Mỗi năm, thế giới có hơn 400.000 người chết do bệnh sốt rét. Bệnh xảy ra chủ yếu ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Vậy bệnh sốt rét là gì, nguyên nhân gây bệnh sốt rét đến từ đâu? Show
Sốt rét là gì?Sốt rét là bệnh do ký sinh trùng Plasmodium gây ra với các triệu chứng đau đầu, sốt, lạnh run và dễ tử vong. Người mắc bệnh sau khi bị muỗi Anophen đốt từ 10 -15 ngày. Bệnh có thể lây truyền qua đường truyền máu, mẹ sang con, dùng chung bơm kim tiêm dính máu có ký sinh trùng sốt rét hoặc bị muỗi đốt. (1) Triệu chứng sốt rétNgười mắc bệnh sốt rét có thể chỉ xuất hiệu các triệu chứng sốt rét thông thường nhưng cũng có khi lại là dấu hiệu sốt rét ác tính. Các dấu hiệu sốt rét còn phụ thuộc vào loài ký sinh trùng truyền bệnh. Dấu hiệu sốt rét thông thườngNgười bệnh sốt rét có những dấu hiệu thường gặp như sốt, ớn lạnh, đau đầu, đau bụng, mệt mỏi, thở nhanh, nhịp tim nhanh, ho, mệt mỏi, đau cơ khớp, tiêu chảy. Những triệu chứng ban đầu này thường không đe dọa tính mạng người bệnh. Tùy vào cơ địa mỗi người mà bệnh sẽ có những biểu hiện khác nhau. Nếu như sốt điển hình thì người bệnh sẽ trải qua 3 giai đoạn: Rét run – sốt – vã mồ hôi. Còn sốt không điển hình thì người bệnh có những biểu hiện chung như: Sốt không thành cơn hoặc sốt liên tục, ớn lạnh, rét, nổi da gà. Một số trường hợp, người bệnh bị phình to lách, gan to, người xanh xao, suy nhược, thiếu máu. Dấu hiệu sốt rét ác tínhSốt rét ác tính là dạng sốt rét nguy kịch, chủ yếu do ký sinh trùng P. falciparum gây ra. Bệnh gây tắc nghẽn các mao mạch nhỏ, dẫn đến rối loạn tuần hoàn, giảm tưới máu đến các cơ quan và gây tổn thương não. Người bệnh có biến chứng nguy hiểm đe dọa tính mạng, với dấu hiệu sốt rét như sốt cao liên tục, rối loạn ý thức (mơ sảng, nói lẩm bẩm, ngủ li bì), rối loạn tiêu hóa (ói mửa, buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng), đau đầu dữ dội, nhìn lờ đờ, da tái xanh,… Ngoài ra, người bệnh thiếu máu nặng, suy thận, phù phổi cấp, hạ đường huyết, sốc, xuất huyết, co giật toàn thân, vàng da, sốt cao,… Sốt rét ác tính nếu không được điều trị kịp thời thì tỷ lệ tử vong rất cao. Nguyên nhân gây bệnh sốt rétCó 5 loài ký sinh trùng gây bệnh sốt rét thuộc họ Plasmodium) ở người gồm: P.vivax, P.falciparum (đây là 2 loài nguy hiểm), P.malariae, P.ovale (2 loài ít nguy hiểm hơn) và P. knowlesi (chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á, chủ yếu trên khỉ nhưng cũng có thể gây bệnh sốt rét nặng cho người). Riêng Việt Nam có 3 loại: P. falciparum, P.vivax và P.malariae. Những ký sinh trùng này truyền bệnh thông qua vật chủ trung gian là muỗi Anophen (Anopheles). (2) Thế giới có khoảng 422 loài muỗi Anophen nhưng thực tế chỉ tầm 70 loài muỗi mới có thể truyền ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, trong đó 40 loài muỗi là vật chủ trung gian truyền bệnh. Ở Việt Nam có 15 loài muỗi Anophen gây bệnh, trong đó có 3 loài truyền bệnh thường xuyên gồm: An.dirus, An.minimus, An.epiroticus và 12 loài truyền bệnh phụ: An.aconitus, An.jeyporensis, An.maculatus, An.sinensis, An.campestri, An.subpictus, An.vagus, An.indefinitus. Muỗi An.dirus phát triển mạnh vào mùa mưa, phân bố chủ yếu ở vùng rừng núi từ 20 vĩ độ Bắc trở vào Nam. Muỗi An.epiroticus sinh sống ở ven biển nước lợ Nam Bộ. Muỗi An.minimus phân bố ở vùng rừng núi đồi dưới 1.000 mét, phát triển mạnh vào đầu và cuối mùa mưa. Khi muỗi chích và hút máu người bệnh sốt rét thì hút theo giao bào đực và cái của ký sinh trùng sốt rét. Thời gian từ cơn sốt đầu tiên đến khi xuất hiện giao bào trong máu từ 2-3 ngày với P.vivax, P.malariae, P.ovale, từ 7-10 ngày với P.falciparum. Trong cơ thể muỗi, giao bào đực và cái kết hợp tạo thành noãn rồi chui qua thành dạ dày và tạo thành kén, phát triển tạo thành hàng nghìn ký sinh trùng non. Ký sinh trùng non di chuyển lên hướng tuyến nước bọt của muỗi và tập trung tại đây để có cơ hội xâm nhập vào người khác. Ký sinh trùng khi vào máu sẽ tiến đến gan, phát triển trong tế bào gan qua các giai đoạn từ thể tư dưỡng đến thể phân liệt và làm vỡ tế bào gan giải phóng ký sinh trùng non vào máu. Tại mạch máu, ký sinh trùng non thâm nhập hồng cầu non, phá vỡ hồng cầu để giải phóng ký sinh trùng non gây sốt rét. Ký sinh trùng non lại có 2 thể: thể vô tính quay trở lại xâm nhập hồng cầu để phát triển, thể hữu tính gồm giao bào đực và giao bào cái. Giao bào không xâm nhập vào hồng cầu mà chờ muỗi hút máu người bệnh để quay lại vòng đời mới. Ở một số tình huống, ký sinh trùng P.vivax và P.ovale có thể “tạm trú dài hạn” ở gan, đây chính là nguyên nhân dấu hiệu sốt tái phát sau nhiều tháng, thậm chí kéo dài đến tận 2 – 3 năm. Người bệnh sốt rét vẫn là nguồn lây bệnh khi giao bào còn trong máu. Một số nghiên cứu ghi nhận, với những người bệnh sốt rét không được điều trị hoặc điều trị không triệt để giao bào có trong máu thì khi muỗi đốt vẫn có thể là nguồn lây cho người khác, cụ thể là trên 3 năm đối với sự tồn tại của P.malariae, 2 năm với P.vivax và 1 năm đối với P.falciparum. Muỗi là tác nhân chính lây truyền bệnh sốt rét 4 phương thức lây truyền bệnh sốt rétKý sinh trùng gây bệnh sốt rét không thể tồn tại ở môi trường bên ngoài, chỉ có trong máu người nhiễm bệnh và ở muỗi Anophen truyền bệnh. Nguồn máu từ người nhiễm bệnh có thể lây truyền bệnh sốt rét kéo dài ít nhất 1 tháng. Bệnh sốt rét lây truyền qua đường máu với 4 phương thức lây truyền:
Phân loại bệnh sốt rétSốt rét thông thườngSốt rét thông thường là những triệu chứng ban đầu của bệnh sốt rét, chưa có biến chứng nên thường không nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. Tùy vào loại ký sinh trùng gây bệnh nên chu kỳ của cơn sốt ở sốt rét thông thường sẽ khác nhau. Ví dụ, sốt rét do P.falciparum gây ra thì người bệnh sẽ sốt hàng ngày, cơn sốt thường nặng và dễ dẫn đến sốt rét ác tính và tử vong nếu không điều trị kịp thời. Nếu sốt rét do ký sinh trùng P.vivax truyền nhiễm thì thường sốt cách ngày, cách một ngày sốt một cơn. Sốt do ký sinh trùng P.malariae và P.ovale thì cơn sốt có thể cách ngày nhưng có khi 3 ngày mới sốt 1 lần. Nhìn chung, sốt rét thông thường gồm có 3 dạng là sốt sơ nhiễm, sốt điển hình và sốt thể cụt. (3)
Ngoài ra, có một số dạng sốt rét khác như người lành mang trùng (thể ký sinh trùng lạnh), kết quả: xét nghiệm máu có ký sinh trùng sốt rét nhưng người bệnh không bị sốt, vẫn sinh hoạt và lao động bình thường. Sốt rét ác tínhSốt rét ác tính là dạng sốt rét nặng có biến chứng. Người bệnh có các dấu hiệu nổi bật về rối loạn thần kinh như rối loạn hành vi, rối loạn ý thức, hôn mê nhanh, đôi khi đột ngột, đôi khi co giật, liệt, mất vỏ, mất não. Sốt rét ác tính có nhiều thể khác nhau.
Biến chứng nguy hiểm của bệnh sốt rétTrong số các loài ký sinh trùng gây bệnh sốt rét thì đáng sợ nhất là plasmodium, dễ khiến người bệnh rơi vào sốt rét ác tính. Một số loại ký sinh trùng sốt rét khác gây ra các dạng bệnh nhẹ hơn, nhưng vẫn có thể tồn tại trong nhiều năm và gây tái phát. Tổ chức Y tế thế giới ước tính có khoảng 94% tổng số ca tử vong do sốt rét xảy ra ở châu Phi, chủ yếu ở trẻ em dưới 5 tuổi. Có nhiều biến chứng nguy hiểm của bệnh sốt rét gây ra nghiêm trọng như: (4)
Bệnh sốt rét nặng có thể tiến triển rất nhanh chóng và sớm tử vong trong vài giờ đến vài ngày. Với hầu hết các ca bệnh nặng, tỷ lệ tử vong có thể lên đến 20% do đó cần chăm sóc và điều trị đặc biệt. Dù bệnh nguy hiểm nhưng nếu điều trị đúng cách, người bệnh sẽ hồi phục tốt. Ai có nguy cơ bị bệnh sốt rét?Bệnh sốt rét xảy ra chủ yếu ở vùng rừng núi, nơi người dân canh tác làm nương rẫy, trồng cao su, đi du lịch đến vùng lưu hành bệnh sốt rét,… Người bệnh được xác định nhiễm ký sinh trùng gây bệnh sốt rét khi có kết quả xét nghiệm máu dương tính. Những đối tượng có nguy cơ mắc bệnh sốt rét gồm: Trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh, người cao tuổi, thai phụ. Đáng lưu ý, một số trường hợp sốt rét bẩm sinh dù hiếm gặp nhưng bệnh xuất hiện sớm ngay sau khi trẻ chào đời. Lúc này, trẻ quấy khóc, sốt, vàng da, gan lách to. Với trẻ trên 6 tháng tuổi nếu bị sốt rét sẽ sốt cao liên tục, nôn, tiêu chảy, bụng chướng, gan lách to, có dấu hiệu viêm màng não, co giật, tỷ lệ tử vong cao. Trẻ nhỏ có nguy cơ cao bị sốt rét Chẩn đoán bệnh sốt rétỞ một số trường hợp, người bệnh sốt rét có biểu hiện giống với một số bệnh như thương hàn, sốt mò, sốt xuất huyết Dengue độ I, cảm cúm,… Thậm chí, với những ca sốt rét tái phát còn có dấu hiệu giống như bệnh nhiễm trùng máu, viêm đường tiết niệu, viêm đường mật, áp xe gan. Do đó, để chẩn đoán chính xác nhất là xét nghiệm máu để phân biệt sốt rét với các bệnh khác. Các phương pháp xét nghiệm:
Điều bị bệnh sốt rétViệc phát hiện sớm bệnh sốt rét không chỉ giúp người bệnh được điều trị kịp thời, hạn chế số ca tử vong mà còn giúp cộng đồng kiểm soát sớm nguồn bệnh. Riêng việc điều trị, người bệnh được diệt giao bào nhằm cắt cơn sốt rét kết hợp với chống lây lan; đồng thời diệt ký sinh trùng P.vivax, P.ovale dạng thể ngủ trong gan. Với người bệnh sốt rét thể thông thườngĐiều trị cắt cơn sốt rét:Nhiễm ký sinh trùng P.vivax: Người bệnh được dùng thuốc chloroquin tổng liều 25 mg/kg cân nặng cơ thể. Người bệnh được uống trong 3 ngày điều trị. Hai ngày đầu, người bệnh uống 10 mg/kg cân nặng/ngày, ngày thứ 3 uống 5 mg/kg cân nặng. Hoặc điều trị bằng thuốc artesunat tổng liều 16 mg/kg cân nặng và chia làm 7 ngày. Ngày đầu tiên, người bệnh uống 4 mg/kg cân nặng, từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7, người bệnh uống mỗi ngày 2 mg/kg cân nặng. Thuốc artesunat không dùng cho thai phụ trong 3 tháng đầu, trừ khi bị sốt rét ác tính. Hoặc người bệnh có thể điều trị bằng thuốc quinin sulfat liều 30 mg/kg/24 giờ chia 3 lần uống trong ngày, thời gian điều trị kéo dài 7 ngày. Nhiễm ký sinh trùng P.falciparum: Người bệnh được sử dụng thuốc có dẫn xuất chất artemisinin, dạng thuốc viên 40 mg dihydroartemisinin + 320 mg piperaquine phosphate. Với trẻ dưới 3 tuổi, ngày đầu 1 viên, hai ngày kế tiếp thì mỗi ngày nửa viên. Từ 3 – dưới 8 tuổi, ngày đầu 2 viên, hai ngày sau mỗi ngày 1 viên. Trẻ 8 đến dưới 15 tuổi, uống ngày đầu 3 viên, hai ngày sau mỗi ngày 1,5 viên. Từ 15 tuổi trở lên, uống ngày đầu 4 viên, hai ngày sau uống 2 viên/ngày. Không dùng cho thai phụ trong 3 tháng đầu. Điều trị chống tái phát và chống lây lanNgười bệnh được dùng thuốc viên primaquine với hàm lượng 13,2mg chứa 7,5mg bazơ, liều 0,5mg bazơ/kg cân nặng/24 giờ. Với ký sinh trùng P.falciparum thì chỉ cần điều trị 1 ngày, với P.vivax phải điều trị 10 ngày liền. Không dùng thuốc này cho trẻ dưới 3 tuổi, thai phụ, người có bệnh gan và thiếu men G6PD. Ở các vùng có ký sinh trùng P.falciparum chiếm đa số thì người bệnh được khuyến cáo được điều trị cắt cơn sốt bằng thuốc phối hợp có dẫn xuất artemisinin: Arterakine, CV artecan, coartem,… Điều trị bệnh nhân sốt rét có biến chứngKhi đến bệnh viện, người bệnh được dùng thuốc artesunat đường tĩnh mạch, với liều lượng trong giờ đầu 2,4 mg/kg cân nặng, 24 giờ sau đó sẽ được tiêm nhắc lại 1,2 mg/kg cân nặng. Cuối cùng, mỗi ngày người bệnh tiếp tục được tiêm 1 liều 1,2 mg/kg cân nặng cho đến khi có thể uống được thì chuyển sang thuốc dạng uống thêm 7 ngày. Cách phòng bệnh sốt rétĐể phòng bệnh sốt rét, người dân cần ngủ mùng dù ở trong nhà, nương rẫy, hay đi du lịch trong rừng. Những khu vực có muỗi Anophen lưu hành cần diệt muỗi bằng phun thuốc định kỳ, tẩm màn hóa chất để diệt muỗi, xoa kem và hương xua muỗi, phát quang bụi rậm, khơi thông cống rãnh quanh nhà, khơi thông dòng chảy, vớt rong rêu làm thoáng mặt hồ nước, làm nhà xa rừng và xa nguồn nước, mặc quần áo dài buổi tối,… Ngoài ra, những khu vực bệnh sốt rét lưu hành thường xuyên thì người dân còn được uống thuốc dự phòng ngắn ngày, xác định sớm ca bệnh để khoanh vùng dịch. HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH Bệnh sốt rét tuy có thể để lại nhiều biến chứng nguy hiểm, song vẫn có cách phòng ngừa đẩy lùi dịch bệnh. Do đó, mỗi người dân cần trang bị cho mình kiến thức để tự bảo vệ bản thân trước căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm này. Bị sốt lạnh uống gì?Người bệnh cần được ăn uống bình thường bằng các loại đồ ăn dễ tiêu, chế biến dạng lỏng như súp, cháo,... và uống thêm các loại nước trái cây để bổ sung vitamin C giúp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
Làm gì khi bị sốt nóng lạnh?Để mau chóng khỏi bệnh, người bị sốt nóng lạnh nên làm những việc sau: Bổ sung nước liên tục cho cơ thể. Ăn các loại thức ăn dạng lỏng như: Súp, cháo,... Ăn nhiều rau xanh và các loại trái cây để bổ sung vitamin.
Sốt nóng sốt lạnh là bệnh gì?Sốt nóng lạnh chỉ đơn thuần là một cơn sốt giao mùa khi thời tiết thay đổi đột ngột, hay do các virus vi khuẩn gây ra, hay có thể là dấu hiệu cho thấy người bệnh đang mắc phải những căn bệnh khá nguy hiểm như: Thương hàn, lao phổi, sốt phát ban,... hay thậm chí là do ung thư gan, não, phổi, tủy sống,...
Bị sốt thì nên uống thuốc gì?Paracetamol là thuốc hạ sốt khá phổ biến, được dùng cho cả người lớn và trẻ em. Thường được sử dụng để điều trị các triệu chứng như: Sốt, đau đầu, đau cơ, đau khớp, đau lưng, đau răng, cảm sốt, viêm khớp nhẹ...
|