bà truyền dạy "bảy chữ tám nghề" cho nàng Kiều không chỉ bởi thi hào đã lược bỏ đi một cách đơn giản những đoạn miêu tả có tính chất tự nhiên chủ nghĩa và có hại đối với mỹ cảm của người đọc. So sánh thì thấy đoạn này được Kim Vân Kiều truyện thể hiện trong vài bốn trang với cả chiều sâu nghệ thuật sex, nghệ thuật tâm lý gắn liền với căn rễ cơ sở văn hóa đô thị và đời sống xã hội thị dân phát triển. Đến Truyện Kiều , Nguyễn Du giản lược chỉ còn những câu:

Này con học lấy làm lòng,
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề

Lời thơ thanh nhã, tóm lược đại ý, không còn đâu nội dung, chi tiết cụ thể. Trong Từ điển Truyện Kiều, Đào Duy Anh chú: "Bảy chữ. Theo nguyên truyện thì tiếp khách ở lầu xanh có bảy chữ, tức là bảy cách: 1. Khóc với khách; 2. cắt tóc cho khách làm tin; 3. Thích tên khách vào cánh tay; 4. Đốt hương để thề nguyền; 5. Giả ước nguyện lấy nhau làm vợ chồng; 6. Rủ khách đi trốn; 7. Giả chết cho khách quyến luyến... Tám nghề: Theo nguyên truyện thì tám nghề là tám mánh gái thanh lâu dùng để giữ khách lại, nhưng đều là thô bỉ nên không dẫn vào. Nhưng giải thích như thế thì người đọc cũng chưa rõ đâu vào đâu. Từ đây có hai vấn đề được đặt ra. Thứ nhất, nếu coi đây là sự thể hiện phẩm chất mỹ cảm cao của Nguyễn Du thì thực chất lại chính là bước lùi trên phương diện tư duy nghệ thuật. Bởi lẽ tấm màng lọc mỹ học phong kiến luôn có xu hướng hạn chế khả năng tạo hiện thực, phản ánh đời sống trần tục và sắc màu sex. Với những cố gắng mang tính thời đại, điều này đã thấy xuất hiện trong Kim Vân Kiều truyện nhưng phải chăng lại hoá thành quan phương, chuẩn mực, ước lệ hơn trong Truyện Kiều? Tôi nhớ nhà thơ - đạo diễn điện ảnh Đỗ Minh Tuấn từng cận cảnh bàn đến vấn đề Thúy Kiều và khát vọng "giải sex" và nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương từng phát biểu đại ý, một nền văn học trưởng thành không thể thiếu bảng màu sex. Nguyễn Du là đại biểu một nền văn học lớn mà lại thiếu sex, lại trở nên "Nho hoá" hơn cả Thanh Tâm Tài Nhân? Thứ hai, bên cạnh hứng thú nghệ thuật thì chính sự chuyển đổi từ những trang văn xuôi vốn có điều kiện miêu tả chi tiết, cụ thể tới thể loại truyện thơ đã qui định sự giản lược của Nguyễn Du khi viết về "bảy chữ tám nghề". |Nếu xét trong cả hồi 10 với nội dung "Tú Bà dạy nghề" thì Nguyền Du giản lược chỉ còn 70 câu thơ (câu 1149-1218).

Qua sự cắt nghĩa việc lược giản nội dung "bảy chữ tám nghề" cho phép liên hệ và giải thích nhiều hiện tượng chuyển đổi tương đồng ở nhiều chương đoạn từ Kim Vân Kiều truyện tới Truyện Kiều. Chẳng hạn:

Tại hồi 5 và hồi 6 miêu tả rất nhiều sự kiện như Thúy Kiều quyết định bán mình chuộc cha; những hành động, biện luận và đối thoại giữa Vương ông -Vương bà - Thúy Kiều - Thúy Vân - mụ mối họ Hàm - viên công sai Chung Sự - kẻ mua người họ Mã; việc viết thư gửi Kim Trọng, viết giấy nhận tiền, viết hôn thư và ký xác nhận... được miêu tả chi tiết với nhiều kịch tính, thể hiện trong nhiều tính cách với nhiều trạng thái tâm lý khác nhau đã được Nguyễn Du thu gọn lại chỉ trong 20 câu thơ (câu 665-684). Đây cũng là phần Nguyễn Du giản lược triệt để nhất trong toàn bộ Truyện Kiều.

Tại hồi 18, sự kiện giết Bạc Hạnh, Bạc Bà, Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển, Tú bà, Mã Bất Tiến (Giám Sinh), Sở Khanh được miêu tả đan xen giữa việc tra vấn, đánh đòn Hoạn Thư đã được Nguyễn Du thu gọn lại và lược giản nhân vật phụ như mẹ Hoạn Thư là Kế thị, kiện tướng Sử Chiêu. Đồng thời những đoạn diễn tả chi tiết việc hành hạ, trừng phạt ghê rợn bọn Mã Giám Sinh, Sở Khanh đều được Nguyễn Du phối hợp, kết nối, điểm danh cùng những tên tội đồ khác và chuyển hoá trong lời thơ ngắn gọn :

Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình, còn sao ?
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao, thì lại cứ sao giã hình,
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời...

Tại nửa sau hồi 18 và quá nửa phần đầu hồi 19 là những trang miêu tả hết sức cụ thể chi tiết sức mạnh đạo quân Từ Minh Sơn (Từ Hải) khi đánh tan bọn Tham tướng Bốc Tế và Du kích quân Cừu Nhiêu; quá trình chuyển biến trong tâm lý Thúy Kiều từ lúc sáng suốt cố vấn nghệ thuật đánh trận cho Từ Hải đến nỗi lòng nhớ cố hương và lúc bị chinh phục bởi lễ vật và lời nói ngọt; những mưu thuật của Đốc phủ Hồ Tôn Hiến cùng các lớp biến cố, các tình huống và đối sách chiêu hàng; lớp lớp các nhân vật đi dụ hàng như ông già Hoa Nhân, La trung quân, thị nữ nội gián Tuyên Nghĩa và Dụ Ân, viên mạc lân Lợi Sinh, Thông phán Quyền Nghi, Du kích quân Nữu Hiệp; đặc biệt là cuộc hoà nghị giả trá và cuộc đánh úp với sự tham chiến của những Tổng binh Âm Mưu, Du kích Trương Năng, Tham tướng Lý Thiên... đều được giản lược đến tối đa.

Những dẫn chứng trên cho thấy chiều hướng vận động chung là những chương đoạn nào càng giàu chất tự sự, thực, càng thiên về miêu tả cụ thể, chi tiết; càng nghiêng về kịch tính, đối thoại lớp lang hệ thống và nhiều nhân vật thì càng có xu thế được lược giản nhiều hơn. Điều này phù hợp với đặc trưng tư duy thơ ca cần phải lựa chọn các biến cố, sự kiện, nhân vật, chi tiết sao cho phải thật ngắn gọn, tinh lọc, giàu hình ảnh. Đối với tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện cũng như các tác phẩm xuôi tự sự nói chung, cách thức miêu tả nói trên vốn là ưu thế trong việc phản ánh đầy đủ, xác thực không khí xã hội, sự kiện và tính cách nhân vật thì đó lại không phải là thế mạnh của thơ ca. Rõ ràng việc lược giản cốt truyện, lược giản chất văn xuôi tự sự chính là một đặc điểm nằm trong tính qui luật của quá trình sáng tạo, chuyển đổi từ tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện tới Truyện Kiều.

III-Xu thế gia tăng chất trữ tình , khai thác tâm trạng nhân vật và diễn tả phong cảnh thiên nhiên

Đồng thời với xu thế lược giản cốt truyện, nhân vật, sự kiện, tình tiết, thiên tài nghệ thuật Nguyễn Du còn thể hiện ở việc nâng cấp, gia tăng chất trữ tình, khai thác tâm trạng nhân vật và diễn tả phong cảnh thiên nhiên. Xu thế gia tăng này không chỉ được đo đếm bằng số lượng câu chữ mà bao gồm cả cách thức sáng tạo, nhấn mạnh, cô đúc, tinh lọc, tinh luyện những câu văn xuôi thành lời thơ sâu lắng, gợi cảm, đi sâu vào lòng người.

Ngay từ mấy câu thơ mở đầu kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du đã bày tỏ được quan niệm sáng tác của mình cũng như khái quát được một phương diện quan trọng nhất trong nội dung trữ tình Truyện Kiều:

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Nếu như ở tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, đối tượng được phản ánh là sự đan dệt của hiện thực chữ tình - đại kinh với một bên là chữ khổ - đại vĩ và tấn bi kịch phổ quát về những số phận con người "giai nhân mệnh bạc, hồng phấn thời thừa”, thì đến Truyện Kiều, triết thuyết "tài mệnh tương đố" - Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau - đã được chuyển hóa trong cảm hứng trữ tình, bằng tiếng nói trữ tình ngoại đề và nỗi "đau đón lòng” của chính tiếng lòng Nguyễn Du.

Từ trước đến nay, bạn đọc và giới nghiên cứu ngày càng thâu nhận sâu sắc vai trò của tiếng nói trữ tình trong Truyện Kiều. Phạm Quỳnh cảm nhận Thúy Kiều là"một kẻ sầu nhân" và Truyện Kiều là "một thiên lịch sử thống thiết của tác giả". Hoài Thanh xác nhận Truyện Kiều như một "tiếng kêu thương". Lê Đình Kỵ khai thác vấn đề "tình nghĩa từ Truyện Kiều", "tình thương bao la" và khái quát thành "văn hóa nghĩa tình Việt Nam". Trần Đình Sử từ điểm nhìn lý luận đã mã hóa sắc thái giọng điệu cảm thương", "giọng điệu nghệ thuật cảm thương", "môi trường tình thương”, "nhân vật thể hiện tình thương", "thương người xót thân" và một "chủ nghĩa cảm thương" tạo nên giọng điệu chủ lưu có sức rung cảm sâu xa trong lòng người đọc. Đỗ Minh Tuấn nhấn mạnh "cái tôi trữ tình của Nguyễn Du", "cảm hứng đau đời, thương người" ... Nối tiếp những ý kiến trên, chúng tôi tập trung khảo sát các cách thức biểu hiện lời cảm thán - hiểu như một phương diện tiếng nói trữ tình ngoại đề của Nguyễn Du cũng như khả năng tác giả đồng cảm, chuyển hóa, nhập thân vào thế giới tâm trạng nhân vật.

Trong Truyện Kiều quả đã xuất hiện đậm đặc một số lượng từ cảm thán và bao quát nhiều cung bậc tình cảm, trạng thái tâm lý khác nhau như Ôi, Hỡi, Hỡi ôi, Chàng ôi, Than ôi, Thương ôi... Đây là những sắc thái cảm thương đỉnh cao, hiển hiện trực tiếp, sâu sắc và rõ nét trong Truyện Kiều. Việc phân tích, so sánh những lời cảm thán - câu cảm thán - đoạn văn có lời cảm thán trong Truyện Kiều với nguyên tác Kim Vân Kiều truyện sẽ cho thấy rõ hơn định hướng cảm hứng nghệ thuật cũng như khả năng sáng tạo bậc thầy của nhà nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Du.

Trong Truyện Kiều, có một lần Nguyễn Du sử dụng liền hai từ cảm thán trong một câu:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Đây là dòng thư nằm ở cặp câu lục bát cuối cùng trong một đoạn 38 câu thơ diễn tả lời Thúy Kiều nói với Thúy Vân về mối tình riêng, về đức hiếu sinh với mẹ cha, về việc cậy nhờ em gái thay mình đền đáp lại tấm tình chàng Kim. Giáo sư Nguyễn Lộc đã nhấn mạnh khả năng khai thác nội tâm nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du qua đoạn thơ này: "Lúc đầu Kiều nói với Thúy Vân, về sau thì hình như Kiều tự nói với mình, đến lúc đau đớn quá Kiều quay ra nói với bóng hình của Kim Trọng, và cuối cùng đau đớn lên đến cực độ, Thúy Kiều đã chết ngất đi trong cái bao trùm của bóng hình Kim Trọng: Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!- Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!Xét nguyên tác Kim Vân Kiều truyện, hồi 7, lời cảm thán này không nằm trong đoạn Thúy Kiều nói với Thúy Vân mà là lời Thúy Kiều tự nhủ, tự bày tỏ nỗi lòng trước khi thành thân cùng Mã Giám Sinh. Trong nguyên tác sắc thái cảm thán cũng rất rõ nét: "Kim sinh! Kim sinh! Nhĩ thê tử kim nhật dữ nhĩ ly liễu..." (Chàng Kim!Chàng Kim ! Bữa nay vợ chàng chia ly cùng chàng...).Khi chuyển sang Truyện Kiều , Nguyễn Du đã cảm lại , sắp xếp lại các tình tiết và chuyển hóa chúng trong hình thức nghệ thuật thi ca hết sức cô đọng sâu lắng. Sắc thái cảm thán cũng được chuyển hóa phù hợp với tư duy thơ ca, phù hợp với tâm lý tiếp nhận của người Việt. Các chữ Ôi và Hỡi được đặt ở đầu hai vế vừa là tiểu đối vừa là sự tiếp nối, trùng điệp, nhấn mạnh. Lời cảm thán Ôi Kim lang / được nhắc lại, nhân đôi số lượng câu chữ nhưng sắc thái cảm xúc thì tăng gấp bội.Thêm nữa, khi nhắc lại lời cảm thán, chữ Ôi được thay bằng Hỡi, rõ ràng âm hưởng hô ứng, đăng đối tự nó đã khơi gợi cảm xúc về một lời than, một lời viếng tế, tiếng khóc bi ai. Câu thơ tiếp nối Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! đồng thời là câu kết cho cả một đoạn thơ dài 38 câu bày tỏ nỗi lòng Thúy Kiều với hai từ Thôi thôi (biểu cảm sự thảng thốt, dồn nén tâm trạng bất lực, vô vọng) và ba chữ cuối cùng đều là thanh bằng (tạo âm hưởng hụt hơi, bế tắc, cùng cực)... Vậy là cảm thán đã phát huy tác dụng. Đó cũng chính là ưu thế của tiếng nói thi ca và chất trữ tình đã được Nguyễn Du chuyển hóa, nâng cấp về chất so với hình thức tự sự của nguyên tác. Có thể xác định chiều hướng chung, mỗi khi giọng điệu trữ tình và lời cảm thán gia tăng thì có nghĩa phần cốt truyện, sự kiện ở đó được lược giản, tóm tắt, chuyển hoá, thay thế; đồng thời mỗi khi có cơ xuất hiện những tấn bi kịch, những bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật, những tâm trạng khắc khoải buồn vui hay những đúc kết triết lý về số phận con người thì thường được Nguyễn Du chú trọng khai thác, gia tăng, lời cảm thán và giọng điệu trữ tình.

Gần với trường hợp trên là lời cảm thán Hỡi ôi! trong câu thơ:


Hỡi ôi! Nói hết sự duyên,
Tơ rình đứt ruột, lửa phiền cháy gan.

Đặt trong văn cảnh cụ thể, câu thơ trên thuộc phần mô tả, kể chuyện, tái hiện sự kiện, hoàn cảnh. Lời cảm thán ở đây trước hết biểu cảm sự bàng hoàng thảng thốt của nhân vật Thúc Sinh và đồng thời là khả năng tác giả bộc lộ cảm xúc trước một hiên trường nửa thực nửa giả. Tương ứng trong Kim Vân Kiều truyện, đoạn văn này tường tả lời kể lể , cầu khấn đầy xót thương của Thúc Sinh trước bàn thờ Thúy Kiều.Do đặc trưng thể loại Nguyễn Du không nhằm tường tả lại câu chuyện , không thuật lại lời nói và tình cảm Thúc Chính( người cha) và nỗi đau thương chân thật của Thúc Sinh với Thúy Kiều mà thay bằng lời cảm thán in đậm tiếng nói trữ tình tác giả.

Trong một lần duy nhất , sắc thái chữ Ôi được cá thể hóa gắn liền với đối tượng vì nêu đích danh chủ thể:

Khóc than kể hết niềm tây:
"Chàng ôi! Biết nước nỗi này cho chưa?"

Đây là đoạn kể chuyện Vương ông, Vương bà nói cho Kim Trọng biết việc Thúy Kiều bán mình chuộc cha. Ở Kim Vân Kiều truyện, hồi 20, đoạn này được thể hiện: "Vươn viên ngoại, vương phu nhân đạo: "Kim gia ca, ngã nữ nhi mệnh bạc..." (Vương viên ngoại, Vương bà đều nói: "Cậu Kim ơi! Con gái chúng tôi mệnh bạc..."). Với văn xuôi, cách gọi Kim gia ca (Cậu Kim ơi!) mới chỉ là lối nói thông thường, chủ yếu có ý nghĩa mời gọi, thông báo, báo hiệu, xác định đối tượng. Đến Truyện Kiều, bản thân cách gọi Chàng ôi! đã bao hàm sắc thái xót xa, cảm thông, thương cảm giữa ông bà họ Vương với đối tượng được nghe - chàng Kim Trọng. Điều đó cũng biểu hiện tài năng Nguyễn Du và ưu thế biểu cảm nghệ thuật của tiếng nói thi ca.

Một trường hợp khác khá đặc biệt là lời cảm thán Than ôi! lại được gán cho Sở Khanh:

''Than ôi! sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?".

Đây là câu mở đầu Sở Khanh đánh tiếng với Thúy Kiều, chuẩn bị cho một mưu đồ đã được suy tính từ trước. Trong Kim Vân Kiều truyện, hồi 9, câu này được thể hiện: "Na Sở Khanh nhân đối trước lầu điệt túc tự ngữ đạo: "Như thử quốc sắc thiên tư nữ tử, chẩm ma lạc tại xương gia..." (Sở Khanh dậm chân nói một mình: "Cô gái sắc nước hương trời như thế mà sao lạc lõng chốn bình khang..."). Như vậy là Nguyễn Du đã cải biến-một câu thuần túy độc thoại mang màu sắc tán dương của Sở Khanh thành câu cảm thán in đậm sắc thái tụng ca, nịnh khéo, vờ vịt tôn vinh nhan sắc Thúy Kiều. Giáo sư Trần Đình Sử nhận xét tinh tế: "Sở Khanh tuy giả vờ thương, nhưng chỉ có giả vờ như vậy hắn mới trà trộn vào môi trường tình thương của tác phẩm được'". Xem xét kỹ thì thấy trong khi những câu cảm thán khác thường gắn với đối tượng con người cụ thể, tính danh cụ thể, hoàn cảnh và sự việc cụ thể thì lời than ở đây mang tính phiếm chỉ, bâng quơ, chiếu lệ, chỉ quan tâm đến vỏ hình thức bề ngoài "sắc nước hương trời" mà ngay trong cách thương cảm cũng đã bộc lộ thái độ kể cả, khinh thị: Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây! Như vậy là Nguyễn Du đã cụ thể hóa được sắc thái một lời cảm thán, khiến lời cảm thán trở nên đặc biệt phù hợp với cá tính nhân vật Sở Khanh - chủ thể phát ngôn.

Trên thực tế, lời cảm thán gắn với chữ Ôi được sử dụng nhiều và đa dạng nhất trong Truyện Kiều chính là hai chữ "Thương ôi!".

Lần một:

Thương ôi ! Tài sắc bực này,
Một dao oan nghiệt đứt dây phong trần.

Đây là câu mô tả kể sự đồng thời cũng là lời cảm thán của Nguyễn Du trước việc Thúy Kiều tự tận. Trong Kim Vân Kiều truyện, hồi 8, đoạn này diễn tả: "Thúy Kiều đại khiếu nhất thanh: "Khổ mệnh Thúy Kiều, bất yêu mệnh liễu", vọng hầu nhất thế đao, phốc thân đảo địa..." (Thúy Kiều kêu lớn một tiếng: "Khổ đời Thúy Kiều. Tôi không cần gì thân mạng nữa đâu!”, rồi cầm con dao đâm mạnh vào cổ, tức thì ngã vật xuống đất). Như vậy, khi chuyển sang Truyện Kiều, Nguyễn Du không nói rõ các chi tiết mà chủ yếu gia tăng sắc thái trữ tình, đưa thêm lời cảm thán để nhấn mạnh nỗi oan khổ của Thúy Kiều, nhấn mạnh sự đối lập giữa tài sắc với số phận trong cuộc đời thường.

Lần hai:

Sinh đà phách lạc hồn xiêu,
Thương ôi! Chẳng phải nàng Kiều ở đây?
Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi !

Đây là đoạn diễn tả trạng thái tình cảm Thúc Sinh khi vừa gặp lại Thúy Kiều ngay ở nhà Hoạn Thư. Trong Kim Vân Kiều truyện, hồi 15, đoạn văn này giàu kịch tính, vừa có miêu tả sự kiện vừa có diễn giải tâm trạng, vừa có đối thoại vừa có độc thoại, vừa có hồi tưởng vừa có quá trình vận động tâm lý. Khi chuyển hóa thành thơ ca, Nguyễn Du đã lược bỏ các chi tiết và nhấn mạnh tiếng nói độc thoại, tự vấn, tự suy xét của Thúc Sinh. Ở đây có sự phân thân, chàng Thúc có lo cho Thúy Kiều nhưng trước hết là lo cho mình. Chàng luôn nghi hoặc, giật mình, tự phản tỉnh và đề ra câu hỏi: "... Chẳng phải nàng Kiều ở đây?'\ “Nhân làm sao đến thế này?'\ Thêm nữa, tiếng nói độc thoại được gia tăng bởi lời cảm thán Thương ôi! giúp cho sắc thái trữ tình càng được tô đậm, biểu lộ mối tình "đá vàng” Thúc Sinh dành cho Thúy Kiều cũng như tính bi hài của mối tình Thúc - Thúy trước ngọn "lửa nồng" Hoạn Thư mới vào khúc dạo đầu.

Lần ba :

Giác Duyên nghe nói rụng rời:
"Một đời nàng nhẽ. Thương ôi ! Còn gì!”.

Đây là lời sư thầy Giác Duyên cảm thán sau khi nghe đạo cô Tam Hợp tiết lộ thiên cơ về quãng đời mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều. Trong Kim Vân Kiều truyện, hồi 19, đoạn này được thể hiện: "Giác Duyên thính liễu đại kinh đạo: "Nhược như thử thuyết tắc vương phu nhân chung thân dĩ hỹ tai!'" (Giác Duyên cả kinh nói: "Nếu như vậy thì cuộc đời Thúy Kiểu còn gì nữa!"). Như vậy Nguyễn Du trong khi theo sát nguyên tác lại đã nhấn mạnh sắc thái biểu cảm ở câu nói của Giác Duyên. Lời cảm thán đặt giữa dòng thơ tạo dấu gạch nối như một tiếng nấc dứt đoạn giữa chừng: Một đời nàng nhẽ/... / Còn gì! Cần chú ý thêm rằng, theo Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều thì chữ "nhẽ" là trợ từ có nghĩa như "hỡi". Vậy thì ngữ nghĩa cũng như sắc thái trữ tình của câu thơ cần được đọc và hiểu như một lời cảm thán trùng điệp: Một đời nàng hỡi! Thương ôi! Còn gì! Điều này cũng có nghĩa là vai trò của lời cảm thán cũng như cách ngắt nhịp, âm luật, vần điệu đã phối hợp tạo nên tiếng nói trữ tình cảm thương sâu sắc ở tác phẩm truyện thơ và đưa lại hiệu quả nghệ thuật với một bước tiến rõ rệt so với nguyên tác tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện.

Lần bốn:

Thương ôi! Không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển, riêng oan một nàng!

Đây là lời bình, lời tả và kể chuyện sau khi Kim Trọng rủ Vương Quan đến Hàng Châu tìm Thúy Kiều và được biết nàng đã tự tận trên sông Tiền Đường. Trong Kim Vân Kiều truyện, hồi 20, đoạn này không có lời cảm thán mà chỉ kể sự, tường là sự kiện: "Kim Trọng thính đắc thử ngôn, phóng thanh đại khốc, nhất gia vô bất ai hào. Tức vong thu thập tế lễ, đáo Tiền Đường giang thượng..." (Kim Trọng nghe được tin này buông tiếng khóc lớn, mọi người ai cũng gào khóc thảm thương, bèn sửa soạn lễ vật đến bờ sông Tiền Đường...). Đến Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đưa thêm lời tổng kết, khái quát để nhấn mạnh nỗi thương xót của mọi người với Thúy Kiều, đồng thời đưa thêm lời cảm thán trữ tình mở đầu cho câu thơ. Lời cảm thán Than ôi! vừa nằm trong văn mạch diễn tả hoàn cảnh nhưng cũng là tiếng nói trữ tình ngoại đề và là lời cảm thương của Nguyễn Du khiến cho giá trị biểu cảm của ý thơ được nâng cao, từ đó tạo nên sự đồng cảm, hòa đồng, cuốn hút người đọc.

Khách quan mà nói, kỳ thực trong Kim Vân Kiều truyện cũng có rất nhiều câu chữ mang sắc thái cảm thán. Những câu chữ và lời cảm thán đó có khi chỉ tiếng gọi hay sự vọng tưởng về một nhân vật cụ thể: 'Thư thư!", "Kim sinh! Kim sinh!" "Ngã lụy nhĩ! Ngã lụy nhĩ!", "Phu nhân ngộ ngã! Phu nhân ngộ ngã!"...: có khi là tiếng kêu trời, lời thở than vô vọng: 'Thiên thiên", "Hà nhân!", "Khả tích! Khả tích!", Khả tích nhất đóa kiều hoa, lãng tháp phù nê chi thượng! Thiên thiên!"... Tương ứng như vậy, ngoài những lời cảm thán! gắn với chữ Ôi như đã nêu, trong Truyện Kiều cũng còn rất nhiều những câu chữ in đậm sắc thái cảm thán như kiểu chữ "thay”: Đau đớn thay, Thương thay, Tiếc thay, Xót thay, Hại thay, Khéo thay, Sợ thay, Đoạt trường thay, Sao nói lạ lùng thay, Nghe ra muôn oán nqhìn sầu lắm thay..; chữ ' ghê”: Chỉn ghê, Dài ghê...; chữ "bao": Xiết bao, Bao quản, Quản bao. Thoắt nghe chàngi thoắt rụng rời xiết bao, Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình...; chữ "thôi”: Thôi thôi, Thôi thế thì thôi, Thôi có ra gì, Thôi còn chi nữa, Thôi thế là xong, Thôi con còn nói chi con, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma, Thôi thôi ta dã mắc tay mi rồi. ! Thân này đã đến thế này thì thôi...; chữ "sao": Phận sao, Xưa giờ sao. Thản sao nhiều nỗi bất bằng, v.v...

Khi khác là những lời cảm thán được thể hiện bằng nhiều cách thức độc đáo:


Máu ghen đâu có lạ đời là ghen!
Ấy mấy gan, ấy mới tài!
Hại nhân nhân hại, sự nào tại ta!
Kể bao nhiêu, lại đau lòng bấy nhiêu!
"Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có hay gì,
Đã tu, tu chót, qua thì, thì thôi!"...


Điều hiển nhiên là trong Truyện Kiều không phải chỉ khi nào xuất hiện các chữ Hỡi, Hỡi ôi. Chàng ôi, Than ôi, Thương ôi thì lúc đó mới xuất hiện lời cảm thán, cảm thương. Như đã nêu trên, việc chúng tôi giới hạn khảo sát câu chữ gắn với từ Ôi nhằm tìm hiểu sắc thái đậm nét nhất, hiển hiện rõ nét nhất và tiêu biểu nhất trong giọng điệu cảm thương. Ngoài những câu chữ thuộc dòng chủ lưu trên đây đương nhiên còn có thể mở rộng tìm hiểu các sắc thái và cách thức biểu đạt lời cảm thán khác nữa vốn được thể hiện hết sức đa dạng và sinh động trong Truyện Kiều.

Trong chiều hướng chung, nhằm phát huy ưu thế tiếng nói trữ tình vốn phù hợp với tư duy thơ ca, Nguyễn Du hầu như không bỏ đi bất kỳ những yếu tố, tình tiết nào liên quan đến thế giới tâm lý, tâm trạng nhân vật, lời độc thoại nội tâm và những trang miêu tả phong cảnh thiên nhiên vốn rất hiếm hoi trong Kim Vân Kiều truyện.

Như đã nói trên, ông còn triệt để khai thác, phát triển, mở rộng, tô đậm mỗi khi có điều kiện và làm nên sắc thái "trữ tình thiên nhiên", ”thiên nhiên tâm trạng" đạt tới đỉnh cao nghệ thuật trong nền thơ tiếng Việt. Đào Duy Anh trong công trình Kháo luận Truyện Kiều hết sức đề cao nghệ thuật miêu tả ngoại hình, biểu lộ đời sống nội tâm và phản ánh mối tương quan giữa tâm trạng, tính cách nhân vật với đời sống thiên nhiên.

Đây là thiên nhiên mùa xuân thần tiên gắn với ngày hội xuân:

Tiết vừa con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa...
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang...

Đây là tâm trạng bâng khuâng vô vọng của Thúy Kiều gắn với nỗi cô đơn, một mình đối diện với ngọn đèn, với những chiều hôm, mặt nước, nội cỏ, tiếng gió, tiếng sóng:

... Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông mặt nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi...

Rõ ràng ở những đoạn trong nguyên tác xa gần có nói đến thiên nhiên, có diễn giải tâm trạng nhân vật thì đều được Nguyễn Du chăm chút, gia công, khiến cho những đoạn thơ này tràn đầy âm hưởng trữ tình và cũng là những câu thơ hay nhất trong Truyện Kiều. Theo thống kê của Phạm Đan Quế, toàn truyện có tới hai mươi lần chính diễn tả tâm sự Thúy Kiều trước hoặc sau mỗi biến cố của cuộc đời và mười bốn lần nói lên những suy nghĩ riêng tư của các nhân vật khác. Điều đáng là tất cả sự diễn tả tâm sự Thúy Kiều cũng như những suy nghĩ riêng tư của nhân vật đều được triển khai phát huy, nhấn mạnh trên cơ sở cảm hứng trữ tình với tiếng nói thi ca. Trong chuyên luận Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du Truyện Kiều. Đỗ Minh Tuấn đã từ tiền đề lý luận "Trữ tình và phương hướng cứu nghệ thuật trữ tình trong truyện thơ" tiến tới khảo sát từng phương diện góp phần quyết định làm nên chất thơ Truyện Kiều như "Cảm hứng nhân đạo nghĩa, cảm hứng đau đời, thương người và cái tôi trữ tình của Nguyễn Du trong Kiều " "Trữ tình ngoại đề", "Nhân vật trữ tình", "Trữ tình thiên nhiên", ngữ trữ tình của Nguyễn Du" và tập trung nhấn mạnh vai trò tiếng nói trữ tình"cơ sở chung nghĩa là nội dung thống nhất xuyên suốt các hình tượng trữ tình một truyện thơ là cảm hứng nhân đạo về xã hội, về thân phận con người đi đôi cái tôi trữ tình của tác giả. Do đó, nghiên cứu cảm hứng sáng tác trong tác phẩm là nghiên cứu cái tôi trữ tình của tác giả thể hiện trong tác phẩm đó (...). Với chức năng gia tăng thêm nội dung cảm xúc cần thiết cho những nội dung tự sự nhấn mạnh và với bản chất nhân đạo chủ nghĩa, cái tôi trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều tồn tại trên ba phương thức: 1/ Nhập thân vào câu chuyện. 2/ Nhập thân vào nhân vật. 3/ Nhập thân vào cảnh vật (...). Trong khi thuật lại truyện, Tâm Tài Nhân thường là không tỏ thái độ mà trái lại có khi còn miêu tả quá lạnh lùng cái thảm khốc bề ngoài của nó... Nguyễn Du không làm như Thanh Tài Nhân mà nhập vào cuộc, chứng kiến và bày tỏ ngay thái độ của mình khi việc vừa xảy ra, máu và nước mắt còn nóng hổi. Nguyễn Du là một chứng nhân sinh động, không phải là người phê bình sự việc hay nhấm nháp nỗi đau. Ở những nào sự việc xảy ra chỉ được Thanh Tâm Tài Nhân tả lại và tả lại với một cái nhìn lạnh lùng những chi tiết rùng rợn thì Nguyễn Du kêu lên những tiêng kêu phản như kêu cứu, như ngăn chặn: Rường cao rút ngược dây oan - Dẫu là đá cũng nát lọ người-Mặc ..dù chưa nhấn mạnh".Mặc dù chưa nhấn mạnh đặc trưng và tính hợp lý của mỗi kiểu tuy gắn với mỗi kiểu loại sáng tác nhưng Đỗ Minh Tuấn đã xác định đúng vai trò tiếng nói trữ tình trong thể loại truyện thơ và khả năng chuyển đổi, gia tăng chất trữ tình trong Truyện Kiều.

Từ những dẫn chứng và phân tích trên cho thấy Nguyễn Du một mặt cố gắng tỏ tiếng nói trữ tình ngay cả ở những đoạn văn nguyên tác vốn giàu chất tự sự khi có thể được và đồng thời mỗi khi nguyên tác gợi mở một nét dấu hiệu trữ hay một nét đẹp phong cảnh thiên nhiên thì liền được ông đón nhận, phát triển,nhiều cung bậc và hình thức thể hiện sắc thái cảm thán khác nhau, Nguyễn Du chuyển hóa tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện vốn thuộc loại hình tự sự thành một truyện thơ Nôm đậm đặc chất trữ tình. Những lời cảm thán đó có khi là tiếng nói trữ tình ngoại đề của Nguyền Du, có khi phát khởi trong mạch truyện, có khi chính là lời một nhân vật cụ thể nào đó. Tất cả những lời cảm thán trong Truyện Kiều góp phần tạo nên chất trữ tình, tiếng nói trữ tình, giọng điệu và âm hướng trữ tình sâu lắng. Một điều căn cốt khác nữa, những lời cảm thán và tiếng nói trữ tình đó lại được thể hiện bằng hình thức thơ ca, bằng lối thơ lục bát sinh động, giàu nhạc điệu, khiến cho Truyện Kiều có được hiệu quả nghệ thuật khác biệt hẳn so với tác phẩm tự sự Kim Vân Kiều truyện và đặc biệt thích hợp với tâm lý tiếp nhận của người Việt Nam.

IV- Lời kết mở

Trong tư cách người thưởng thức, bạn đọc hẳn có thể chỉ đọc Truyện Kiều mà không cần biết đến bất kỳ mối liên hệ nào với nguyên tác Kim Vân Kiều truyện. Trong tư cách người nghiên cứu, mối quan hệ giữa Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện lại đặt ra những vấn đề quan trọng về tương quan giữa hai tác phẩm, về đặc điểm sự vay mượn cốt truyện và khả năng sáng tạo của Nguyễn Du. Về xu thế chuyên hoá từ tiểu thuyết văn xuôi tự sự chương hồi tới truyện thơ Nôm đậm đặc chất trữ tình, về hiện tượng Truyện Kiều đặt trong hệ thống hàng loạt truvện thơ Nôm có nguồn gốc cốt truyện Trung Quốc, về qui luật tiếp nhận và quá trình phát triển của mỗi nền văn học dân tộc, về vị trí Nguyễn Du trong tư cách ”người môi giới văn hoá vốn xuất hiện phổ biến dưới thời trung đại ở khu vực Đông Á cũng như với nhiều nước trên thế giới... Theo chúng tôi, việc chỉ ra hai xu thế lược giản cốt truyện, nhân vật, sự kiện, tình tiết và xu thế gia tăng chất trữ tình, khai thác tâm trạng nhân vật và diễn tả phong cảnh thiên nhiên chính là nhằm nhấn mạnh đặc trưng sự chuyển đổi loại hình và thể loại từ nguyên tác Kim Vân Kiều truyện đến Truyện Kiều, nhấn mạnh năng lực sáng tạo bậc thầy của nhà nghệ sĩ ngôn từ - đại thi hào dân tộc Nguyễn Du

Hà Nội, 1994

4-10-2005

NGUYỄN HỮU SƠN - PGS.TS - Viện Văn học.


2. Kết cấu cốt truyện và nội dung

Nhưng cho dù tác giả là ai, thì tác giả Kim Vân Kiều Lục cũng không từng đọc cuốn Kim Vân Kiều Truyện A 953. Bởi vì tên các nhân vật trong sách chỉ đi theo sát tên gọi như truyện Kiều không thừa không thiếu.Vậy ta nên gọi nó là loại sách gì, nếu không gọi là cuốn bình giảng truyện Kiều? Trong khi đó cuốn A 953 lại chi tiết hóa hơn Truyện Kiều nhưng cũng chỉ là bình giảng truyện Kiều, chỉ khác là trình bày kiểu tiểu thuyết chương hồi.

Xét về tổng thể cuốn Kim Vân Kiều Lục chỉ 48 trang, trong khi Kim Vân Kiều Truyện A 953 gấp 10 lần độ dài: 478 trang. Tuy nhiên xét về mặt chất lượng thì Kim Vân Kiều Lục lại hơn hẳn A 953. Trước hết về bố cục không thừa không thiếu, sát với ý thơ Kiều. Tác giả cố tình biễu diễn tài viết tiểu thuyết của mình trong phần đầu từ mở đầu cho đến giấc mộng Đạm Tiên. Còn lại thì chỉ lướt qua xem như chẳng cần diễn giải dài dòng. Chủ yếu là diễn lời thơ ra văn xuôi cho dễ hiểu mà không cần chú giải điển tích, điển từ. Đồng thời bổ sung những chỗ truyện Kiều không miêu tả chi tiết. Ví dụ tới câu thơ Kiều 99, 100, khi Kiều viếng nhang mã Đạm Tiên xong:

Rút trâm sẳn giắt mái đầuVạch da cây vịnh bốn câu ba vần

Rõ ràng ý Nguyễn Du nói Kiều đã làm bài thơ tứ tuyệt. Nhưng không rõ bài thơ thế nào, nhà nho tài tử liền ráp vào một bài tứ tuyệt:

Tuyền hạ giai nhân tri dã vôHồng nhan thuỳ thị cánh vô phuLạc nhạn trầm ngư mê khách tứThê lương phong nguyệt xúc nhân sầu.

Xem thêm: Tóm Tắt Sách: Lời Nói Dối Vĩ Đại Của Não Pdf, Lời Nói Dối Vĩ Đại Của Não

Tương tự với 2 câu Kiều:

Kiều vâng lĩnh ý đề bàiTay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm

Thì nhà nho tài tử làm ngay 10 bài thơ minh họa thơ của nàng Kiều.

Toàn bộ tác phẩm mang nét duyên dáng súc tích, trau chuốt của thể loại văn ngôn. Tác giả có chủ định diễn thơ ra văn xuôi cô đọng hơn lời thơ Kiều, nhưng đủ làm hiểu ý lời thơ. Nhìn chung tác giả giữ đúng tiêu chuẩn tín, đạt, nhã khi diễn văn xuôi, không phân tích, phê bình, không phóng tác sa đà. Cho nên trở thành một cuốn truyện vừa nhất quán và lôi cuốn. Xét về mặt bình giảng là một cuốn sách đạt yêu cầu cho giới bình dân liên kết được cốt truyện của Đoạn Trường tân Thanh từ đầu đến cuối, đủ nhận ra tính cách các nhân vật chính phụ, cũng như tôn trọng tư duy về chủ đề tùy người đọc.Ngược lại khảo sát nội dung Kim Vân Kiều Truyện viết dưới dạng tiểu thuyết chương hồi. Đầu mỗi hồi có hai câu đối tóm tắt cốt truyện trong hồi ấy. Sau đó lại dẫn ý, kể truyện và cuối chương lại xen vào bình phẩm. Kết cấu mỗi hồi giống như một bài bình giảng thường thấy mỗi đoạn thơ Kiều. Các hồi viết không đều tay, có hồi theo thể văn ngôn, có hồi lại bạch thoại. Chứng tỏ rằng đây là sự lắp ráp của nhiều người.Ngày nay đọc bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh có trau chuốt theo ngôn ngữ hiện đại. Bản dịch đầu tiên của Nguyễn Duy Ngung và của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm cho thấy theo sát văn bản hơn. Rất nhiều hồi chôm đến hàng chục câu thơ Kiều thêm bớt vài chữ cho ra văn xuôi. Những bài thơ minh họa phần lớn không hay. Nhưng xét tổng thể cũng giúp cho người đọc hiểu được thơ Kiều về cốt truyện nhưng về tư tưởng lệch nghĩa rất nhiều.

Các nhà Kiều học chưa có công trình so sánh kỹ 2 tác phẩm này. Ở đây chúng tôi chỉ nhắc qua vài điểm. Nếu ai chịu khó so sánh còn thấy cuốn A954 là cuốn tán rộng ra nội dung của Kim Vân kiều lục. Nhưng lại làm cho nó có vẻ khác, không chịu ảnh hưởng của Kim Vân Kiều Lục.

Tuy nhiên chính sự làm cho khác nhau đó ta thấy khi bình giảng Kiều mỗi tác giả có thể tưởng tượng thêm. Ví dụ về gia thế Kiều, Kim Vân Kiều Lục hư cấu quê quán Kiều ở đâu đó gọi là Lôi Châu- Hồ Nam. Trong A953 quê Kiều ở Bắc Kinh. Thực ra nếu xét Kiều ở Bắc Kinh thì có nhiều điểm không khớp. Ví dụ : Kiều nói dối Giác Duyên:

Gạn gùng ngành ngọn hỏi tườngLạ lùng nàng lại tìm đường nói quanhTiểu thiền quê ở Bắc KinhQui sư, quy Phật tu hành bấy lâu.

Đã là nói dối thì không phải ở Bắc Kinh rồi. Kiều ở không xa Lâm Tri, chỉ gần Lâm Thanh hơn thôi. , nên vừa bắn tin bán mình đã có người từ Lâm Tri đến mua. Nếu ở Kinh Đô thì với tài sắc của Kiều, Mã giám Sinh không có cửa để mua đâu. Xưa nay ma cô tỉnh lẻ lại lên kinh đô dụ gái đẹp? Hoặc như bị tên bán tơ khai ẩu thì tại kinh đô ắt không có chuyện điều tra kiểu bá đạo thế được. Đây cũng là điểm chứng tỏ tài tử A953 đã không hiểu đúng thơ Kiều bằng tác giả Kim vân Kiều Lục nên mới cho rằng quê Kiều ở Bắc Kinh. Thực tế theo sử cũng nói Kiều xuất thân là Kỹ nữ Lâm Tri. Sự vẻ vời sa đà sẽ dẫn tới mâu thuẫn. Điển hình nhất là sự vẻ vời chuyện Kiều báo oán.

.

3. Lời bàn

Sự ra đời của Thanh Tâm Tài Tử rõ ràng có lợi ích cho vương triều từ Minh Mạng đến Tự Đức. Đồng thời nó cũng chứng tỏ truyện Kiều có sức hấp dẫn dân gian mãnh liệt và bền bỉ. Bên cạnh hàng loạt các tác phẩm ưu tú hứng khởi từ Truyện Kiều mà Kim Vân Kiều Lục là một điển hình, cũng có đôi tác phẩm lạm dụng và bị lợi dụng làm hoen ố hình ảnh Truyện Kiều như Kim Vân Kiều Truyện. Việc biên soạn đối chiếu Truyện Kiều song song với Kim Vân Kiều Truyện, như là một giải nghĩa cho truyện Kiều chẳng những là tư duy “lộn ngược đầu”, vô bổ mà còn gây tác hại lâu dài: Lộn ngược là lấy sau giải thích trước. Vô bổ vì bản thân Kim Vân Kiều Truyện là một tác phẩm dỡ, không đáng đem ra đối chiếu. Tác hại lâu dài vì thay tâm hồn Việt bằng tâm lý xa lạ của ngoại bang.

Thay vì vậy, việc phân chia bố cục truyện Kiều ra nhiều phần là cần thiết, giúp cho người đọc dễ hình dung cốt truyện nhất là khi người đọc không có thời gian đọc liên tục, cũng là giúp tra cứu trích dẫn nhanh chóng. Việc chú thích chỉ cần đơn giản vài từ cổ bằng ngữ nghĩa hiện đại, ví như cuốn chú thích của Kiều Oánh Mậu (Nhà xuất bản Thuận Hóa tái bản)

Việc dẫn cổ thư Tàu như Chiêm Vân Thị, Bùi Khánh Diễn để chú thích truyện Kiều, xét cho cùng chỉ là muốn tỏ vẻ thông tuệ hình thức, nhưng thực chất sẽ kìm hãm tư duy dân tộc và nhân văn. Nếu cần thiết thì nên liên hệ đến ca dao, tục ngữ các nhà thơ nhà văn Việt Nam đã dùng. Nếu muốn một công đôi chuyện thì nên dùng Kim Vân Kiều Lục đối chiếu, vừa giúp những người mới đọc hiểu được cốt truyện, vừa góp thêm câu truyện văn chương. (Ví như cuốn do Phạm Tú Châu dịch)

Chúng ta cần mạnh dạn tẩy chay các bài viết luôn mở đầu hoặc lén ghép các câu đại loại: “Nguyễn Du dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Tàu để viết nên tuyệt tác truyện Kiều…”. Nếu không nhắc tới Thanh Tâm Tài Nhân bên Tàu thì Truyện Kiều không còn là tuyệt tác hay sao? Các kiểu viết như vậy hoặc là lừa mị hoặc là rỗng tuếch.

Trước hết đó không phải là sự thật: Thanh Tâm Tài Nhân không có thật. Tiếp đến ta tự cúi đầu khom lưng, hạ thấp giá trị của tiền nhân. Chúng ta chưa bao giờ từ chối Nguyễn Du đã mượn sử liệu, tiểu phẩm, và tên nhân vật, địa danh Trung Hoa để viết nên Truyện Kiều. Đó chỉ là cái cớ trong một hoàn cảnh lịch sử thời quân chủ nước ta. Chú ý rằng các truyện như Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, Thủy Hử… dưới chế độ phong kiến Trung Hoa cũng chỉ được cho phép viết sau đó chí ít cũng 400 năm hoặc đến cả hơn ngàn năm. Dưới chế độ độc tài phong kiến thì không có tác phẩm mang tính hiện thực phê phán nào ra đời cả. Nếu muốn, phải ngụy trang thật khéo, lọt lưới như Truyện Kiều là một trường hợp kỳ diệu, nhưng cũng chỉ khi tác giả qua đời mới công bố. Phải chăng Tiên Điền không thiết sống để đứa con tinh thần quý giá của dân tộc ra đời!?

“Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn.” Nhận định của Phạm Quỳnh vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại hiện nay.