SO SÁNH KIM VÂN KIỀU TRUYỆN VÀ TRUYỆN KIỀUBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.31 KB, 72 trang ) Show BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO đánh giá khác nhau và chưa giải quyết một cách triệt để. Trên cơ sở tham khảo một số cơng trình nghiên cứu và sự tìm tịi phân tích của nhóm, chúng tơi xin đưa ra một vài điểm tương đồng cũng như khác biệt của hai tác phẩm nói trên. NỘI DUNG 1. Giới thiệu chung. 1.1. Truyện Kiều. 1.1.1. Tác giả. Nguyễn Du (1766 - 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh ra trong một gia đình q tộc có truyền thống làm quan và văn chương ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Truyền thống của gia đình đã có những ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng, tình cảm, tâm hồn và tài năng của Nguyễn Du. Gia đình Nguyễn Du có nhiều người đậu đạt cao và làm quan to tại triều đình: Thân sinh của Nguyễn Du đậu tiến sĩ, từng làm tể tướng, Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức lớn dưới cả hai thời Trịnh Sâm và Trịnh Tông, Nguyễn Huệ, bác ruột Nguyễn Du, đậu tiến sĩ. Theo Phạm Ðình Hổ thì dịng họ này có 12 tiến sĩ và 5 quận cơng. Bản thân ông là người học rộng biết nhiều, am tường cả Nho, Phật, Đạo. Ông là một con người tài năng. Xuất thân trong một gia đình phong kiến đại q tộc có danh vọng vào loại bậc nhất đương thời nhưng Nguyễn Du sống trong cuộc sống nhung lụa không được bao lâu. Bởi vì nhà thơ lớn lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ nhanh chóng theo đà sụp đổ của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh. Nguyễn Du phải sớm đương đầu với những biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Nhà thơ đã từng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông có một thời gian dài khoảng hơn 10 năm sống lưu lạc ở quê vợ ở Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Ơng trải qua "mười năm gió bụi", có lúc ốm đau khơng có thuốc, mái tóc sớm bạc. Ơng tự xưng là "Hồng Sơn liệp hộ" (người đi săn ở núi Hồng), "Nam Hải điếu đổ" (Người câu cá ở biển Nam Hải): "Hồng Sơn cao ngất mấy tầng, Đò Cài mấy trượng là lòng bấy nhiêu!". Năm 1802, Gia Long triệu Nguyễn Du ra làm quan. Chỉ trong vịng hơn 10 năm, ơng đã bước lên đỉnh cao danh vọng: làm Chánh sứ sang Trung Quốc (1813- 1814), giữ chức Hữu tham tri bộ Lễ. Năm 1820, lần thứ hai, ông lại được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh, qua đời. Những năm tháng bất hạnh ấy có ảnh hưởng trực tiếp quyết định đến sự hình thành con người nghệ sĩ vĩ đại ở ơng.Nguyễn Du là một nhà thơ có tấm lòng nhân đạo sâu xa. Sống một cuộc đời chịu nhiều gió bụi của chiến tranh loạn lạc, Nguyễn Du đã nhiều phen phiêu dạt nơi đất khách, sống những tháng ngày lo âu chốn quan trường, mệt nhoài trong bệnh tật. Tâm hồn ông đã kinh qua nhiều nỗi bi kịch, nhiều cảnh đời trái ngang và hơn hết, đọng lại trong tâm hồn đa sầu đa cảm của thi nhân là những giọt nước mắt thương mình, thương đời, thương người. Nguyễn Du có một tâm hồn lớn, trái tim lớn, nhạy bén với thời cuộc và có cái nhìn tồn diện về cuộc đời. Bản thân ông là một tác gia, một tấm gương lớn của thời đại. Về con đường văn nghiệp thì Nguyễn Du là một tác gia văn học không chỉ thành công về mặt chữ Nơm mà cịn có thành tựu nghệ thuật về mặt chữ Hán. Sáng tác của ông nặng trĩu tâm tâm tư của con người ưu thời mẫn thế, thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân văn cũng như nghệ thuật viết thật điêu luyện. - Tác phẩm chữ Nơm gồm có: Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi Đau Đứt ruột-Tên phổ biến là Truyện Kiều), Được viết bằng chữ Nôm, gồm 3254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng Đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cơ gái có tài sắc. Về thời Điểm sáng tác, Từ Điển văn học (bộ mới) ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông Đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi Đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau Được nhiều người chấp nhận hơn". Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời Điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sơng Đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta Đều lập Đàn giải thoát Để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ơng Hồng Xn Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ơng cịn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm Được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nơm. Thác lời trai phường nón, 48 câu, Được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cơ gái phường vải. Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, Để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cơ gái phường vải khác - Tác phẩm chữ Hán gồm có: “Thanh Hiên thi tập” 1786-1804 “Nam trung tạp ngâm” 1805-1812. “Bắc hành tạp lục” 1813-1814. Cả ba tập thơ đã được tập hợp lại thành tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Du do nhóm Lê Thước và Trương Chính giới thiệu, xuất bản năm 1965 gồm 243 bài thơ. Thơ chữ Hán có một vị trí khá quan trọng trong hành trình sáng tác của Nguyễn Du. Đó là tập hợp những tư liệu phản ánh trực tiếp đời sống tư tưởng, tình cảm của nhà thơ trong khoảng ba mươi năm gió bụi cuộc đời. Ba tập thơ chữ Hán có sự phân định như sau: - “Thanh Hiên thi tập”: Gồm 78 bài thơ Nguyễn Du sáng tác trong khoảng thời gian từ 1786 đến 1804. Đó là khoảng thời gian mười năm gió bụi ơng nương náu ở q vợ, sau đó trở về dưới chân núi Hồng, rồi ra làm quan ở Bắc Hà. - “Nam trung tạp ngâm”: Tập hợp 40 bài thơ được viết từ 1805 đến cuối 1812 khi Nguyễn Du thăng hàm Đông các điện học sĩ, làm quan trong Kinh cho đến hết thời kì làm Cai bạ dinh Quảng Bình. - “Bắc hành tạp lục”: Gồm 132 tác phẩm được sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc 1813 - 1814. 1.1.2 Tác phẩm. Truyện Kiều tên gốc là Đoạn trường tân thanh, là truyện thơ chữ Nôm theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm 3254 câu lục bát, dựa theo tiểu thuyết, dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Lại có thuyết nói ơng viết trước khi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình(1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn. Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc in và lưu hành rộng rãi. Hai bản in xưa nhất hiện còn là bản của Liễu Văn Đường(1871) và bản của Duy Minh Thị(1872), đều ở thời vua Tự Đức. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều- nhân vật chính trong truyện là một cơ gái “ sắc nước hương trời” và có tài “cầm, kỳ, thi, họa” nhưng cuộc đời lại gặp lắm truân chuyên. Tác phẩm đã dựng lên một bức tranh xã hội rộng lớn phản ánh tình trạng xã hội đương thời. Trong đó nhà thơ đã lên án, tố cáo những thế lực chà đạp lên quyền sống, quyền được hạnh phúc của con người. Đó là sức mạnh đen tối của đồng tiền phi nghĩa, nó đã trở thành kẻ đồng lõa với lòng tham, sự bất cơng và cái ác. Vì tham tiền mà thằng bán tơ vu khống Vương ơng, vì tham tiền mà Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh…đã dựng lên cả một hệ thống nhà chứa, vì tham tiền mà sinh ra những kẻ phản trắc, nhẫn tâm như Sở Khanh, Ưng Khuyển….. Đó là chế độ nhà chứa được dung túng đã giam cầm, lừa lọc con người, đặc biệt là người phụ nữ. Biết bao người con gái đã bị chôn vùi tuổi thanh xuân chốn lầu xanh nhơ nhớp ấy mà Đạm Tiên và Thúy Kiều là số phận tiêu biểu. Giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện ở việc tố cáo sự thối nát của chính quyền phong kiến mà đại diện là Hồ Tôn Hiến và bè lũ tay sai…. Chúng chẳng những tàn bạo, lật lọng, tham lam mà còn là một phường phán trắc dâm ơ. Về nội dung thì sách “ Đoạn Trường Tân Thanh” thì tác giả khơng chia ra từng hồi, nhưng ta có thể xét theo mạch lạc mà chia ra làm ba phần, gồm 13 chương như sau: Phần Thứ Nhất: HỘI NGỘ A-Phát Đoạn a) Tài mệnh tương đố b) Gia thế c) Tài sắc hai chị em Thúy Kiều. B-Kiều gặp Kim Trọng a) Chơi xuân đến mộ Đạm Tiên b)Gặp Kim Trọng c)Về nhà - nghĩ vẩn vơ - Mộng Đạm Tiên- Than thân. C-Đi lại với Kim Trọng a) Kim Trọng tương tư - thuê nhà b)Kim Trọng gặp Kiều - giao ước c)Kiều tìm Kim Trọng- thề nguyền - nói răn Phần Thứ Hai:LƯU LẠC A- Gia biến Kim Trọng sang Liêu Dương Cha và em Kiều mắc nạn- Kiều quyết bán mình Mã Giám Sinh mua Kiều Vương ơng được tha- Kiều khuyên giải Kiều phó thác tâm sự cho em. B- Vào lầu xanh lần thứ nhất a) Mã Giám Sinh rước Kiều: Về trú phường- về Lâm Tri. b) Đến lầu xanh- Tú bà ra oai- Kiều tự vẫn c) Tú bà lập mưu- dỗ Kiều- Kiều ở lầu Ngưng Bích- bị Sở Khanh lừa- Tú bà hành tội d) Kiều tiếp khách. C- Lấy Thúc Sinh a) Kiều được Thúc Sinh chuộc ra b) Bị Thúc ơng cáo quan- quan xử đồn tụ c) Sợ vợ chính- Kiều khuyên Thúc Sinh về nhà d) Hoạn Thư căm giận- Thúc Sinh về nhà không dám thù e) Thúc Sinh đi, Hoạn Thư lập mưu bắt Kiều- Thúc Sinh tưởng Kiều chết D - Mắc tay Hoạn Thư a) Kiều bị bắt nộp cho Hoạn bà b) Kiều phải sang hầu Hoạn Thư c) Hoạn Thư làm nhục Kiều trước mặt Thúc Sinh d) Kiều được tu ở Quan Âm các e) Thúc Sinh lên thăm Kiều bị Hoạn Thư bắt được. E-Vào lầu xanh lần thứ hai a) Kiều sợ trốn vào am Chiêu Ẩn b)Giác Duyên sợ lụy gửi Kiều cho Bạc Bà c) Bạc Bà lừa bán Kiều cho lầu xanh. G- Lấy Từ Hải- Hết nợ đoạn trường a) Được Từ Hải chuộc ra b)Từ Hải thành cơng-Kiều báo ân báo ốn- Giác Dun nói vận mệnh- Từ Hải hùng cứ c) Hồ Tôn Hiến dùng mưu dụ hàng- Từ Hải đầu hàng và bị giết d)Kiều bị ép lấy thổ quan- Tự tử ở Tiền đường e) Giác Duyên gặp sư Tam Hợp nói chuyện Kiều- thuê thuyền vớt Kiều. Phần thứ ba: ĐOÀN VIÊN A- Kim Trọng trở lại vườn Thúy a) Trở về thấy cảnh điêu tàn b) Gặp gia đình Thúy Kiều c) Ni cha mẹ Kiều-lấy Thúy Vân B- Tìm Thúy Kiều a) Kim Trọng, Vương quan thi đậu và được bổ quan b) Hỏi được tin Kiều ở Lâm Tri c) Hỏi được tin Kiều ở Hàng Châu- tưởng Kiều đã chết C- Sum họp một nhà a) Gặp đàn Tế - gặp Giác Duyên b) Giác Duyên dẫn đi tìm Kiều- Kiều từ giả Giác Duyên c) Mừng đoàn viên- Kiều cố từ việc kết hôn không được d) Kim Trọng hứa xem nhau là bạn bè- Kiều đành đoạn kết liều đời bạc mệnh. D- Kết Thúc a) Tài và mệnh b) Thiện tâm sửa được số mệnh. Về nội dung, Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tác phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận những người bị áp bức, đau khổ, đặc biệt là số phận bi kịch của người phụ nữ. Về nghệ thuật,Truyện Kiều đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, nổi bật là ngôn ngữ và thể loại. Đến Truyện Kiều, ngôn ngữ tiếng Việt đã đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ nghệ thuật ở cả ba phương diện biểu đạt, biểu cảm và thẩm mĩ ; kết hợp hài hịa giữa ngơn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Đồng thời nghệ thuật tự sự và miêu tả trong tác phẩm cũng rất đa dạng. Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản với số lượng lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá rất cao về Truyện Kiều. Và có thể nói rằng kiệt tác Truyện Kiều có sức chinh phục khá lớn đối với nhiều thế hệ đọc giả cả trong và ngoài nước. 1.2. Kim Vân Kiều Truyện. 1.2.1. Tác giả. Thanh Tâm tài nhân tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ Vị, cịn có bút danh khác là Thiện Tri, Thanh Đằng, Điền Thủy Nguyệt. Theo một số tư liệu ghi lại, ông sinh năm 1521 và mất năm 1593, là nhà văn Trung Quốc sống dưới đời nhà Thanh. Ông học giỏi, hiểu biết rộng nhưng lận đận chốn quan trường, thi không đỗ bèn làm mặc khách của Hồ Tôn Hiến. Đã có lần ơng thảo tờ biểu “Dâng hươu trắng” cho vua nên trở thành nổi tiếng. Ngoài Kim Vân Kiều Truyện, ông còn viết bộ kịch “Tứ thanh viên” (Vượn kêu bốn tiếng) gồm bốn vở Ngư dương lộng, Thúy nương mộng, Hoa mộc lan và Nữ trạng nguyên. 1.2.2. Tác phẩm. Kim Vân Kiều Truyện là một trong vô vàn tiểu thuyết Minh Thanh (cuối Minh đầu Thanh), là cuốn tiểu thuyết chương hồi có kết cấu truyền thống theo kiểu văn xuôi cổ điển Trung Quốc, với chủ đề chính là tình và khổ. Tác phẩm viết về cuộc đời của Vương Thúy Kiều - cô gái sống ở đời Minh, tài sắc vẹn tồn nhưng khơng tránh khỏi kiếp hồng nhan bạc mệnh. Cuộc sống của cô như một trị đùa của định mệnh, cơ phải sống lưu lạc, chịu nhiều khổ sở, đắng cay: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.” ( Kiều hai lần vào lầu xanh và hai lần làm nữ tỳ). Cuốn tiểu thuyết gồm 20 hồi, trước mỗi hồi đều có phần giới thiệu, tóm tắt nội dung và bình luận. Kết cấu tác phẩm được viết theo thời gian tuyến tính, diễn biến theo các sự kiện và hoạt động của nhân vật chính. Kim Vân Kiều Truyện thiên về mơ tả sự kiện, đi sâu miêu tả thực tại, khắc họa chân dung nhân vật một cách cụ thể- điều mà đôi khi ta cảm thấy hơi khó chịu. Cũng như các tiểu thuyết chương hồi khác, tác phẩm gần như không đề cập đến diễn biến tâm lý nhân vật mà chỉ có các biến cố, hành động của nhân vật. Tác phẩm lại đặc biệt coi trọng mâu thuẫn xung đột, tập trung mô tả nhiều chi tiết để tơ đậm một tính cách nào đấy của nhân vật. Diện mạo nhân vật gần như chỉ là những nét chấm phá chứ không miêu tả cụ thể.Trong tác phẩm, tác giả cũng đã đưa vào những đoạn thơ, bài phú miêu tả thiên nhiên, nhưng thiên nhiên ấy lại bị tách rời khỏi cốt truyện và đôi khi lại không gắn bó gì với tâm trạng của nhân vật. Nội dung từng hồi trong Kim Vân Kiều Truyện: Hồi 1: Lược thuật gia thế họ Vương, sau đó là tài sắc của chị em Thúy Kiều, cùng gặp gỡ Kim Trọng khi đi thăm mộ Đạm Tiên. Hồi 2: Thúy Kiều về nhà mộng thấy Đạm Tiên và họa thơ bạc mệnh. Kim Trọng giả danh du học đến thuê nhà ở vườn Thúy, rồi được hội ngộ, trao thoa đổi quạt với Thúy Kiều. Hồi 3: Nhân dịp cha mẹ đi ăn lễ sinh nhật ở ngoại gia, Thúy Kiều cáo bệnh ở nhà gặp gỡ Kim Trọng. Hai người hẹn ước trăm năm. Hồi 4: Kim Trọng phải sang Liêu Dương hộ tang. Chàng vừa đi thì nhà Thúy Kiều mắc họa. Nàng định bán mình chuộc cha, trước khi đi có nhờ em gái là Thúy Vân thay mình giữ lời hẹn ước với Kim Trọng. Hồi 5: Vương ông cùng cả nhà không ai chịu cho Thúy Kiều bán mình. Nàng hết lời phân giải thiệt hơn, Vương ông cũng không nghe, toan tự vẫn. Hồi 6: Mã Giám Sinh đưa tiền trang trải xong xuôi mọi việc. Thúy Kiều cảm ơn Chung Sự là người lo toan mọi việc, nhận làm kế phụ. Hồi 7: Thúy Kiều viết thư từ biệt Kim Trọng rồi chết ngất đi. Thúy Vân thuật chuyện tâm sự của chị cho cha mẹ nghe. Mã Giám Sinh rước Kiều đi, nàng nghi ngờ thái độ của Mã nên thủ sẵn một con dao để phòng thân. Ngày thứ ba, Mã đưa Kiều về Lâm Tri. Hồi 8: Về đến Lâm Tri, Kiều biết mình đã vào lầu xanh nên phản đối, bị Tú bà đánh đòn. Kiều rút dao tự tử nhưng không chết. Tú bà chạy thuốc, dỗ ngọt, cho nàng tịnh dưỡng ở lầu Ngưng Bích và hứa sẽ gả chồng. Tại đây, Kiều gặp Sở Khanh. Hồi 9: Kiều mắc mưu Sở Khanh, nhờ hắn cứu thoát, bị người của Tú bà chạy theo bắt về, phải chịu đòn đau. Hồi 10: Tú bà ép Kiều phải tiếp khách. Sở Khanh quay lại, toan hành hung để che lấp xấu hổ nhưng bị kỷ nữ chửi mắng nên bỏ đi. Tú bà dạy cho Thúy Kiều bảy chữ tám nghề. Hồi 11: Kiều ở lầu xanh, than thở cảnh mình và hát để tiêu sầu. Nàng gặp Thúc Sinh, cùng vui đùa ngâm vịnh khiến chàng say mê. Hồi 12: Thúc Sinh giấu Kiều ở một nơi rồi lập kế chuộc ra. Được một năm, cha Thúc Sinh đến, kiện con ở phủ đường bắt ly dị. Nhưng bài thơ “Mộc giả” của Thúy Kiều khiến quan phủ xiêu lịng, xử cho đồn tụ. Hồi 13: Hoạn Thư là vợ chính của Thúc Sinh nghe tin, nhưng làm ngơ để tiện thi độc kế. Kiều khuyên chồng về thú với Hoạn Thư, Thúc ông cũng khuyên. Vợ chồng ngâm vịnh khi tiễn biệt. Về đến nhà, tưởng Hoạn Thư vẫn chưa biết nên chàng giấu. Được một năm, Thúc Sinh trở lại Lâm Tri, Hoạn Thư qua bàn với mẹ lập mưu bắt Kiều. Hồi 14: Hoạn Thư sai gia đình dị đường tắt đi bắt Thúy Kiều. Thúc Sinh về đến nơi, tưởng kiều đã bị chết cháy. Kiều bị mẹ con Hoạn Thư hành hạ, Thúc Sinh về nhà thăm vợ thì Hoạn Thư bắt Kiều ra chào. Hồi 15: Thúc Sinh và Thúy Kiều gặp nhau mà không dám rỉ răng. Kiều phải hầu tiệc, Hoạn Thư bắt Thúc Sinh tra sao Kiều có vẻ buồn, sau đồng ý để nàng ra tu ở Quan Âm các sau vườn. Hồi 16: Thúc Sinh ra thăm Kiều, khuyên nàng trốn đi, Hoạn Thư bắt được. Thúy Kiều sợ, trộm chuông khánh trốn đi, được sư Giác Duyên thu dụng. Hồi 17: Hoạn Thư cho đi tầm nã nhưng Thúc Sinh can. Ở am Chiêu Ân, vì có người biết nên Kiều phải thú với sư Giác Duyên chuyện ăn trộm chuông khánh. Bà vãi cho Kiều trốn ở nhà Bạc bà là một tay bợm già. Bạc bà lừa gả Kiều cho cháu là Bạc Hạnh để bán nàng vào lầu xanh ở Thái Châu. Ở đây, nàng gặp Từ Hải là một kẻ cự phú hào hoa. Từ cảm mấy lời tri kỷ, chuộc Kiều ra, ở với nhau được một năm thì Từ đi làm giặc. Hồi 18: Từ Hải đi được 3 năm, lập nên sự nghiệp, cho người về rước Kiều đến đại doanh. Kiều xin báo ân báo oán. Hồ Tôn Hiến đem quân đến tiểu trừ, thấy thế giặc mạnh phải lập mưu chiêu hàng. Tôn Hiến dụ hàng, Từ không nhận lễ nhưng Kiều khuyên nên nhận. Hồi 19: Kiều lấy lời trung hiếu khuyên khiến Từ Hải phải xuôi, nhận lời với sứ giả. Nhưng khi Từ đã giải bình thì Tơn Hiến đánh úp, trở mặt. Từ Hải chết đứng, đến khi Thúy Kiều ơm khóc thì mới ngã xuống. Tôn Hiến ép gả Kiều cho một người tù trưởng mới hàng. Kiều nhớ đến lời báo mộng của Đạm Tiên, trầm mình xuống sơng Tiền Đường. Giác Duyên theo lời tiên tri của sư Tam Hợp, vớt cứu được Kiều. Khi nàng mê mẩn, gặp Đạm Tiên trả lại tập thơ Đoạn trường và báo cho nàng biết được sống lại. Hồi 20: Cuối cùng là cuộc tái ngộ với Kim Trọng. Từ khi chàng trở về vườn Thúy, thi đỗ làm quan, dò la tin tức của Thúy Kiều. Cho đến khi tưởng Kiều đã chết, lập đàn giải oan và được sư Giác Duyên dẫn đi gặp Kiều. Thúy Kiều nể lời cha mẹ và Kim Trọng nên nhận lời tái hợp. Nhưng thấy thân đã nhục không đáng hiến cho kẻ chung tình, xin Kim Trọng xem mình như một người bạn. 2. Điểm tương đồng và khác biệt giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện. 2.1. Điểm tương đồng. Về nội dung cơ bản cả hai đều nói về một nhà viên ngoại họ Vương, sống vào năm Gia –Tĩnh triều Minh, có 3 người con, người con út là Vương Quan rất chăm chỉ và hiếu học, có hai chị gái là Vương Thúy Kiều và Vương Thúy Vân đều xinh đẹp, mỗi người một vẻ, đặc biêt là với Thúy Kiều khơng chỉ có nhan sắc mà cịn có tài cầm kì thi họa. Nhân lễ tết thanh minh, 3 chị e vơ tình viếng mộ một ca kỹ yểu mệnh là nàng Đạm Tiên. Biết chuyện cuộc đời đoạn trường của Đạm Tiên khiến Thúy Kiều thương xót cho người mà cũng lo lắng cho mình. Gặp Kim Trọng đem lịng u mến và thề nguyền lứa đơi. Chẳng bao lâu Kim Trọng vì việc nhà phải trở về, gia đình Kiều lại mang họa án oan, để cứu gia đinh thốt vịng lao lí, Kiều phải bán mình cho Mã giám sinh để chuộc cha. Rồi nàng bị lừa và lưu lạc vào chốn lầu xanh, bị Sở Khanh và Tú Bà lừa tiếp khách, nàng rơi xuống vũng bùn của xã hội. Tại lầu xanh, nàng quen biết với Thúc Sinh và được chàng chuộc về. Vợ chàng Thúc Sinh là Hoạn Thư vì ghen ghét đã hành hạ, và giam lỏng nàng, ép nàng chép kinh. Thừa cơ hội bỏ trốn, nàng tìm đến và nương nhờ sư Giác Duyên. Rồi vì lo ngại sống khơng n, Thúy Kiều ra đi va bị Bac Bà và Bạc Hạnh lừa vào lầu xanh lần nữa. May thay lần này nàng gặp được người anh hùng Từ Hải cứu về làm phu nhân. Từ Hải. Mượn thanh thế và quyền lực của Từ Hải,Thúy kiều đã báo ân và báo ốn cho mình. Nàng khun Từ Hải đầu hang triều đình để cầu cuộc sống bình yên, Từ Hải đồng ý. Quan phủ nuốt lời, Từ Hải phải chết, Kiều bị ép gã cho Thổ quan, quá phẫn chí, nàng nhảy xuống Sơng Tiền Đường tự vẫn, được sư Giác Duyên cứu sống. Đúng lúc Kim Trọng theo tin tức tới khóc điếu nàng thì gặp nhau, cả gia đình đồn tụ.Dây cũng chính là điểm giống nhau về nội dung của hai tác phẩm. Về thống nhân vật: Nguyễn Du hầu như đã lấy tồn bộ hệ thống nhân vật chính của Kim Vân Kiều truyện để sáng tạo cho tac phẩm Truyện Kiều. Cụ thể các nhân vật chính bao gồm: Vương ông, Vương bà, Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan, Đạm Tiên, Kim Trọng, Thằng bán tơ, Mã Giám Sinh, Tú bà, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hoạn phu nhân, Thúc ông, Khuyển, Ưng, Giác Duyên, Bạc bà, Bạc hạnh, Từ Hải, Hồ Tơn Hiến. Nhìn một cách tổng qt, cả hai cuốn truyện này đều có những điểm tương đồng ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng tín ngưỡng dân gian . Trước hết, cả hai đều khởi đầu bằng thuyết lý “Hồng nhan bạc mệnh” như một thứ định luật cố hữu theo niềm tin của người Đông phương và đặc biệt là Trung Hoa. Dưới cách nhìn của phương Đơng, những kẻ tài sắc thường bị mệnh bạc, tạo hóa ghen ghét mà theo lý giải của dân gian cho rằng họ đã tạo nghiệp trong kiếp trước; kiếp này sinh ra có sắc có tài, nhưng tài sắc ấy chỉ làm cho họ khổ lụy như là hậu quả của việc gây nhân từ kiếp trước. Nhân vật Đạm Tiên có thể xem là một bằng chứng cho lý thuyết ấy cũng như một dự báo trước cho Thúy Kiều, một người cũng có tài sắc: “Chắc vì hồn cảnh khơng may dun dủi vào nơi bể lửa vùi dập ngày xuân. Vậy thì thuyền trước thuyền sau, biết đâu chị em mình lại chẳng là kiếp sau của người đó?” ( Kim Vân Kiều Truyện) Và với Nguyễn Du, ông vẫn giữ lại ý tưởng này nhưng triển khai rộng hơn nhắm đến thân phận của đàn bà nói chung, trong đó có những kẻ hồng nhan: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Phũ phàng chi bấy hóa cơng, Ngày xanh mịn mỏi má hồng phơi pha”. Và rằng “Hồng nhan tự nghìn xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”. Ngoài ra, trong cả hai cuốn truyện này đều nhấn mạnh số kiếp và định nghiệp đời Kiều. Định nghiệp có lẽ bắt nguồn từ nghiệp nhân kiếp trước nhưng bây giờ trước mắt Kiều cái định nghiệp ấy như một thứ ám ảnh đeo đuổi và không thể chối từ dù bằng cái chết của mình: Trong Kim Vân Kiều Truyện, Thanh Tâm Tài Tử qua lời Đạm Tiên đã nhắc nhở Thúy Kiều: “Huống chi trong lúc mình vừa chợp mắt, rõ ràng Đạm Tiên đã bảo: “Món nợ oan nghiệt chưa trang trải xong, vội thoát cõi trần sao được? Như vậy mà cứ liều chết, chẳng những nợ của kiếp trước chưa hồn, mà nợ oan nghiệt kiếp này cịn chồng chất lên nữa, thì đến kiếp nào mới trả xong?”. ( Kim Vân Kiều Truyện) Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, ông vẫn giữ nguyên ý kiến của Thanh Tâm Tài Tử về định nghiệp, nhưng lại khốc vào đó một ngun nhân tối thượng rất gần với tâm hồn Việt Nam là ông Trời. Song ơng Trời ở đây có lẽ chỉ nên hiểu như một biểu tượng của màn lưới bao trùm định nghiệp oan tiền nghiệp chướng ấy: “Kể rằng: “Nhân quả dở dang, Để toan trốn nợ đoạn tràng được sao! Số còn nặng kiếp má đào, Người dù muốn quyết trời nào đã cho!” Hoặc: “Vả trong thần mộng mấy lời, Túc nhân âu cũng có trời ở trong. Kiếp này nợ trả chưa xong, Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!” Nói khác đi, ơng trời ở đây có thể tạm hiểu là một quyền năng của đấng hóa cơng trong quan niệm “Thiên mệnh” của Nho giáo, nhưng với Nguyễn Du, ơng trời chỉ là một cách nói nơm na, bình dân của nghiệp nhân nghiệp quả mà thôi. 2.2. Điểm khác biệt. 2.2.1. Về nhan đề. Trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tên tiểu thuyết là Kim Vân Kiều Truyện đơn thuần chỉ là câu chuyện của ba nhân vật chính, hợp nhất tên của ba nhân vật Kim Trọng, Vương Thúy Vân, Vương Thúy Kiều mà thôi. Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc đã sáng tác Truyện Kiều, truyện thơ bằng chữ Nôm, một kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm được nhà thơ lấy tên là Đoạn trường tân thanh với nghĩa là tiếng kêu mới xé lòng đứt ruột. Ngay trong nhan đề, tác phẩm đã thể hiện được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của thi nhân. Tác phẩm tự sự này xoay quanh kể về cuộc đời nhân vật chính là nàng Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bị những thế lực hắc ám vùi dập, đọa đày một cách thương tâm. Đó cũng là sự đại diện cho số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa. 2.2.2. Về thể loại. 2.2.2.1. Kim Vân Kiều Truyện. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thuộc thể loại văn xuôi, thiên về mơ tả sự kiện, nó có điều kiện đi sâu vào mô tả thực tại, khắc họa chân dung nhân vật một cách cụ thể, chi tiết hơn qua việc phối hợp các hình thức đối thoại - kể chuyện - phân tích tâm lí một cách tương đối tự do, linh động. Là một tác phẩm văn xuôi, một tiểu thuyết chương hồi, Kim Vân Kiều truyện được kết cấu theo tuyến thời gian, theo một trình tự diễn biến các sự kiện, theo quá trình hành động của các nhân vật chính. Thường trần thuật một cách liên tục, hết một hồi là hết một truyện nhỏ, một hồi kết thúc ở chỗ hay, chỗ cao trào hay một "nút thắt". Hồi này móc vào hối kia tạo ra một thể liên hồn, để tăng thêm phần hấp dẫn, hồi thường kết thúc bằng câu: "Muốn biết thế nào xem hồi sau sẽ rõ". Song tư duy tiểu thuyết loại này có đăc điểm riêng, mang rõ dấu ấn chủ quan của người viết, thể hiện rõ qua điểm “văn dĩ tải đạo”, đan xen giữa cốt truyện và lời phê bình, chỉ dẫn. 2.2.2.2. Truyện Kiều. Truyện Kiều của Nguyễn Du được thể hiện bằng văn vần, toàn bộ câu chuyện được tái hiện bằng ngôn ngữ thơ, vừa thông qua cảm xúc chuyển dịch của chủ quan nhà thơ trên cơ sở một tác phẩm cũ, vừa liên kết xây dựng văn bản mới với nguồn mạch cảm hứng trữ tình có nhiều thay đổi, động thời lại vừa phải tn theo vần điệu, nhạc tính, hình ảnh và thể cách của thể thơ lục bát. Truyện Kiều của Nguyên Du chính là một đỉnh cao rực rỡ của loại Truyện thơ Nôm. Thể thơ lục bát đến Truyện Kiều cũng được quy chuẩn và hoàn thiện hơn. Với 3254 câu Lục bát, Nguyễn Du đã huy động hầu hết các bộ vần trong tiếng Việt vào tác phẩm. Với thể thơ Lục bát Truyên Kiều, Nguyễn Du đã phát huy tối đa khả năng diễn tả vốn có của câu thơ Lục bát. Nó có thể miêu tả, có thể kể chuyện, có thể bình luận triết lí…nó có thể đối thoại, cũng có thể độc thoại…có thể diễn tả cái hùng, cái bi, cái cao thượng, cái hài hước…Khả năng diễn đạt của Lục bát chẳng kém gì văn xi, thậm chí cịn có thể hơn văn xuôi. 2.2.3. Về nhân vật. Khi viết tiểu thuyết Kim Vân Kiều Truyện, Thanh Tâm Tài Nhân đã sáng tạo ra một hệ thống nhân vật như: Kim Trọng, Thúy Vân, Hoạn Thư, Thúc Sinh, Tú Bà, sở Khanh, Mã Giám Sinh, Giác Duyên, Tam Hợp đạo cô. Đến Truyện Kiều, Nguyễn Du thấy hệ thống nhân vật như vậy là đủ, khơng cần thêm bớt gì nữa. Nhưng đi vào chi tiết thì mức độ sáng tạo của Nguyễn Du là cao hơn. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật hết sức thành cơng của mình, Nguyễn Du đã làm cho các nhân vật trở nên quen thuộc với mọi người Việt Nam. Tên các nhân vật gắn liền với tính cách, chẳng hạn như hai chữ “Thúy Kiều” được dùng để chỉ những thiếu nữ tài sắc, “Thúc Sinh” để chỉ những chàng trai hào hoa, “Hoạn Thư” để chỉ những mụ vợ ghen tuông cay nghiệt, hay những cái tên như “Sở Khanh”, “Tú Bà” thành tên gọi chỉ kẻ xảo trá và chủ nhà chứa,… Cá tính nhân vật có sự khác nhau giữa hai tác giả. Ở Thanh Tâm Tài Nhân tuy có miêu tả chi tiết, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật nhưng chưa khắc họa rõ chiều sâu cá tính. Chẳng hạn như việc tác giả muốn thể hiện Từ Hải như một anh hùng uy vũ nhưng rồi lại tốn khơng ít bút mực miêu tả các chi tiết o ép sứ giả, người hùng cùng quân binh đại bại như thế nào; việc nắm lấy người làm giá che đỡ, đến khi chết đứng mà không chịu ngã khiến đám qn lính khơng dám đến gần. Nhưng do văn của Thanh Tâm Tài Nhân chưa xuất chúng nên các tình tiết tác giả đưa ra cịn vụn về chưa thể hiện được cá tính mạnh mẽ của Từ Hải. Còn đến với Nguyễn Du, Từ Hải xuất hiện trong Truyện Kiều là một trang anh hùng cái thế, hoàn toàn tồn khơng có một chút biểu hiện của một tên tướng cướp giặc cỏ, từ hình hài dung mạo đến khí phách phong độ: -"Râu hùm hàm én mày ngài Vai năm tấc rộng thân mười thước cao. -Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài, -Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể sở sơng Ngơ tung hồnh" Người anh hùng ấy cịn có một tính cách, một tấm lịng bao dung: "Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng, -Sao cho muốn dặm một nhà, Cho người thấy mặt là ta cam lòng." Còn là một tấm lịng ngay thẳng. Vì ngay thẳng mà chết oan chết đứng, chết không nhắm mắt Ngồi ra Kim Vân Kiều Truyện cịn khắc họa tâm lý nhân vật rất sơ lược. Mục đích chính của tác phẩm là kể lại cuộc đời đầy bi kịch của một thiếu nữ tài cao bạc mệnh. Đồng thời tấn bi kịch đó cũng liên quan đến bi kịch của các nhân vật khác như Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải. Trong khi thuật lại những tấn bi kịch đó, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ chú trọng đến việc miêu tả tình tiết mà không mấy chú ý đến biểu hiện tâm lý nhân vật nên chưa dễ hấp dẫn đối với người đọc. Chẳng hạn như cách miêu tả nổi đau khổ của Kim Trọng khi biết được Thúy Kiều lưu lạc chỉ giản lược: “Càng khóc càng thương, khóc cho đến khi miệng ứa máu tươi, ngất đi rồi tỉnh, tỉnh rồi lại khóc”. Đến Đoạn trường tân thanh thì khơng thế. Những chỗ chưa nhất qn và khơng hợp lí trong ngun tác đều được Nguyễn Du nói lại theo cách của mình. Nguyễn Du vẫn muốn thể hiện Thúy Kiều như một thiếu nữ đáng yêu đáng kính song khơng q cường điệu ý nghĩa ln lý mà hết sức chú trọng miêu tả những biến động và cảnh ngộ chua cay trong cuộc đời của Thúy Kiều. Trong một vài cảnh ngộ, phản ứng của nàng có khi quyết liệt, có khi nhẫn chịu, nhưng khơng phải khơng hợp tự nhiên, không khác với ứng xử của con người đời thường. Điều đó cho thấy sự nhất quán trước sau trong tính cách Thúy Kiều. Trong Đoạn trường tân thanh, ngơn ngữ và cử chỉ nhân vật cũng được miêu tả hết sức sinh động, phù hợp với mỗi thân phận và cá tính cụ thể. Chẳng hạn như đoạn diễn tả phong thái Thúy Kiều khi bán mình: Nỗi mình thêm tức nỗi nhà, Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng. Hoặc đoạn diễn tả thái độ nàng trước việc cả nhà khuyên nhủ hãy cùng chàng Kim tái hợp: Hết lời, khôn lẽ chối lời, Cúi đầu, nàng những ngắn dài thở than… Ngoài ra, ngay cả ngôn ngữ, cử chỉ nhân vật phụ cũng được thể hiện khá phù hợp, ví như Mã Bất Tiến: Trước thầy sau tớ lao xao… Ghế trên ngồi tót sỗ sàng… Hay như Tú Bà: Lão kia có giở bày bây, Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe. Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao! Khơng chỉ có thế, mỗi nhân vật cũng đều có cá tính rất rõ ràng. Điều đó giải thích ngun nhân vì sao tên tuổi các nhân vật kia trở thành những danh từ tiêu biểu trong kho tang ngôn ngữ tiếng Việt. Chẳng hạn mỗi cử chỉ, hành động, lời nói của Từ Hải đều biểu hiện rõ ràng tính cách anh hào, mạnh mẽ, khơng chịu trói buộc, tuy có say đắm Thúy Kiều nhưng khơng vì thế mà đánh mất tráng chí bốn phương: Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu thoắt đã động lịng bốn phương. Trơng vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong. Sau khi lấy Thúy Kiều làm phu nhân, khác với Từ Hải trong nguyên tác chỉ chăm chú tới vinh hoa phú quý, Từ Hải bộc bạch: Cười rằng: “Cá nước duyên ưa, Nhớ lời nói những bao giờ hay khơng? Anh hùng mới biết anh hùng, Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?” Một điểm khác nữa, tác giả Kim Vân Kiều Truyện chưa chú trọng đến miêu tả ngoại hình nhân vật mà chỉ nói một cách giản lược “người kiều diễm, đang độ thanh xuân” (Thúy Kiều), “vẻ tựa Phan Anh, tài ngang Tử Kiến” (Kim Trọng)…Nguyễn Du ngược lại, với nhân vật nào cũng đều nhập thần với bút pháp tô điểm, ước lệ, khắc họa chân dung và phong thái cực kì độc đáo. Chẳng hạn như khi miêu tả Thúy Kiều: Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Hay như miêu tả Từ Hải: "Râu hùm hàm én mày ngài Vai năm tấc rộng thân mười thước cao. -Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.” Có khi miêu tả Tú Bà: Thoắt trơng lờn lợt màu da, Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao! Nhưng thành tựu nghệ thuật to lớn nhất của Nguyễn Du chính là đã thể hiện được thế giới tình cảm và tâm lý nhân vật. Thi nhân không hề tiếc bút mực để trau chuốc, khắc họa cho được tâm trạng Thúy KIều nương theo mỗi cảnh ngộ cụ thể. Chẳng hạn việc diễn tả tâm lí Thúy Kiều khi bị giam giữ chốn lầu xanh tưởng nhớ Kim TRọng: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời gốc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai? Cho đến mười mấy năm sau, một lần nữa nổi niềm thương nhớ Kim Trọng lại được thể hiện sâu sắc, khơng hề trùng lập: Tiếc thay! Chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý cịn vương tơ lịng. 2.2.4. Về tình tiết và nội dung. Cũng như các tiểu thuyết tài tử giai nhân khác, Kim Vân Kiều Truyện được kể thành hồi (20 hồi) với mơtíp thơng dụng của đơi tài tử giai nhân yêu nhau rồi đau khổ, chia ly, lưu lạc để đến hồi đồn tụ. Chỉ có điều nhân vật ra tay cứu nạn ở đây lại là người anh hùng Từ Hải và cảnh đồn tụ lại có khúc bi ai giữa Th Kiều và Kim Trọng. Trong những tiểu thuyết tài tử giai nhân chỉ có sự việc và sự việc, chúng tập trung ở từng hồi một thành những mưu mô. Những mưu mơ này lại móc xích với nhau một cách khá lỏng lẻo để mỗi mưu mơ có tính độc lập riêng với nhiều tình tiết tỉ mỉ, chi li và người đọc có thể đọc hồi sau, khơng cần biết hồi trước nói gì mà vẫn hiểu được. Kim Vân Kiều Truyện cũng được kết cấu như vậy nên có rất nhiều mưu mơ như Kim Trọng tìm cách chiếm được trái tim Kiều, bọn sai nha lo xoay sở tống tiền, Thuý Kiều bàn tính để cha mẹ bằng lịng cho được bán mình… Các mưu mơ ở đây được trình bày khéo léo nên lôi cuốn được người đọc. Các chi tiết nhỏ nhặt, Thanh Tâm Tài Nhân đều giải thích đầy đủ, nhưng Nguyễn Du bỏ hết, ông chọn những chi tiết nào thật cần thiết mới giữ lại và cũng trình bày theo cách kể của ông. Nguyễn Du vay mượn hệ thống nhân vật cũng như sự kiện nên không tránh khỏi việc tiếp thu những yếu tố này nhưng ông không đơn thuần chỉ theo nguyên truyện mà sáng tạo lại và phát huy những điểm mạnh để làm cho đúng theo ý đồ nghệ thuật của mình. Tuy nhiên từ Kim Vân Kiều Truyện bước sang Truyện Kiều là một thế giới khác hẳn, Nguyễn Du hầu như bỏ hết các sắp đặt tính tốn, để cho sự việc S0 SÁNH TRUYỆN KIỀU VỚI KIM VÂN KIỀU TRUYỆNNgày 06 tháng 08 năm 2015 Đến nay đã có nhiều công trình khảo sát, khảo luận, đối chiếu, so sánh quan hệ nhiều mặt giữa kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du với nguyên tác tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Đương nhiên đây là mối quan hệ đơn nhất, một chiều, đi từ Kim Vân Kiều truyện tới Truyện Kiều; hay nói cách khác là thi hào Nguyễn Du đã tái tạo, sáng tạo kiệt tác Truyện Kiều từ chính việc tiếp nhận cốt truyện tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện. Vấn đề chúng tôi đặt ra ở đây là Nguyễn Du đã tiếp nhận và xử lý cốt truyện Kim Vân Kiều truyện theo cung cách nào? Ông đã chủ ý lược giản cốt truyện, nhân vật, sự kiện, tình tiết, chương đoạn nào và theo chiều hướng ngược lại, chú trọng khai thác, mở rộng, gia tăng, nhấn mạnh những phương diện nội dung và nghệ thuật trữ tình nào? Điều quan trọng hơn, những phương diện đó đã tạo nên tính qui luật như thế nào trong quá trình sáng tạo, chuyển đổi từ loại hình văn xuôi tự sự tới tự sự - trữ tình, từ thể loại tiểu thuyết chương hồi tới truyện thơ Nôm, từ Kim Vân Kiều truyện tới Truyện Kiều?... Này con học lấy làm lòng, Lời thơ thanh nhã, tóm lược đại ý, không còn đâu nội dung, chi tiết cụ thể. Trong Từ điển Truyện Kiều, Đào Duy Anh chú: "Bảy chữ. Theo nguyên truyện thì tiếp khách ở lầu xanh có bảy chữ, tức là bảy cách: 1. Khóc với khách; 2. cắt tóc cho khách làm tin; 3. Thích tên khách vào cánh tay; 4. Đốt hương để thề nguyền; 5. Giả ước nguyện lấy nhau làm vợ chồng; 6. Rủ khách đi trốn; 7. Giả chết cho khách quyến luyến... Tám nghề: Theo nguyên truyện thì tám nghề là tám mánh gái thanh lâu dùng để giữ khách lại, nhưng đều là thô bỉ nên không dẫn vào. Nhưng giải thích như thế thì người đọc cũng chưa rõ đâu vào đâu. Từ đây có hai vấn đề được đặt ra. Thứ nhất, nếu coi đây là sự thể hiện phẩm chất mỹ cảm cao của Nguyễn Du thì thực chất lại chính là bước lùi trên phương diện tư duy nghệ thuật. Bởi lẽ tấm màng lọc mỹ học phong kiến luôn có xu hướng hạn chế khả năng tạo hiện thực, phản ánh đời sống trần tục và sắc màu sex. Với những cố gắng mang tính thời đại, điều này đã thấy xuất hiện trong Kim Vân Kiều truyện nhưng phải chăng lại hoá thành quan phương, chuẩn mực, ước lệ hơn trong Truyện Kiều? Tôi nhớ nhà thơ - đạo diễn điện ảnh Đỗ Minh Tuấn từng cận cảnh bàn đến vấn đề Thúy Kiều và khát vọng "giải sex" và nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương từng phát biểu đại ý, một nền văn học trưởng thành không thể thiếu bảng màu sex. Nguyễn Du là đại biểu một nền văn học lớn mà lại thiếu sex, lại trở nên "Nho hoá" hơn cả Thanh Tâm Tài Nhân? Thứ hai, bên cạnh hứng thú nghệ thuật thì chính sự chuyển đổi từ những trang văn xuôi vốn có điều kiện miêu tả chi tiết, cụ thể tới thể loại truyện thơ đã qui định sự giản lược của Nguyễn Du khi viết về "bảy chữ tám nghề". |Nếu xét trong cả hồi 10 với nội dung "Tú Bà dạy nghề" thì Nguyền Du giản lược chỉ còn 70 câu thơ (câu 1149-1218). Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà, Tại nửa sau hồi 18 và quá nửa phần đầu hồi 19 là những trang miêu tả hết sức cụ thể chi tiết sức mạnh đạo quân Từ Minh Sơn (Từ Hải) khi đánh tan bọn Tham tướng Bốc Tế và Du kích quân Cừu Nhiêu; quá trình chuyển biến trong tâm lý Thúy Kiều từ lúc sáng suốt cố vấn nghệ thuật đánh trận cho Từ Hải đến nỗi lòng nhớ cố hương và lúc bị chinh phục bởi lễ vật và lời nói ngọt; những mưu thuật của Đốc phủ Hồ Tôn Hiến cùng các lớp biến cố, các tình huống và đối sách chiêu hàng; lớp lớp các nhân vật đi dụ hàng như ông già Hoa Nhân, La trung quân, thị nữ nội gián Tuyên Nghĩa và Dụ Ân, viên mạc lân Lợi Sinh, Thông phán Quyền Nghi, Du kích quân Nữu Hiệp; đặc biệt là cuộc hoà nghị giả trá và cuộc đánh úp với sự tham chiến của những Tổng binh Âm Mưu, Du kích Trương Năng, Tham tướng Lý Thiên... đều được giản lược đến tối đa. Trăm năm trong cõi người ta, Nếu như ở tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, đối tượng được phản ánh là sự đan dệt của hiện thực chữ tình - đại kinh với một bên là chữ khổ - đại vĩ và tấn bi kịch phổ quát về những số phận con người "giai nhân mệnh bạc, hồng phấn thời thừa”, thì đến Truyện Kiều, triết thuyết "tài mệnh tương đố" - Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau - đã được chuyển hóa trong cảm hứng trữ tình, bằng tiếng nói trữ tình ngoại đề và nỗi "đau đón lòng” của chính tiếng lòng Nguyễn Du. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Đây là dòng thư nằm ở cặp câu lục bát cuối cùng trong một đoạn 38 câu thơ diễn tả lời Thúy Kiều nói với Thúy Vân về mối tình riêng, về đức hiếu sinh với mẹ cha, về việc cậy nhờ em gái thay mình đền đáp lại tấm tình chàng Kim. Giáo sư Nguyễn Lộc đã nhấn mạnh khả năng khai thác nội tâm nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du qua đoạn thơ này: "Lúc đầu Kiều nói với Thúy Vân, về sau thì hình như Kiều tự nói với mình, đến lúc đau đớn quá Kiều quay ra nói với bóng hình của Kim Trọng, và cuối cùng đau đớn lên đến cực độ, Thúy Kiều đã chết ngất đi trong cái bao trùm của bóng hình Kim Trọng: Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!- Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!Xét nguyên tác Kim Vân Kiều truyện, hồi 7, lời cảm thán này không nằm trong đoạn Thúy Kiều nói với Thúy Vân mà là lời Thúy Kiều tự nhủ, tự bày tỏ nỗi lòng trước khi thành thân cùng Mã Giám Sinh. Trong nguyên tác sắc thái cảm thán cũng rất rõ nét: "Kim sinh! Kim sinh! Nhĩ thê tử kim nhật dữ nhĩ ly liễu..." (Chàng Kim!Chàng Kim ! Bữa nay vợ chàng chia ly cùng chàng...).Khi chuyển sang Truyện Kiều , Nguyễn Du đã cảm lại , sắp xếp lại các tình tiết và chuyển hóa chúng trong hình thức nghệ thuật thi ca hết sức cô đọng sâu lắng. Sắc thái cảm thán cũng được chuyển hóa phù hợp với tư duy thơ ca, phù hợp với tâm lý tiếp nhận của người Việt. Các chữ Ôi và Hỡi được đặt ở đầu hai vế vừa là tiểu đối vừa là sự tiếp nối, trùng điệp, nhấn mạnh. Lời cảm thán Ôi Kim lang / được nhắc lại, nhân đôi số lượng câu chữ nhưng sắc thái cảm xúc thì tăng gấp bội.Thêm nữa, khi nhắc lại lời cảm thán, chữ Ôi được thay bằng Hỡi, rõ ràng âm hưởng hô ứng, đăng đối tự nó đã khơi gợi cảm xúc về một lời than, một lời viếng tế, tiếng khóc bi ai. Câu thơ tiếp nối Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! đồng thời là câu kết cho cả một đoạn thơ dài 38 câu bày tỏ nỗi lòng Thúy Kiều với hai từ Thôi thôi (biểu cảm sự thảng thốt, dồn nén tâm trạng bất lực, vô vọng) và ba chữ cuối cùng đều là thanh bằng (tạo âm hưởng hụt hơi, bế tắc, cùng cực)... Vậy là cảm thán đã phát huy tác dụng. Đó cũng chính là ưu thế của tiếng nói thi ca và chất trữ tình đã được Nguyễn Du chuyển hóa, nâng cấp về chất so với hình thức tự sự của nguyên tác. Có thể xác định chiều hướng chung, mỗi khi giọng điệu trữ tình và lời cảm thán gia tăng thì có nghĩa phần cốt truyện, sự kiện ở đó được lược giản, tóm tắt, chuyển hoá, thay thế; đồng thời mỗi khi có cơ xuất hiện những tấn bi kịch, những bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật, những tâm trạng khắc khoải buồn vui hay những đúc kết triết lý về số phận con người thì thường được Nguyễn Du chú trọng khai thác, gia tăng, lời cảm thán và giọng điệu trữ tình.
Đặt trong văn cảnh cụ thể, câu thơ trên thuộc phần mô tả, kể chuyện, tái hiện sự kiện, hoàn cảnh. Lời cảm thán ở đây trước hết biểu cảm sự bàng hoàng thảng thốt của nhân vật Thúc Sinh và đồng thời là khả năng tác giả bộc lộ cảm xúc trước một hiên trường nửa thực nửa giả. Tương ứng trong Kim Vân Kiều truyện, đoạn văn này tường tả lời kể lể , cầu khấn đầy xót thương của Thúc Sinh trước bàn thờ Thúy Kiều.Do đặc trưng thể loại Nguyễn Du không nhằm tường tả lại câu chuyện , không thuật lại lời nói và tình cảm Thúc Chính( người cha) và nỗi đau thương chân thật của Thúc Sinh với Thúy Kiều mà thay bằng lời cảm thán in đậm tiếng nói trữ tình tác giả. Khóc than kể hết niềm tây: Đây là đoạn kể chuyện Vương ông, Vương bà nói cho Kim Trọng biết việc Thúy Kiều bán mình chuộc cha. Ở Kim Vân Kiều truyện, hồi 20, đoạn này được thể hiện: "Vươn viên ngoại, vương phu nhân đạo: "Kim gia ca, ngã nữ nhi mệnh bạc..." (Vương viên ngoại, Vương bà đều nói: "Cậu Kim ơi! Con gái chúng tôi mệnh bạc..."). Với văn xuôi, cách gọi Kim gia ca (Cậu Kim ơi!) mới chỉ là lối nói thông thường, chủ yếu có ý nghĩa mời gọi, thông báo, báo hiệu, xác định đối tượng. Đến Truyện Kiều, bản thân cách gọi Chàng ôi! đã bao hàm sắc thái xót xa, cảm thông, thương cảm giữa ông bà họ Vương với đối tượng được nghe - chàng Kim Trọng. Điều đó cũng biểu hiện tài năng Nguyễn Du và ưu thế biểu cảm nghệ thuật của tiếng nói thi ca. ''Than ôi! sắc nước hương trời, Đây là câu mở đầu Sở Khanh đánh tiếng với Thúy Kiều, chuẩn bị cho một mưu đồ đã được suy tính từ trước. Trong Kim Vân Kiều truyện, hồi 9, câu này được thể hiện: "Na Sở Khanh nhân đối trước lầu điệt túc tự ngữ đạo: "Như thử quốc sắc thiên tư nữ tử, chẩm ma lạc tại xương gia..." (Sở Khanh dậm chân nói một mình: "Cô gái sắc nước hương trời như thế mà sao lạc lõng chốn bình khang..."). Như vậy là Nguyễn Du đã cải biến-một câu thuần túy độc thoại mang màu sắc tán dương của Sở Khanh thành câu cảm thán in đậm sắc thái tụng ca, nịnh khéo, vờ vịt tôn vinh nhan sắc Thúy Kiều. Giáo sư Trần Đình Sử nhận xét tinh tế: "Sở Khanh tuy giả vờ thương, nhưng chỉ có giả vờ như vậy hắn mới trà trộn vào môi trường tình thương của tác phẩm được'". Xem xét kỹ thì thấy trong khi những câu cảm thán khác thường gắn với đối tượng con người cụ thể, tính danh cụ thể, hoàn cảnh và sự việc cụ thể thì lời than ở đây mang tính phiếm chỉ, bâng quơ, chiếu lệ, chỉ quan tâm đến vỏ hình thức bề ngoài "sắc nước hương trời" mà ngay trong cách thương cảm cũng đã bộc lộ thái độ kể cả, khinh thị: Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây! Như vậy là Nguyễn Du đã cụ thể hóa được sắc thái một lời cảm thán, khiến lời cảm thán trở nên đặc biệt phù hợp với cá tính nhân vật Sở Khanh - chủ thể phát ngôn. Thương ôi ! Tài sắc bực này, Đây là câu mô tả kể sự đồng thời cũng là lời cảm thán của Nguyễn Du trước việc Thúy Kiều tự tận. Trong Kim Vân Kiều truyện, hồi 8, đoạn này diễn tả: "Thúy Kiều đại khiếu nhất thanh: "Khổ mệnh Thúy Kiều, bất yêu mệnh liễu", vọng hầu nhất thế đao, phốc thân đảo địa..." (Thúy Kiều kêu lớn một tiếng: "Khổ đời Thúy Kiều. Tôi không cần gì thân mạng nữa đâu!”, rồi cầm con dao đâm mạnh vào cổ, tức thì ngã vật xuống đất). Như vậy, khi chuyển sang Truyện Kiều, Nguyễn Du không nói rõ các chi tiết mà chủ yếu gia tăng sắc thái trữ tình, đưa thêm lời cảm thán để nhấn mạnh nỗi oan khổ của Thúy Kiều, nhấn mạnh sự đối lập giữa tài sắc với số phận trong cuộc đời thường. Sinh đà phách lạc hồn xiêu, Đây là đoạn diễn tả trạng thái tình cảm Thúc Sinh khi vừa gặp lại Thúy Kiều ngay ở nhà Hoạn Thư. Trong Kim Vân Kiều truyện, hồi 15, đoạn văn này giàu kịch tính, vừa có miêu tả sự kiện vừa có diễn giải tâm trạng, vừa có đối thoại vừa có độc thoại, vừa có hồi tưởng vừa có quá trình vận động tâm lý. Khi chuyển hóa thành thơ ca, Nguyễn Du đã lược bỏ các chi tiết và nhấn mạnh tiếng nói độc thoại, tự vấn, tự suy xét của Thúc Sinh. Ở đây có sự phân thân, chàng Thúc có lo cho Thúy Kiều nhưng trước hết là lo cho mình. Chàng luôn nghi hoặc, giật mình, tự phản tỉnh và đề ra câu hỏi: "... Chẳng phải nàng Kiều ở đây?'\ “Nhân làm sao đến thế này?'\ Thêm nữa, tiếng nói độc thoại được gia tăng bởi lời cảm thán Thương ôi! giúp cho sắc thái trữ tình càng được tô đậm, biểu lộ mối tình "đá vàng” Thúc Sinh dành cho Thúy Kiều cũng như tính bi hài của mối tình Thúc - Thúy trước ngọn "lửa nồng" Hoạn Thư mới vào khúc dạo đầu. Giác Duyên nghe nói rụng rời: Đây là lời sư thầy Giác Duyên cảm thán sau khi nghe đạo cô Tam Hợp tiết lộ thiên cơ về quãng đời mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều. Trong Kim Vân Kiều truyện, hồi 19, đoạn này được thể hiện: "Giác Duyên thính liễu đại kinh đạo: "Nhược như thử thuyết tắc vương phu nhân chung thân dĩ hỹ tai!'" (Giác Duyên cả kinh nói: "Nếu như vậy thì cuộc đời Thúy Kiểu còn gì nữa!"). Như vậy Nguyễn Du trong khi theo sát nguyên tác lại đã nhấn mạnh sắc thái biểu cảm ở câu nói của Giác Duyên. Lời cảm thán đặt giữa dòng thơ tạo dấu gạch nối như một tiếng nấc dứt đoạn giữa chừng: Một đời nàng nhẽ/... / Còn gì! Cần chú ý thêm rằng, theo Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều thì chữ "nhẽ" là trợ từ có nghĩa như "hỡi". Vậy thì ngữ nghĩa cũng như sắc thái trữ tình của câu thơ cần được đọc và hiểu như một lời cảm thán trùng điệp: Một đời nàng hỡi! Thương ôi! Còn gì! Điều này cũng có nghĩa là vai trò của lời cảm thán cũng như cách ngắt nhịp, âm luật, vần điệu đã phối hợp tạo nên tiếng nói trữ tình cảm thương sâu sắc ở tác phẩm truyện thơ và đưa lại hiệu quả nghệ thuật với một bước tiến rõ rệt so với nguyên tác tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện. Thương ôi! Không hợp mà tan, Đây là lời bình, lời tả và kể chuyện sau khi Kim Trọng rủ Vương Quan đến Hàng Châu tìm Thúy Kiều và được biết nàng đã tự tận trên sông Tiền Đường. Trong Kim Vân Kiều truyện, hồi 20, đoạn này không có lời cảm thán mà chỉ kể sự, tường là sự kiện: "Kim Trọng thính đắc thử ngôn, phóng thanh đại khốc, nhất gia vô bất ai hào. Tức vong thu thập tế lễ, đáo Tiền Đường giang thượng..." (Kim Trọng nghe được tin này buông tiếng khóc lớn, mọi người ai cũng gào khóc thảm thương, bèn sửa soạn lễ vật đến bờ sông Tiền Đường...). Đến Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đưa thêm lời tổng kết, khái quát để nhấn mạnh nỗi thương xót của mọi người với Thúy Kiều, đồng thời đưa thêm lời cảm thán trữ tình mở đầu cho câu thơ. Lời cảm thán Than ôi! vừa nằm trong văn mạch diễn tả hoàn cảnh nhưng cũng là tiếng nói trữ tình ngoại đề và là lời cảm thương của Nguyễn Du khiến cho giá trị biểu cảm của ý thơ được nâng cao, từ đó tạo nên sự đồng cảm, hòa đồng, cuốn hút người đọc.
Tiết vừa con én đưa thoi, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa... Đây là tâm trạng bâng khuâng vô vọng của Thúy Kiều gắn với nỗi cô đơn, một mình đối diện với ngọn đèn, với những chiều hôm, mặt nước, nội cỏ, tiếng gió, tiếng sóng: ... Buồn trông cửa bể chiều hôm, Rõ ràng ở những đoạn trong nguyên tác xa gần có nói đến thiên nhiên, có diễn giải tâm trạng nhân vật thì đều được Nguyễn Du chăm chút, gia công, khiến cho những đoạn thơ này tràn đầy âm hưởng trữ tình và cũng là những câu thơ hay nhất trong Truyện Kiều. Theo thống kê của Phạm Đan Quế, toàn truyện có tới hai mươi lần chính diễn tả tâm sự Thúy Kiều trước hoặc sau mỗi biến cố của cuộc đời và mười bốn lần nói lên những suy nghĩ riêng tư của các nhân vật khác. Điều đáng là tất cả sự diễn tả tâm sự Thúy Kiều cũng như những suy nghĩ riêng tư của nhân vật đều được triển khai phát huy, nhấn mạnh trên cơ sở cảm hứng trữ tình với tiếng nói thi ca. Trong chuyên luận Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du Truyện Kiều. Đỗ Minh Tuấn đã từ tiền đề lý luận "Trữ tình và phương hướng cứu nghệ thuật trữ tình trong truyện thơ" tiến tới khảo sát từng phương diện góp phần quyết định làm nên chất thơ Truyện Kiều như "Cảm hứng nhân đạo nghĩa, cảm hứng đau đời, thương người và cái tôi trữ tình của Nguyễn Du trong Kiều " "Trữ tình ngoại đề", "Nhân vật trữ tình", "Trữ tình thiên nhiên", ngữ trữ tình của Nguyễn Du" và tập trung nhấn mạnh vai trò tiếng nói trữ tình"cơ sở chung nghĩa là nội dung thống nhất xuyên suốt các hình tượng trữ tình một truyện thơ là cảm hứng nhân đạo về xã hội, về thân phận con người đi đôi cái tôi trữ tình của tác giả. Do đó, nghiên cứu cảm hứng sáng tác trong tác phẩm là nghiên cứu cái tôi trữ tình của tác giả thể hiện trong tác phẩm đó (...). Với chức năng gia tăng thêm nội dung cảm xúc cần thiết cho những nội dung tự sự nhấn mạnh và với bản chất nhân đạo chủ nghĩa, cái tôi trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều tồn tại trên ba phương thức: 1/ Nhập thân vào câu chuyện. 2/ Nhập thân vào nhân vật. 3/ Nhập thân vào cảnh vật (...). Trong khi thuật lại truyện, Tâm Tài Nhân thường là không tỏ thái độ mà trái lại có khi còn miêu tả quá lạnh lùng cái thảm khốc bề ngoài của nó... Nguyễn Du không làm như Thanh Tài Nhân mà nhập vào cuộc, chứng kiến và bày tỏ ngay thái độ của mình khi việc vừa xảy ra, máu và nước mắt còn nóng hổi. Nguyễn Du là một chứng nhân sinh động, không phải là người phê bình sự việc hay nhấm nháp nỗi đau. Ở những nào sự việc xảy ra chỉ được Thanh Tâm Tài Nhân tả lại và tả lại với một cái nhìn lạnh lùng những chi tiết rùng rợn thì Nguyễn Du kêu lên những tiêng kêu phản như kêu cứu, như ngăn chặn: Rường cao rút ngược dây oan - Dẫu là đá cũng nát lọ người-Mặc ..dù chưa nhấn mạnh".Mặc dù chưa nhấn mạnh đặc trưng và tính hợp lý của mỗi kiểu tuy gắn với mỗi kiểu loại sáng tác nhưng Đỗ Minh Tuấn đã xác định đúng vai trò tiếng nói trữ tình trong thể loại truyện thơ và khả năng chuyển đổi, gia tăng chất trữ tình trong Truyện Kiều. NGUYỄN HỮU SƠN - PGS.TS - Viện Văn học. 2. Kết cấu cốt truyện và nội dungNhưng cho dù tác giả là ai, thì tác giả Kim Vân Kiều Lục cũng không từng đọc cuốn Kim Vân Kiều Truyện A 953. Bởi vì tên các nhân vật trong sách chỉ đi theo sát tên gọi như truyện Kiều không thừa không thiếu.Vậy ta nên gọi nó là loại sách gì, nếu không gọi là cuốn bình giảng truyện Kiều? Trong khi đó cuốn A 953 lại chi tiết hóa hơn Truyện Kiều nhưng cũng chỉ là bình giảng truyện Kiều, chỉ khác là trình bày kiểu tiểu thuyết chương hồi. Xét về tổng thể cuốn Kim Vân Kiều Lục chỉ 48 trang, trong khi Kim Vân Kiều Truyện A 953 gấp 10 lần độ dài: 478 trang. Tuy nhiên xét về mặt chất lượng thì Kim Vân Kiều Lục lại hơn hẳn A 953. Trước hết về bố cục không thừa không thiếu, sát với ý thơ Kiều. Tác giả cố tình biễu diễn tài viết tiểu thuyết của mình trong phần đầu từ mở đầu cho đến giấc mộng Đạm Tiên. Còn lại thì chỉ lướt qua xem như chẳng cần diễn giải dài dòng. Chủ yếu là diễn lời thơ ra văn xuôi cho dễ hiểu mà không cần chú giải điển tích, điển từ. Đồng thời bổ sung những chỗ truyện Kiều không miêu tả chi tiết. Ví dụ tới câu thơ Kiều 99, 100, khi Kiều viếng nhang mã Đạm Tiên xong: Rút trâm sẳn giắt mái đầuVạch da cây vịnh bốn câu ba vần Rõ ràng ý Nguyễn Du nói Kiều đã làm bài thơ tứ tuyệt. Nhưng không rõ bài thơ thế nào, nhà nho tài tử liền ráp vào một bài tứ tuyệt: Tuyền hạ giai nhân tri dã vôHồng nhan thuỳ thị cánh vô phuLạc nhạn trầm ngư mê khách tứThê lương phong nguyệt xúc nhân sầu. Xem thêm: Tóm Tắt Sách: Lời Nói Dối Vĩ Đại Của Não Pdf, Lời Nói Dối Vĩ Đại Của Não Tương tự với 2 câu Kiều: Kiều vâng lĩnh ý đề bàiTay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm Thì nhà nho tài tử làm ngay 10 bài thơ minh họa thơ của nàng Kiều. Toàn bộ tác phẩm mang nét duyên dáng súc tích, trau chuốt của thể loại văn ngôn. Tác giả có chủ định diễn thơ ra văn xuôi cô đọng hơn lời thơ Kiều, nhưng đủ làm hiểu ý lời thơ. Nhìn chung tác giả giữ đúng tiêu chuẩn tín, đạt, nhã khi diễn văn xuôi, không phân tích, phê bình, không phóng tác sa đà. Cho nên trở thành một cuốn truyện vừa nhất quán và lôi cuốn. Xét về mặt bình giảng là một cuốn sách đạt yêu cầu cho giới bình dân liên kết được cốt truyện của Đoạn Trường tân Thanh từ đầu đến cuối, đủ nhận ra tính cách các nhân vật chính phụ, cũng như tôn trọng tư duy về chủ đề tùy người đọc.Ngược lại khảo sát nội dung Kim Vân Kiều Truyện viết dưới dạng tiểu thuyết chương hồi. Đầu mỗi hồi có hai câu đối tóm tắt cốt truyện trong hồi ấy. Sau đó lại dẫn ý, kể truyện và cuối chương lại xen vào bình phẩm. Kết cấu mỗi hồi giống như một bài bình giảng thường thấy mỗi đoạn thơ Kiều. Các hồi viết không đều tay, có hồi theo thể văn ngôn, có hồi lại bạch thoại. Chứng tỏ rằng đây là sự lắp ráp của nhiều người.Ngày nay đọc bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh có trau chuốt theo ngôn ngữ hiện đại. Bản dịch đầu tiên của Nguyễn Duy Ngung và của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm cho thấy theo sát văn bản hơn. Rất nhiều hồi chôm đến hàng chục câu thơ Kiều thêm bớt vài chữ cho ra văn xuôi. Những bài thơ minh họa phần lớn không hay. Nhưng xét tổng thể cũng giúp cho người đọc hiểu được thơ Kiều về cốt truyện nhưng về tư tưởng lệch nghĩa rất nhiều. Các nhà Kiều học chưa có công trình so sánh kỹ 2 tác phẩm này. Ở đây chúng tôi chỉ nhắc qua vài điểm. Nếu ai chịu khó so sánh còn thấy cuốn A954 là cuốn tán rộng ra nội dung của Kim Vân kiều lục. Nhưng lại làm cho nó có vẻ khác, không chịu ảnh hưởng của Kim Vân Kiều Lục. Tuy nhiên chính sự làm cho khác nhau đó ta thấy khi bình giảng Kiều mỗi tác giả có thể tưởng tượng thêm. Ví dụ về gia thế Kiều, Kim Vân Kiều Lục hư cấu quê quán Kiều ở đâu đó gọi là Lôi Châu- Hồ Nam. Trong A953 quê Kiều ở Bắc Kinh. Thực ra nếu xét Kiều ở Bắc Kinh thì có nhiều điểm không khớp. Ví dụ : Kiều nói dối Giác Duyên: Gạn gùng ngành ngọn hỏi tườngLạ lùng nàng lại tìm đường nói quanhTiểu thiền quê ở Bắc KinhQui sư, quy Phật tu hành bấy lâu. Đã là nói dối thì không phải ở Bắc Kinh rồi. Kiều ở không xa Lâm Tri, chỉ gần Lâm Thanh hơn thôi. , nên vừa bắn tin bán mình đã có người từ Lâm Tri đến mua. Nếu ở Kinh Đô thì với tài sắc của Kiều, Mã giám Sinh không có cửa để mua đâu. Xưa nay ma cô tỉnh lẻ lại lên kinh đô dụ gái đẹp? Hoặc như bị tên bán tơ khai ẩu thì tại kinh đô ắt không có chuyện điều tra kiểu bá đạo thế được. Đây cũng là điểm chứng tỏ tài tử A953 đã không hiểu đúng thơ Kiều bằng tác giả Kim vân Kiều Lục nên mới cho rằng quê Kiều ở Bắc Kinh. Thực tế theo sử cũng nói Kiều xuất thân là Kỹ nữ Lâm Tri. Sự vẻ vời sa đà sẽ dẫn tới mâu thuẫn. Điển hình nhất là sự vẻ vời chuyện Kiều báo oán. . 3. Lời bànSự ra đời của Thanh Tâm Tài Tử rõ ràng có lợi ích cho vương triều từ Minh Mạng đến Tự Đức. Đồng thời nó cũng chứng tỏ truyện Kiều có sức hấp dẫn dân gian mãnh liệt và bền bỉ. Bên cạnh hàng loạt các tác phẩm ưu tú hứng khởi từ Truyện Kiều mà Kim Vân Kiều Lục là một điển hình, cũng có đôi tác phẩm lạm dụng và bị lợi dụng làm hoen ố hình ảnh Truyện Kiều như Kim Vân Kiều Truyện. Việc biên soạn đối chiếu Truyện Kiều song song với Kim Vân Kiều Truyện, như là một giải nghĩa cho truyện Kiều chẳng những là tư duy “lộn ngược đầu”, vô bổ mà còn gây tác hại lâu dài: Lộn ngược là lấy sau giải thích trước. Vô bổ vì bản thân Kim Vân Kiều Truyện là một tác phẩm dỡ, không đáng đem ra đối chiếu. Tác hại lâu dài vì thay tâm hồn Việt bằng tâm lý xa lạ của ngoại bang. Thay vì vậy, việc phân chia bố cục truyện Kiều ra nhiều phần là cần thiết, giúp cho người đọc dễ hình dung cốt truyện nhất là khi người đọc không có thời gian đọc liên tục, cũng là giúp tra cứu trích dẫn nhanh chóng. Việc chú thích chỉ cần đơn giản vài từ cổ bằng ngữ nghĩa hiện đại, ví như cuốn chú thích của Kiều Oánh Mậu (Nhà xuất bản Thuận Hóa tái bản) Việc dẫn cổ thư Tàu như Chiêm Vân Thị, Bùi Khánh Diễn để chú thích truyện Kiều, xét cho cùng chỉ là muốn tỏ vẻ thông tuệ hình thức, nhưng thực chất sẽ kìm hãm tư duy dân tộc và nhân văn. Nếu cần thiết thì nên liên hệ đến ca dao, tục ngữ các nhà thơ nhà văn Việt Nam đã dùng. Nếu muốn một công đôi chuyện thì nên dùng Kim Vân Kiều Lục đối chiếu, vừa giúp những người mới đọc hiểu được cốt truyện, vừa góp thêm câu truyện văn chương. (Ví như cuốn do Phạm Tú Châu dịch) Chúng ta cần mạnh dạn tẩy chay các bài viết luôn mở đầu hoặc lén ghép các câu đại loại: “Nguyễn Du dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Tàu để viết nên tuyệt tác truyện Kiều…”. Nếu không nhắc tới Thanh Tâm Tài Nhân bên Tàu thì Truyện Kiều không còn là tuyệt tác hay sao? Các kiểu viết như vậy hoặc là lừa mị hoặc là rỗng tuếch. Trước hết đó không phải là sự thật: Thanh Tâm Tài Nhân không có thật. Tiếp đến ta tự cúi đầu khom lưng, hạ thấp giá trị của tiền nhân. Chúng ta chưa bao giờ từ chối Nguyễn Du đã mượn sử liệu, tiểu phẩm, và tên nhân vật, địa danh Trung Hoa để viết nên Truyện Kiều. Đó chỉ là cái cớ trong một hoàn cảnh lịch sử thời quân chủ nước ta. Chú ý rằng các truyện như Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, Thủy Hử… dưới chế độ phong kiến Trung Hoa cũng chỉ được cho phép viết sau đó chí ít cũng 400 năm hoặc đến cả hơn ngàn năm. Dưới chế độ độc tài phong kiến thì không có tác phẩm mang tính hiện thực phê phán nào ra đời cả. Nếu muốn, phải ngụy trang thật khéo, lọt lưới như Truyện Kiều là một trường hợp kỳ diệu, nhưng cũng chỉ khi tác giả qua đời mới công bố. Phải chăng Tiên Điền không thiết sống để đứa con tinh thần quý giá của dân tộc ra đời!? “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn.” Nhận định của Phạm Quỳnh vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại hiện nay. |