Sự khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội Show
Một nền kinh tế tư bản được đặc trưng với thị trường tự do và ít sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, trong đó ưu tiên hàng đầu được dành cho vốn. Trái ngược với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đề cập đến tổ chức xã hội, được đặc trưng bởi sự bãi bỏ các quan hệ giai cấp và do đó coi trọng con người hơn. Vì vậy, ở đây chúng tôi đã trình bày cho bạn tất cả sự khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, có thể giúp bạn quyết định hệ thống nào là tốt nhất. Biểu đồ so sánh
Định nghĩa của chủ nghĩa tư bảnChủ nghĩa tư bản được định nghĩa là một hệ thống kinh tế trong đó các phương tiện sản xuất, thương mại và công nghiệp được sở hữu và kiểm soát bởi các cá nhân hoặc tập đoàn tư nhân để kiếm lợi nhuận. Còn được gọi là nền kinh tế thị trường tự do hoặc nền kinh tế laissez-faire. Theo hệ thống chính trị này, có sự can thiệp tối thiểu của chính phủ, trong các vấn đề tài chính. Các yếu tố chính của một nền kinh tế tư bản là tài sản tư nhân, tích lũy vốn, động cơ lợi nhuận và thị trường cạnh tranh cao. Các đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa tư bản như dưới đây:
Định nghĩa chủ nghĩa xã hộiKinh tế xã hội chủ nghĩa hay Chủ nghĩa xã hội được định nghĩa là một nền kinh tế trong đó các nguồn lực được sở hữu, quản lý và điều tiết bởi Nhà nước. Ý tưởng trung tâm của loại hình kinh tế này là tất cả mọi người đều có quyền tương tự và theo cách này, mỗi người đều có thể gặt hái thành quả của kế hoạch sản xuất. Khi các nguồn lực được phân bổ, theo hướng của cơ quan tập trung, đó là lý do tại sao nó cũng được gọi là Nền kinh tế chỉ huy hoặc Kinh tế kế hoạch tập trung. Theo hệ thống này, vai trò của các lực lượng thị trường là không đáng kể trong việc quyết định phân bổ các yếu tố sản xuất và giá cả của sản phẩm. Phúc lợi công cộng là mục tiêu cơ bản của sản xuất và phân phối sản phẩm và dịch vụ. Các đặc điểm nổi bật của Chủ nghĩa xã hội như sau:
Chủ nghĩa tư bản là gì?Trước khi tìm hiểu đến sự khác nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội thì hãy cùng Đâytìm hiểu về chủ nghĩa tư bản là gì bạn nhé! Chủ nghĩa tư bản là hệ thống chính trị cổ đại. Nó có nguồn gốc ở Châu Âu từ năm 1400 sau Công nguyên. Chủ nghĩa tư bản còn là hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì lợi nhuận. Còn được gọi là nền kinh tế thị trường tự do hoặc nền kinh tế laissez-faire. Các đặc điểm đặc ́trưng của chủ nghĩa tư bản gồm có tài sản tư nhân, tích lũy tư bản, lao động tiền lương, trao đổi tự nguyện, một hệ thống giá cả và thị trường cạnh tranh. Chủ nghĩa tư bản đã phát triển vào thế kỷ 15 và thống trị tối cao trên thế giới cho đến thế kỷ 20. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là khuyến khích các doanh nghiệp cá nhân với động cơ kiếm nhiều tiền hơn và vươn lên bậc thang xã hội, làm việc để thúc đẩy mọi người. Quyền sở hữu tư nhân đối với tài sản có nghĩa là của cải vẫn tập trung trong tay các nhà tư bản. Họ chiếm phần lớn lợi nhuận với một phần rất nhỏ thuộc về những người làm việc trong các nhà máy và hầm mỏ, để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Ngoài ra, trong hệ thống này, sự can thiệp của chính phủ về tài chính là ở mức tối thiểu. Chủ nghĩa tư sản có những đặc điểm nổi bật sau đây:
Phân biệt dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư bản
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản không chỉ ở chỗ xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ phân hóa giai cấp,mà về chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vượt qua dân chủ tư sản, thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là gì? Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho đại đa số nhân dân lao động, phục vụ lợi ích cho đại đa số. Dân chủ tư sản là gì? Dân chủ tư sản là nền dân chủ cho thiểu số, phục vụ lợi ích cho thiểu số. Bản chất chính trị của nền dân chủ tư sản? Bản chất chính trị của nền dân chủ tư sản mang bản chất của giai cấp tư sản, lợi ích của giai cấp tư sản đối lập với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ví dụ về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa? – Công dân từ đủ 18 tuổi có quyền bầu cử; Các tìm kiếm liên quan đến so sánh dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, so sánh nềndân chủ xã hội chủ nghĩavới nền dân chủ tư sản, so sánh nhà nướcxã hội chủ nghĩa vànhà nướctưbản chủ nghĩa, con đường dân chủ tư sản, sự khác nhau giữachủ nghĩa tưbản và chủ nghĩa xã hội, so sánh bản chất của nhà nướcxã hội chủ nghĩavới nhà nước tư bản, chế độxã hộinào có nền dân chủ, nền dân chủ tư sản ở mỹ, hãy so sánh và đánh giá nền dân chủ xhcn ở nước ta hiện nay với nền dân chủ tư sản ở mỹ hiện nay Sự khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hộiSự khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội - ĐờI SốNg SO SÁNH: XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TƯ BẢN CHỦ NGHĨABạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 18 trang ) NHỮNG NGUYÊN LÝ Khái niệm Tư bản chủ nghĩa là chế độ một bọn ít người (tư sản) bóc lột và thống trị đa số nhân dân.Đó là một quan hệ sản xuất phản ánh mối quan hệ giữa tư sản và vô sản. C Đả NXH ng va của là tổ toà i tr gi a c h ứ ò n th x lã i c c m sở uộc ã hộ nh đ ấp cô à th mộ kinh kiến i, là ạo củ ng d ông t n tế trú mộ a m ân qu t a h c c t XH nướ à nư ủa c thư tổ ch ình hực đó, c đ sản CN tư ớc k hủ n ợng ức c ối v hiện đư , là sản iểu ghĩa tầng hính ới ợc hìn nhờ mớ xã tr t thự h t cá i, th hộ ên c rị h i, c ơ a ứ c độ hiện c ch h mạ y th đó l lên tr uy ng ế n à CN ong ên c của hà XH thờ hín ik hv . ìq ô uá Điểm giống nhau giữa TBCN và XHCN Đều là một nền chính trị dân chủ, chính quyền được hình thành do bầu cử và có nhiệm kì. Trong thực tế cả hai chủ thuyết đều được tạo dựng lên để cải thiện đời sống của những người bình thường. Bản Chất Văn Hóa Kinh Tế Điểm khác nhau giữa TBCN và XHCN Xã Hội Chính Trị Bản chất Bản chất của chủ nghĩa tư bản là phản ánh quan hệ sản suất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra. Bằng cách bóc lột không công của công nhân làm thuê. . Bản chất của chủ nghĩa xã hội là phản ánh quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó không còn chế độ người bóc lột người , giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột của giai cấp tư bản. Đặc Điểm Kinh Tế Kinh Tế Thị Trường TBCN Kinh Tế Thị Trường XHCN Tư Bản Chủ Nghĩa Xã Hội Chủ Nghĩa Nền công nghiệp Nền đại công nghiệp Thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ đạo Thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo Là nền kinh tế dựa trên quyền tư hữu Là nền kinh tế dựa trên quyền công hữu Tuân theo chế độ tư hữu Xóa bỏ chế độ tư hữu, TBCN, xác lập chế độ công hữu, XHCN về TLSX Sản xuất trên nền tảng tư hữu hay nguyên tắc vốn và lãi khi tham gia vào thị trường. Tạo ra các tổ chức lao động cùng với kĩ thuật và kĩ thuật lao động mới thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đặc Điểm Chính Trị Tư Bản Chủ Nghĩa Chế độ chính trị của TBCN dựa trên chế độ đa đảng cạnh tranh và đa nguyên chính trị Xã Hội Chủ Nghĩa CNXH có chế độ chính trị dân chủ,nhà nước là của dân,dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh côngnông-trí thức do đảng cộng sản lãnh đạo. Chủ nghĩa xã hội có một đảng lãnh đạo duy nhất. Đặc Điểm Xã Hội Tư Bản Chủ Nghĩa Sự ra đời của CNTB đã giải phóng loài người khỏi “đêm trường trung cổ”của xã hội phong kiến; đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại Phát triển lực lượng sản xuất Thực hiện xã hội hóa sản xuất CNTB thông qua các cuộc cách mạng công nghiệp đã lần đầu tiên biết tổ chức lao động theo kiểu công xưởng, do đó đã xây dựng được tác phong công nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nền nếp,thói quen của người lao động sản xuất nhỏ trong XHPK CNTB lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập nên nền dân chủ tư sản, nền dân chủ này tuy chưa phải là hoàn hảo song so với thể chế chính trị trong các XHPK, nô lệ, vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi vì nó được xây dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể của cá nhân Xã Hội Chủ Nghĩa Cơ sở vật chất-kỹ thuật của XHCN là nền đại công nghiệp được phát triển lên từ tiền đề vật chất-kỹ thuật của nền đại công nghiệp TBCN CNXH xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất XHCN là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức lao động và kỉ luật lao đọng mới Xã hội XHCNlà một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động , coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất. Xã hội XHCN là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính cá nhân rộng rãi tính dân tộc sâu sắc Xã hội XHCN là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện Đặc Điểm Về Văn Hóa Kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hóa Chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của một nền văn hóa, tạo nên nội dung ý thức hệ của văn hóa. Văn hóa chịu sự tác động của chủ nghĩa tư bản và có tính thị trường hóa Là một nền văn hóa tiêu dùng Đặc Điểm Văn Hóa Nền văn hoá có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Là một nền văn hóa đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Hệ tư tương của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi giữ vai trò chủ đạo quyết định phương hướng phát triển nền VH. NHẬN XÉT Chủ nghĩa xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không có bóc lột, áp bức, con người được giải phóng và có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã hội và tự nhiên. Chủ CNXH nghĩa xãcó hộilợilàcho củadân nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy. hơn CNTB, nhưng thành Xã CNXH hội có có nềntrởvăn hoáhiện tiênthực tiếntrong đậm tương đà bảnlaisắc dân tộc, con hayphải không còngiải tùy phóng thuộc vào động người được khỏihành áp bức bấtcủa công có điều kiện con người ta trong cuộc đổi triển tự do của phátmỗi triển toàn diệnchúng cá nhân, là cơcông sở cho sự phát các quốc gia trên thế giới hiện nay tất cả mới mọi ởngười. Trong xã hội chủ nghĩa, các quan hệ giai cấpdân tộc-quốc tế được giải quyết phù hợp,kết hợp lợi ích của giai cấp-dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng kết hợp lợi ích giai cấp-dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. KẾT LUẬN CNXH đã xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn mới, từ lý luận và tiễn của CNXH đã giành được những tiến bộ to lớn trong việc tìm tòi một chế độ xã hội khác với chế độ bốc lột. Mọi quyền lực nhà nước xã hội đều thuộc về quyền nhân dân do nhân dân làm chủ bảo vệ bình đẳng nhân dân.ĐCS đại diện cho lợi ích nhân dân lãnh đạo ủng hộ nhân dân, nắm quyền lực và quản lý đất nước. Dựa vào nhân dân để thực hiện quản lý dân chủ đảm bảo nhân dân được hưởng quyền lợi, sự tự do rộng rãi theo pháp luật. Nhà nước XHCN kiên trì giữ lấy chế độ công hữu LET’S PLAY Câu 5: Xây dựng Nhà nước pháp Câu 1: 2 :Về 3 4 Quyền Đặc Phương bản điểm chất công thức kinh thì hưu sản CNXH của xuất những đã CNXH códân có quyền XHCN của dân ,tế docó dân ,CNTB vì những hạn gì có khác những chếgì với gìphát giai ?CNTB đoạn triển ? nào hơn ?CNTB ở nước ta hiện nay cần A. Nền Vừa kinh vận hành tế chịu theo sựcơ chichế phối thị, trường, kìm hãmvừa củacócác sự A. CNTB Tăng Là một cường tự chế dođộ sự cạnh lãnh dân tranh đạo làm và của chủ CNTB Đảngđộc quyền quy điều luật tiết kinh của nhà tếdo XHCN nước B. Là Các Nền Dânsựquy kinh chủ kếtluật hóa tế hợp tựkhách tổsức do chức theo mạnh quan vàchế hoạt các của độtổđộng nền cung chức kinh của cầu hoạt tế bộ B. CNTB hiện đại và độc quyền độc thị không máytrường quyền Nhà phải nước được tưchịu nhân tôn sựCNTB với chi trọng sức phối mạnh của chính Nhà nước phủ C. Gắn Các Kinhthông CNTB Xây liền dựng tếhiện phát với hệ lệđại sự triễn quốc thống phát vàkhông tế CNTB luật triển trong pháp đồng tiến tựquản dobộ của khoa lý vàchậm bộ, cạnh hoàn tranh học-kĩ chỉnh điềuchạp hành thuật và kinh và nặng văn tế được nềhóa vận dụng một cách hợp lýđộc mua D. kinh tếđúng mà đó người D. Nền CNTB Tấtvàcả ngày naytrong và CNTB quyền D. A Cđều đều đúng D. và Tấtngười cả đềubán saitác động với nhau theo quy luật cung cầu Cảm ơn Cô cùng các bạn đã theo dõi bài thuyết trình của nhóm 1 [Phân biệt] So sánh dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư bảnBởi HILAW.VN Cập nhật 04/11/2021 0 Chia sẻ Về bản chất, tư bản chủ nghĩa là kiểu hình thái xã hội mang tính chất bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản, còn xã hội chủ nghĩa mang bản chất dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên trên thực tế tư bản chủ nghĩa vẫn thể hiện sự dân chủ ở trong đó. Cùng tìm hiểu sự giống và khác nhau giữa hai nền dân chủ này. Tranh luận mô hình 'tư bản' hay 'xã hội chủ nghĩa' với thực tế Việt NamNguồn hình ảnh, Getty Images Chụp lại hình ảnh, Người dân mong cuộc sống tốt đẹp hơn Vào thời điểm chuẩn bị cho thêm một kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị 5 triệu thành viên, dự kiến vào đầu 2021, TBT Nguyễn Phú Trọng tiếp tục đề cao “chủ nghĩa Marx-Lenin” ở Việt Nam. Việt Nam: Tiêu chuẩn mới cho Tổng Bí thư ‘được hạ bớt’ Đảng 'trở thành dân tộc' hay để Dân yêu Đảng 'như con'? Tính chất 'xã hội chủ nghĩa' của thể chế ở Việt Nam đang giảm đi, hay tăng lên là một câu hỏi khó trả lời, vì nước này đã nói là đi theo con đường 'kinh tế thị trường'. Cùng lúc, 45 năm sau khi cuộc chiến với VNCH và Hoa Kỳ kết thúc, bộ máy chính trị tại Việt Nam hiện vẫn nêu cao 'định hướng XHCN'. Kỷ niệm 130 năm sinh nhật chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2020), TBT Trọng nói: "...Xuất phát từ điều kiện lịch sử của Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ, nước ta cần phải trải qua thời kỳ quá độ, từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự nghiệp mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, sẽ có vô vàn khó khăn, phức tạp phải vượt qua." Nguồn hình ảnh, Getty Images Chụp lại hình ảnh, Người Việt Nam còn quan tâm chủ nghĩa xã hội hay tư bản? Hồi đầu 2019, Pew Research Center công bố một điều tra dư luận của họ cho thấy 55% người Mỹ nghĩ tiêu cực về “chủ nghĩa xã hội” (socialism), và có 42% bày tỏ quan điểm tích cực. Cần nói đây là cách hiểu của họ về “chủ nghĩa xã hội” kiểu Phương Tây, có tự do ngôn luận, quyền biểu tình, hội họp và an sinh xã hội tốt. Những người ủng hộ 'chủ nghĩa xã hội' ở Mỹ nói họ tin rằng 'socialism' cho người lao động quyền có tiếng nói, và giúp giảm bất công, phân biệt giàu nghèo. Phái không thích CNXH cho rằng thể chế này “đã được thử nghiệm ở rất nhiều nơi, nhiều lần và đầu thất bại, điển hình là Venezuela”. Một số không nhỏ nói CHXH “triệt tiêu sáng kiến” và “hạn chế tự do”. Tổng thống Donald Trump trong cuộc vận động tranh cử 2020 liên tục tấn công phe Dân chủ Mỹ là “những kẻ theo chủ nghĩa xã hội”. Tuy thế, ứng viên hàng đầu của Dân chủ, ông Bernie Sanders tự nhận là “người XHCN dân chủ” - democratic socialist, chứ không phải là 'socialist'. Chừng hai phần ba (65%) nói họ có cách nhìn tích cực về 'chủ nghĩa tư bản” và 1/3 nhìn tiêu cực. Nguồn hình ảnh, Getty Images Chụp lại hình ảnh, Việt Nam mở cửa du lịch với thế giới Mục lục
Lịch sửSửa đổiChủ nghĩa tư bản đã bắt đầu tồn tại trên quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ[14] xuất hiện dưới dạng các hoạt động buôn bán, cho thuê và cho vay và đôi khi là ngành công nghiệp quy mô nhỏ với một số lao động làm công ăn lương. Đã có một lịch sử rất dài trong trao đổi hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa đơn giản, đó là nền tảng ban đầu cho sự phát triển của tư bản từ trao đổi thương mại. "Thời kỳ chủ nghĩa tư bản" theo Karl Marx có từ các thương gia thế kỷ 16 và các thành phố đô thị nhỏ.[15] Marx biết rằng lao động tiền lương đã tồn tại trên một quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ trước khi ngành công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Các nước Hồi giáo đã sớm ban hành chính sách kinh tế tư bản, di cư sang châu Âu thông qua các đối tác thương mại từ các thành phố như Venice.[16] Chủ nghĩa tư bản trong hình thức hiện đại có thể được bắt nguồn từ sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và chủ nghĩa trọng thương trong thời kỳ Phục hưng.[17] Các hình thức tư bản và trao đổi thương mại đã tồn tại nhiều năm trong phần lớn lịch sử, nhưng nó không dẫn đến sự công nghiệp hóa hay chi phối quá trình sản xuất của xã hội. Do nó đòi hỏi rất nhiều các điều kiện, bao gồm các công nghệ cụ thể về sản xuất hàng loạt, khả năng độc lập, tư nhân và buôn bán phương tiện sản xuất, một tầng lớp công nhân sẵn sàng bán sức lao động của mình để kiếm sống, khung pháp lý thúc đẩy thương mại, cơ sở vật chất cho phép lưu thông hàng hóa một quy mô lớn và an ninh cho sự tích lũy cá nhân. Nhiều điều kiện trong số này không tồn tại ở nhiều nước thế giới thứ ba, mặc dù có nhiều vốn và lao động. Những trở ngại cho sự phát triển của thị trường tư bản do đó ít kỹ thuật và xã hội, văn hóa và chính trị hơn.. Chủ nghĩa tư bản nông nghiệpSửa đổiNền tảng kinh tế của hệ thống nông nghiệp phong kiến bắt đầu thay đổi ở Anh thế kỷ 16 khi hệ thống trang ấp đã bị phá vỡ và đất đai bắt đầu trở nên tập trung trong tay một số địa chủ với lượng bất động sản ngày càng lớn. Thay vì một hệ thống nông nô dựa trên lao động, người lao động ngày càng được sử dụng như một phần của một nền kinh tế dựa vào trên nhuận. Hệ thống này gây áp lực lên cả địa chủ và người thuê đất để tăng năng suất nông nghiệp tạo ra lợi nhuận; sự suy yếu quyền lực cưỡng chế của tầng lớp quý tộc để trích xuất dư thừa nông dân khuyến khích họ thử các phương pháp sản xuất tốt hơn; và những người thuê đất cũng có động lực để cải thiện phương pháp của họ để phát triển mạnh trong một thị trường lao động cạnh tranh. Điều khoản thuê đất đã trở thành đối tượng của lực lượng kinh tế thị trường chứ không phải là hệ thống phong kiến trì trệ trước đây.[18][19] Đến đầu thế kỷ 17, nước Anh là một nhà nước kinh tế tập trung, trong đó phần lớn các luật phong kiến Trung cổ châu Âu đã bị loại bỏ. Sự tập trung này được xây dựng bởi một hệ thống đường sá tốt và một thành phố thủ đô lớn, London. Thủ đô đóng vai trò là trung tâm thị trường trung tâm của cả nước, tạo ra một thị trường nội bộ rất lớn cho hàng hóa, tương phản với những cổ phần phong kiến bị phân tán chiếm ưu thế ở hầu hết các vùng của lục địa. Chủ nghĩa trọng thươngSửa đổiCác học thuyết kinh tế hiện hành từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 thường được gọi là chủ nghĩa trọng thương.[15][20] Giai đoạn này, còn gọi thời kỳ khám phá, được kết hợp với cuộc thăm dò địa lý của các vùng đất nước ngoài của các thương nhân buôn bán, đặc biệt là từ Anh và các nước khác. Chủ nghĩa trọng thương là một hệ thống thương mại vì lợi nhuận, mặc dù hàng hóa vẫn chủ yếu sản xuất bằng phương pháp phi tư bản chủ nghĩa.[21] Hầu hết các học giả đều coi kỷ nguyên của chủ nghĩa tư thương gia và chủ nghĩa trọng thương là nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản hiện đại,[22][23] mặc dù Karl Polanyi cho rằng dấu hiệu của chủ nghĩa tư bản là việc thành lập thị trường tổng quát cho những gì ông gọi là "hàng giả", ví dụ: đất đai, lao động và tiền bạc. Theo đó, ông lập luận rằng "không cho là đến năm 1834 một thị trường lao động cạnh tranh thành lập ở Anh, do đó chủ nghĩa tư bản công nghiệp như một hệ thống xã hội không thể cho là đã tồn tại trước ngày đó".[24] Anh đã bắt đầu một phương pháp tiếp cận tích hợp và quy mô lớn đến chủ nghĩa trọng thương trong kỷ nguyên Elizabethan (1558–1603). Một lời giải thích có hệ thống và mạch lạc về sự cân bằng thương mại đã được công bố thông qua tranh luận Kho báu của nước Anh của Thomas Mun bởi Forraign Trade, và cuốn The Balance of our Forraign Trade is The Rule of Our Treasure. Nó được viết vào những năm 1620 và xuất bản năm 1664. Các thương gia châu Âu, được hỗ trợ bởi các nhà quản lý nhà nước, trợ cấp và độc quyền, kiếm được nhiều lợi nhuận nhất bằng cách mua và bán hàng hóa. Theo lời của Francis Bacon, mục đích của chủ nghĩa trọng thương là "sự mở cửa và cân bằng thương mại, sự trân trọng của các nhà sản xuất, loại bỏ sự biếng nhác, hạn chế chất thải và tránh lãng phí, cải thiện và chất lượng của đất; các quy định về giá [...]".[25] Công ty Đông Ấn của Anh và Công ty Đông Ấn Hà Lan đã khánh thành một kỷ nguyên mở rộng của thương mại và trao đổi mua bán.[26][27] Các công ty này được đặc trưng bởi việc đánh chiếm thuộc địa của họ, các quốc gia thuộc địa đã trao cho họ nhiều quyền lực.[26] Trong thời kỳ này, các thương gia, người đã giao dịch dưới sân khấu trước đó của chủ nghĩa trọng thương, vốn đầu tư trong công ty Đông Ấn và các thuộc địa khác, tìm kiếm một lợi nhuận đến từ đầu tư. Thế kỷ XVIII-XIX là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh nhất, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật và tăng năng suất lao động, đã biến nhiều quốc gia trở thành các cường quốc kinh tế. Tuy nhiên nó cũng gây ra sự phân hóa xã hội sâu sắc, kể cả sự bóc lột nhân công thường thấy, chủ nghĩa thực dân ra đời cùng sự xâm chiếm thuộc địa và buôn bán nô lệ. Karl Marx viết[28]: "Việc tìm thấy những mỏ vàng, mỏ bạc ở châu Mỹ, việc biến người dân bản xứ thành nô lệ, việc chôn vùi họ vào các hầm mỏ hoặc tuyệt diệt họ đi, những buổi đầu của cuộc chinh phục và cướp bóc ở Đông Ấn, việc biến châu Phi thành một vùng đất cấm thương mại dành riêng cho việc săn bắt người da đen, đấy là những biện pháp tích lũy nguyên thủy có tính chất báo hiệu bình minh của thời đại tư bản chủ nghĩa"Bên cạnh việc bóc lột nhân công trong nước, các nhà tư bản cũng tăng cường bóc lột kinh tế các nước thuộc địa. Nhà kinh tế học nổi tiếng Utsa Patnaik, dựa trên dữ liệu chi tiết về thuế và mậu dịch thương mại trong gần hai thế kỷ, đã tính toán và đưa đến kết luận rằng, thực dân Anh đã bóc lột khoảng 45.000 tỷ USD (theo thời giá năm 2017) của Ấn Độ trong giai đoạn 1765 đến 1938, lớn gấp 17 lần GDP của nước Anh năm 2017. Sự bòn rút của Anh được thực hiện thông qua hệ thống độc quyền thương mại tại Ấn Độ do công ty Đông Ấn (East India Company) của Anh nắm quyền kiểm soát. Người dân Ấn Độ đã phải cung phụng để nước Anh phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp tại Anh phụ thuộc phần lớn vào những phi vụ chiếm đoạt có hệ thống ở Ấn Độ. Trong toàn bộ lịch sử 200 năm cai trị của Anh tại Ấn Độ, hầu như không có sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Trong nửa cuối thế kỷ 19, thu nhập bình quân của dân Ấn Độ đã giảm một nửa, tuổi thọ trung bình của người Ấn giảm 20% từ năm 1870 đến 1920. Hàng chục triệu người đã chết đói do chính sách mà thực dân Anh gây ra[29]. Chủ nghĩa tư bản công nghiệpSửa đổiVào giữa thế kỷ 18, một nhóm các nhà lý thuyết kinh tế mới, do David Hume lãnh đạo[31] và Adam Smith, thách thức học thuyết trọng thương cơ bản, tin rằng sự giàu có của thế giới vẫn không đổi và một nhà nước chỉ có thể làm tăng sự giàu có của nó với chi phí của một nước khác. Trong cuộc Cách mạng công nghiệp, công nghiệp thay thế các thương gia như một nhân tố chi phối trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và ảnh hưởng sự suy giảm của các kỹ năng thủ công mỹ nghệ truyền thống của các nghệ nhân và người làm thuê. Cũng trong giai đoạn này, thặng dư được tạo ra bởi sự phát triển của thương mại nông nghiệp khuyến khích tăng cơ giới hóa nông nghiệp. Chủ nghĩa tư bản công nghiệp đánh dấu sự phát triển của hệ thống sản xuất của nhà máy, đặc trưng bởi một bộ phận lao động phức tạp giữa và trong quá trình làm việc và các công việc thường ngày; và cuối cùng đã thiết lập sự thống trị toàn cầu của chế độ tư bản sản xuất.[20] Anh cũng từ bỏ chính sách bảo hộ của mình như là chấp nhận bởi chủ nghĩa trọng thương. Trong thế kỷ 19, Richard Cobden và John Bright, người dựa niềm tin của họ trên trường Manchester, đã khởi xướng một phong trào để giảm thuế.[32] Vào những năm 1840, Anh đã áp dụng chính sách bảo hộ ít hơn, với việc bãi bỏ Luật Ngô và Đạo luật Điều hướng.[20] Anh giảm thuế quan và hạn ngạch, phù hợp với sự ủng hộ của David Ricardo đối với thương mại tự do. Chủ nghĩa tư bản hiện đạiSửa đổiChủ nghĩa tư bản đã được mở rộng ra thế giới bởi các quá trình toàn cầu hóa và đến cuối thế kỷ 18 đã trở thành hệ thống kinh tế chiếm ưu thế.[33] Sau đó trong thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua thách thức của các nền kinh tế kế hoạch tập trung và hiện là hệ thống bao trùm toàn cầu,[34][35] với nền kinh tế hỗn hợp là hình thức thống trị của nó trong thế giới công nghiệp hóa phương Tây. Công nghiệp hóa cho phép sản xuất giá rẻ các mặt hàng gia dụng bằng cách sử dụng quy mô kinh tế trong khi tăng dân số nhanh tạo ra nhu cầu bền vững cho hàng hóa. Toàn cầu hoá trong giai đoạn này được định hình bởi chủ nghĩa đế quốc ở thế kỷ 18.[33] Sau lần thứ nhất và chiến tranh nha phiến lần thứ hai và hoàn thành cuộc chinh phục Ấn Độ của Anh, quần thể rộng lớn của các khu vực này đã trở thành người tiêu dùng sẵn sàng xuất khẩu châu Âu. Cũng trong giai đoạn này, các khu vực của châu Phi cận Sahara và các đảo Thái Bình Dương được đưa vào hệ thống thế giới. Trong khi đó, cuộc chinh phục các khu vực mới trên thế giới, đặc biệt là châu Phi cận Sahara, châu Á mang lại nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá như cao su, kim cương và than và giúp đầu tư và thương mại nhiên liệu giữa các cường quốc châu Âu, các thuộc địa của họ và Hoa Kỳ:
Trong giai đoạn này, hệ thống tài chính toàn cầu chủ yếu gắn liền với tiêu chuẩn vàng. Vương quốc Anh lần đầu tiên chính thức thông qua tiêu chuẩn này vào năm 1821. Chẳng bao lâu sau đó là Canada vào năm 1853, Newfoundland năm 1865, Hoa Kỳ và Đức (de jure) năm 1873. Các công nghệ mới, chẳng hạn như điện báo, cáp xuyên Đại Tây Dương, điện thoại vô tuyến, tàu hơi nước và hàng hóa được phép và đường sắt cho phép di chuyển khắp thế giới ở mức độ chưa từng có.[37] Từ đầu thế kỷ XX trở đi, nhà nước tư bản chủ nghĩa từ chỗ hầu như không can thiệp vào nền kinh tế, thì lại can thiệp mạnh mẽ vào cơ chế thị trường, điều chỉnh thu nhập, sau đó là một quá trình quốc hữu hóa lớn diễn ra ở một số nước. Sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền do sự sáp nhập các doanh nghiệp tạo nên các tập đoàn kinh tế gần như không chịu sự cạnh tranh mang tính tự nhiên cũng là một đặc điểm trong giai đoạn thứ ba này. Thời kỳ này, theo nhận định của Lenin, chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, tạo nguồn gốc cho cuộc xung đột toàn cầu đầu tiên là thế chiến thứ nhất. Trong giai đoạn sau cuộc khủng hoảng toàn cầu của những năm 1930, nhà nước đóng một vai trò ngày càng nổi bật trong hệ thống tư bản trên khắp thế giới. Sự bùng nổ sau chiến tranh đã kết thúc vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 và tình hình đã trở nên tồi tệ hơn do sự gia tăng của lạm phát.[38] Chủ nghĩa tiền tệ, một bản sửa đổi của Kinh tế học Keynes tương thích hơn với laissez-faire, đã làm tăng uy tín lớn trên thế giới của tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là dưới sự lãnh đạo của Ronald Reagan tại Hoa Kỳ và Margaret Thatcher ở Vương quốc Anh trong những năm 1980. Lợi ích công cộng và chính trị bắt đầu chuyển từ cái gọi là quan điểm tập thể về chủ nghĩa tư bản được quản lý của Keynes tập trung vào lựa chọn cá nhân, được gọi là "chủ nghĩa tư bản tái cơ cấu".[39] Theo học giả Harvard Shoshana Zuboff, một chi mới của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản giám sát, kiếm tiền từ dữ liệu thu được thông qua giám sát.[40][41][42] Cô khẳng định nó lần đầu tiên được phát hiện và củng cố tại Google, nổi lên do sự "khớp nối của các cường quốc lớn của kỹ thuật số với sự thờ ơ triệt để và tự đại nội tại của chủ nghĩa tư bản tài chính và tầm nhìn tự do mới của nó đã thống trị thương mại trong vòng ít nhất ba thập kỷ, đặc biệt trong nền kinh tế Anglo"[41] và phụ thuộc vào kiến trúc toàn cầu về hòa giải máy tính tạo ra một biểu hiện quyền lực mới được phân phối và phần lớn không được nhắc đến mà cô gọi là "Big Other".[43] Nhìn chung bức tranh của chủ nghĩa tư bản hiện đại có thể là một quá trình đan xen nhau giữa tư hữu hóa ("tư bản hóa") hay quốc hữu hóa ("xã hội hóa", "Nhà nước hóa") ở các quốc gia, mà nguyên nhân từ sự lên cầm quyền của các lực lượng cánh tả ủng hộ chủ nghĩa xã hội, bao gồm cả những người tự do cánh tả, hay các lực lượng cánh hữu hay cánh tả thiên hữu nhưng các đặc điểm cơ bản của nó là tự do kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường ("mạnh được yếu thua") và những người cánh tả ủng hộ - quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản từ khởi nguồn nguyên thủy thì luôn tồn tại trừ một số quốc gia trong một số giai đoạn. Sự xuất hiện các hình thức công ty cổ phần bao gồm cả cổ phần của Nhà nước, hay hình thức hợp tác cổ phần, ngày nay với xu hướng toàn cầu hóa các nước chủ nghĩa xã hội dần cải cách mở cửa kinh tế, chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với các hiệp định thương mại tự do làm cho sự phân biệt giữa chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội trở nên mờ nhạt đi, không còn rạch ròi như trước. Mối quan hệ với dân chủSửa đổiMối quan hệ giữa dân chủ và chủ nghĩa tư bản là một lĩnh vực mang tính tranh cãi về lý thuyết và trong các phong trào chính trị phổ biến. Việc mở rộng quyền bầu cử phổ biến cho nam giới ở thế kỷ 19 ở Anh xảy ra cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và dân chủ công nghiệp đã trở nên phổ biến đồng thời với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản để tạo ra mối quan hệ nhân quả hoặc tương hỗ giữa họ.[44] Tuy nhiên, theo một số tác giả trong chủ nghĩa tư bản thế kỷ 20 cũng đi kèm một loạt các thành phần chính trị khá khác biệt với các nền dân chủ tự do, bao gồm các chế độ phát xít, chế độ quân chủ tuyệt đối và các quốc gia độc đảng.[20] Lý thuyết hòa bình dân chủ khẳng định rằng nền dân chủ hiếm khi chống lại các nền dân chủ khác, nhưng các nhà phê bình của lý thuyết đó cho rằng điều này có thể là do sự giống nhau về chính trị hay ổn định hơn là vì họ là dân chủ hay tư bản. Các nhà phê bình trung bình cho rằng mặc dù tăng trưởng kinh tế theo chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến nền dân chủ trong quá khứ, nhưng không thể làm như vậy trong tương lai..[45][46] Một trong những người ủng hộ lớn nhất của ý tưởng rằng chủ nghĩa tư bản thúc đẩy tự do chính trị, Milton Friedman, lập luận rằng chủ nghĩa tư bản cạnh tranh cho phép quyền lực kinh tế và chính trị được tách biệt, đảm bảo rằng họ không đụng độ với nhau. Các nhà phê bình vừa phải đã thách thức điều này, nói rằng các nhóm vận động hành lang ảnh hưởng hiện tại đã có chính sách tại Hoa Kỳ là một mâu thuẫn, do sự chấp thuận của công dân United. Điều này đã khiến mọi người đặt câu hỏi về ý tưởng rằng chủ nghĩa tư bản cạnh tranh thúc đẩy tự do chính trị. Phán quyết về công dân United cho phép các công ty chi tiêu số tiền không được tiết lộ và không được kiểm soát về các chiến dịch chính trị, chuyển đổi kết quả thành lợi ích và phá hoại nền dân chủ thực sự. Như được giải thích trong các tác phẩm của Robin Hahnel, trung tâm của hệ thống thị trường tự do là khái niệm về tự do kinh tế và những người ủng hộ đó đánh đồng nền dân chủ kinh tế với tự do kinh tế và tuyên bố rằng chỉ có hệ thống thị trường tự do mới có thể cung cấp tự do kinh tế. Theo Hahnel, có một vài phản đối về tiền đề rằng chủ nghĩa tư bản cung cấp tự do thông qua tự do kinh tế. Những phản đối này được hướng dẫn bởi những câu hỏi quan trọng về ai hoặc quyết định nào mà quyền tự do của họ được bảo vệ nhiều hơn. Thông thường, câu hỏi về sự bất bình đẳng được đưa ra khi thảo luận về chủ nghĩa tư bản thúc đẩy nền dân chủ tốt như thế nào. Một lập luận có thể đứng là tăng trưởng kinh tế có thể dẫn đến sự bất bình đẳng vì vốn có thể thu được ở các mức độ khác nhau bởi những người khác nhau. Trong thủ đô của thế kỷ 21, Thomas Piketty thuộc trường Kinh tế Paris khẳng định rằng sự bất bình đẳng là hậu quả không thể tránh khỏi của tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế tư bản và sự tập trung kết quả của cải có thể làm mất ổn định xã hội dân chủ và làm suy yếu lý tưởng của công lý xã hội, nơi chúng được xây dựng.[47] Các quốc gia có hệ thống kinh tế tư bản đã phát triển mạnh theo các chế độ chính trị được cho là độc tài hoặc áp bức. Singapore có một nền kinh tế thị trường mở thành công nhờ vào môi trường cạnh tranh, kinh doanh thân thiện và luật lệ mạnh mẽ của nó. Tuy nhiên, hệ thống chính trị Singapore thường được cho là: (1) Bị kiểm soát chặt chẽ bởi chính phủ, mặc dù trên danh nghĩa đó là nhà nước dân chủ và là một trong số những nước ít tham nhũng nhất,[48] nó cũng hoạt động chủ yếu dưới sự cai trị của một đảng; và (2) Không bảo vệ quyền tự do ngôn luận một cách mạnh mẽ, vì báo chí do chính phủ kiểm soát, cũng như thiên hướng bảo vệ pháp luật bảo vệ hòa bình dân tộc và tôn giáo, nhân phẩm tư pháp và danh tiếng cá nhân. Cũng như vậy, khu vực tư nhân (tư bản) tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã phát triển theo cấp số nhân và phát triển mạnh kể từ khi thành lập, mặc dù có một chính phủ mà phương Tây cho là độc tài. Sự cai trị của nhà độc tài Augusto Pinochet ở Chile dẫn đến tăng trưởng kinh tế và mức độ bất bình đẳng cao[49] bằng cách sử dụng các phương tiện độc tài để tạo môi trường an toàn cho đầu tư và chủ nghĩa tư bản. Tính đa dạng của chủ nghĩa tư bảnSửa đổiPeter A. Hall và David Soskice lập luận rằng các nền kinh tế hiện đại đã phát triển hai hình thức chủ nghĩa tư bản khác nhau: nền kinh tế thị trường tự do (hoặc LME) (ví dụ như Hoa Kỳ, Anh, Canada, New Zealand và Ireland) và các nền kinh tế thị trường (CME) (ví dụ: Đức, Nhật Bản, Thụy Điển và Áo). Hai loại này có thể được phân biệt theo cách chính mà các công ty phối hợp với nhau và các tác nhân khác, chẳng hạn như công đoàn. Trong các LME, các công ty chủ yếu phối hợp các nỗ lực của họ bằng cách phân cấp và cơ chế thị trường. Các nền kinh tế thị trường phối hợp dựa nhiều hơn vào các hình thức tương tác phi thị trường trong việc phối hợp mối quan hệ của họ với các tác nhân khác (để mô tả chi tiết xem các giống chủ nghĩa tư bản). Hai hình thức tư bản này đã phát triển các quan hệ công nghiệp khác nhau, đào tạo nghề và giáo dục, quản trị doanh nghiệp, quan hệ giữa các công ty và quan hệ với nhân viên. Sự tồn tại của các hình thức chủ nghĩa tư bản khác nhau này có tác động xã hội quan trọng, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng và bất ổn. Từ đầu những năm 2000, số lượng người ngoài thị trường lao động đã phát triển nhanh chóng ở châu Âu, đặc biệt là trong giới trẻ, có khả năng ảnh hưởng đến sự tham gia của xã hội và chính trị. Sử dụng các lý thuyết tư bản chủ nghĩa, có thể giải quyết các ảnh hưởng khác nhau đến sự tham gia của xã hội và chính trị mà sự gia tăng của người ngoài thị trường lao động có nền kinh tế thị trường tự do và phối hợp (Ferragina và cộng sự, 2016).[50] Sự bất ổn xã hội và chính trị, đặc biệt là trong giới trẻ, dường như rõ ràng hơn trong tự do hơn so với các nền kinh tế thị trường phối hợp. Điều này cho thấy một vấn đề quan trọng đối với nền kinh tế thị trường tự do trong thời kỳ khủng hoảng. Nếu thị trường không cung cấp cơ hội việc làm phù hợp (như trong những thập kỷ trước), những thiếu sót của các hệ thống an sinh xã hội tự do có thể làm giảm sự tham gia xã hội và chính trị hơn cả ở các nền kinh tế tư bản khác nhau. |