Trung Quốc: Tại sao ngành gia cầm phát triển như một “phép màu” [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Quy mô đàn, sản lượng trứng, thịt và giá trị của ngành chăn nuôi gia cầm Trung Quốc đều vượt xa các nước khác trên thế giới. Đàn gà ước khoảng 6,07 tỷ con Mặc dù đến thời điểm hiện tại chưa có số liệu chính thức của Chính phủ Trung Quốc và các tổ chức quốc tế liên quan nhưng trên cơ sở dữ liệu của 3 tổ chức có uy tín (Indexbox, Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO) và Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) chúng tôi đã tổng hợp được một số dữ liệu về ngành gia cầm Trung Quốc như sau: Năm 2019 mặc bị ảnh hưởng lớn từ cuộc chiến thương mại với Mỹ cộng thêm tác động bất lợi của một số dịch bệnh, thiên tai lũ lụt … nhưng ngành gia cầm Trung Quốc vẫn phát triển rất mạnh mẽ, tiếp tục dẫn đầu thế giới và có xu hướng vượt xa các nước ở phần lớn các chỉ tiêu. Số lượng gà Trung Quốc hiện nay ước đạt 6,07 tỷ con, cao hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới (cao hơn 2,3 lần so với Indonesia nước đứng thứ 2 và 2,8 lần so với Hoa Kỳ nước đứng thứ 3). Sản lượng thịt gia cầm đạt 22,6 triệu tấn, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2018, Trung Quốc trở thành nước sản xuất thịt gia cầm lớn nhất thế giới, chiếm 21 % sản lượng thịt toàn cầu, tiếp theo là EU (14%), Mỹ (10,6 %) và Brazil (9,6 %)…. Tương tự như vậy, sản lượng trứng của Trung Quốc năm 2017 mới đạt 466 tỷ quả chiếm 34% sản lượng toàn cầu, sau 2 năm đã tăng lên 558 tỷ quả, chiếm 42% sản lượng trứng toàn cầu, vượt xa so với các nước xếp liền kề (gấp 6 lần Hoa Kỳ (7%), 7 lần Ấn Độ (6%)…). Xét dưới góc độ dân số, trong khi quy mô dân số của Trung Quốc chỉ chiếm 18 % dân số thế giới, nếu tính sản lượng thịt, trứng gia cầm sản xuất ra trên đầu người thì Trung Quốc vẫn cao hơn bình quân thế giới từ 3 % (đối với thịt gia cầm) đến 14 % (đối với trứng). Doanh thu của ngành chăn nuôi gia cầm ở Trung Quốc tăng khoảng 7,5% /năm giai đoạn 2015-2019 và đạt 129,0 tỷ USD vào năm 2019, dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh cả về sản lượng và giá trị trong 5 năm tới với tốc độ tăng trưởng khoảng 7,4%/ năm và sẽ đạt khoảng 185 tỷ đô USD vào năm 2025. Điều gì giúp ngành gia cầm Trung Quốc phát triển nhanh đến vậy? Để trả lời câu hỏi này, bằng nhiều kênh khác nhau, chúng tôi đã tập trung tìm hiểu và đã rút ra kết luận bước đầu đó là ngoài yếu tố khách quan như thị trường tiêu thụ nội địa rộng lớn, nguồn lực đầu tư của cả Chính phủ và tư nhân dồi dào, số lượng lao động giá rẻ thiếu việc làm lớn… thì vai trò của chính quyền trung ương và địa phương trong việc định hướng, ban hành chính sách hỗ trợ, thúc đẩy ngành gia cầm phát triển là vô cùng quan trọng, có tính tiên quyết. Điều này được thể hiện ở một số khía cạnh sau: Khuyến khích, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp Trong vòng 10 năm qua Chính phủ Trung Quốc đã đề ra nhiều chính sách hỗ trợ để khuyến khích thành lập các doanh nghiệp chuyên về chăn nuôi, sản xuất thức ăn và chế biến sản phẩm gia cầm. Trên 50% doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ được vay vốn không lãi suất trong vòng 5 năm, miễn thuế trong 3 năm đầu mới thành lập…Nhờ có nhiều ưu đãi nên số lượng doanh nhiệp gia cầm phát triển rất nhanh với tốc độ gần 10%/năm. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Nông thôn Trung Quốc (MARA) hiện Trung Quốc có khoảng gần 720 ngàn doanh nghiệp gia cầm, với gần 9 triệu lao động. Đặc biệt, Trung Quốc là quốc gia có nhiều doanh nghiệp rất lớn tầm cỡ quốc tế, nước này có 4 doanh nghiệp nằm trong top 20 doanh nghiệp sản xuất thịt và trứng gia cầm lớn nhất thế giới. Đây là lợi thế không nhỏ vì các doanh nghiệp lớn có khả năng định hướng chăn nuôi, điều tiết giá cả đầu ra, đầu vào của cả ngành… vì lý do đó các doanh nghiệp này luôn được Chính phủ đứng sau hỗ trợ. Đẩy mạnh cơ giới hóa, tự động hóa Ứng dụng công nghệ tiên tiến để hiện đại hóa được kỳ vọng trở thành công cụ đắc lực giúp cải tổ chuỗi sản xuất và dịch vụ liên quan trong ngành gia cầm. Từ năm 2010 Bộ Nông nghiệp Nông thôn đã triển khai chương trình hiện đại hóa ngành nông nghiệp trên diện rộng, sau gần 10 năm tỷ lệ cơ giới hóa đã tăng từ 11% năm 2010 lên 33 % năm 2019 và dự kiến đạt 50% vào năm 2025 (riêng ngành gia cầm và chăn nuôi lợn sẽ đạt 70% sau 5 năm tới). Đây là yếu tố cần thiết giúp ngành gia cầm nước này tăng quy mô, hạ giá thành sản phẩm. Chính sách linh hoạt Sau khi ban hành hàng loạt quy định bảo vệ môi trường, Chính phủ Trung QUốc nhận thấy các quy định này phần nào hạn chế sự phát triển của ngành chăn nuôi vì vậy đã rút ra những bài học và dần điều chỉnh chính sách linh hoạt hơn. Ngoài chính sách chung, Chính phủ cho phép chính quyền các tỉnh ban hành bổ sung các chính sách cụ thể phù hợp với địa phương, trong đó chú trọng hỗ trợ các hộ chăn nuôi quy mô vừa và nhỏ. Ngoài ra, cũng giống như Việt Nam, Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần vào cuộc giải cứu ngành gia cầm nhằm giúp ngành này vượt qua các khó khăn về dịch bệnh, mất cân đối cung cầu… hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, tăng cường sức cạnh tranh nội địa và quốc tế. Khuyến khích phát triển tại các địa phương Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp, trang trại gia cầm đặt tại các vùng nông thôn, thúc đẩy xây dựng chuỗi giá trị theo vùng nhằm tận dụng nguồn lao động giá rẻ tại chỗ, giảm giá thành sản xuất, giảm chi phí vận chuyển và điều quan trọng nhất là giảm chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành phố, góp phần quan trọng vào chủ trương hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông thôn Trung Quốc. Điều này đã giúp Trung Quốc trở thành một trong những nước có nhiều vùng nông thôn giàu có trù phú bậc nhất trên thế giới. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học Cùng với các chính sách khác Chính phủ đã đầu tư nguồn lực lớn và công bố nhiều chính sách nhằm kêu gọi các nhà khoa học, các đơn vị liên quan đầu tư nghiên cứu, cải tiến thiết bị máy móc. Mặt khác mở rộng ứng dụng trí tuệ nhân tạo, phát triển công nghệ gen và di truyền phân tử nhằm mục đích tự chủ nguồn giống, giảm phụ thuộc vào nước ngoài. Theo truyền thông Trung Quốc, một trong những doanh nghiệp gia cầm lớn nhất nước này đã tuyên bố đạt bước đột phá trong cải tiến gen di truyền gà lông trắng vào năm 2019 và đã bắt đầu sản xuất thử nghiệm. Nếu thành công, Trung Quốc sẽ hoàn toàn chủ động trong việc cung cấp gà giống ông bà lông trắng ra thị trường nội địa vốn phụ thuộc vào nước ngoài từ nhiều năm nay. GS.TS Nguyễn Duy Hoan Đại học Thái Nguyên Từ khóa Phát triển ngành chăn nuôi bò sữa trong bối cảnh hội nhập quốc tế(ĐCSVN) - Thời gian qua, nhành chăn nuôi bò sữa ở nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước cung cấp thêm một phần sản lượng sữa tươi thiết yếu cho người tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, đứng trước quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành chăn nuôi bò sữa đang phải đối diện với những khó khăn không nhỏ.
Đầu tư công nghệ cao là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm từ bò sữa Nhiều thuận lợi cho phát triển đàn bò sữa Theo PGS.TS Hoàng Kim Giao (Hiệp hội Gia súc lớn, Hội Chăn nuôi Việt Nam), ngành chăn nuôi bò sữa nước ta có nhiều thuận lợi để phát triển. Thực tế, nhu cầu về sữa trên thế giới luôn tăng trưởng, bình quân trong những năm trở lại đây tốc độ tăng trưởng đạt 2,5%, riêng năm 2014 có tốc độ tăng trưởng đạt 3,4%so với năm 2013. Bình quân tiêu thụ sữa trên đầu người/năm của thế giới là 104,3kg (sữa tươi), trong khi ở Việt Nam nếu tính riêng sữa tươi mới đạt 6,1kg. Cho đến nay, chăn nuôi bò sữa ở nước ta mới sản xuất và đáp ứng được gần 34% nhu cầu về sữa tiêu dùng, 66% còn lại người tiêu dùng Việt Nam phải dùng sữa nhập nội. Như vậy, thị trường sữa ở nước ta còn rất lớn, phát triển chăn nuôi bò sữa không những cho thị trường trong nước mà còn có khả năng xuất khẩu cho các thị trường xung quanh. Khoa học kỹ thuật cùng các công nghệ cao sử dụng trong chăn nuôi bò sữa ngày càng phát triển. Những công nghệ này đã hạn chế được một phần bất lợi của điều kiện sinh thái, thời tiết khí hậu, đồng thời phát huy được tiềm năng, năng suất của đàn bò. Chăn nuôi bò sữa ở nước ra đời chậm nhưng người chăn nuôi đã có ít nhiều kinh nghiệm trong việc chọn lọc, nhân giống, chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý đàn bò. Mặt khác, chăn nuôi bò sữa luôn có lãi, ổn định, đặc biệt trong những năm 2009-2014, lãi suất trong đầu tư chăn nuôi bò sữa dao động, ước tính trung bình đạt từ 10-20% tùy thuộc vào điều kiện và quy mô chăn nuôi. Bên cạnh đó, có thể kể đến các phụ phẩm nông nghiệp của nước ta phong phú, ước tính rơm, rạ, thân ngô sau thu hoạch khoảng trên 50 triệu tấn. Phụ phẩm trong quá trình chế biến các sản phẩm nông nghiệp có số lượng lớn và đa dạng, nếu biết khai thác, chế biến thành thức ăn cho vật nuôi sẽ giúp giảm giá thành sản phẩm. Những khó khăn không nhỏ Hiện nay, nước ta chưa có các giống bò sữa cao sản như châu Âu hoặc Bắc Mỹ. Để có giống bò sữa tốt phục vụ chăn nuôi, các công ty, doanh nghiệp phải nhập khẩu giống. Đây là cản trở đầu tiên trong chăn nuôi bò sữa do nhập khẩu sẽ dẫn đến chi phí cao, ảnh hưởng đến giá thành chăn nuôi. Đồng thời, thời tiết khí hậu nóng ẩm không những ảnh hưởng xấu tới vật nuôi mà còn ảnh hưởng tới chất lượng của sữa khi ra khỏi cơ thể bò. Bên cạnh đó, người chăn nuôi bò sữa ở nước ta còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi bò sữa, thu gom và bảo quản sữa tươi trước chế biến. Trên thực tế, chăn nuôi bò sữa ở nước ta còn phân tán, có tới 70-75% số lượng bò sữa được nuôi ở gần 24 nghìn hộ nông dân với quy mô chăn nuôi bình quân 5-7-10 con. Vì vậy, rất khó khăn trong công tác kiểm soát dịch bệnh cho vật nuôi, vệ sinh an toàn sữa; sản phẩm sữa không đồng đều về chất lượng. Thêm vào đó, điều kiện tự nhiên với vùng đồng bằng hẹp mật độ dân số cao, ít có đồng cỏ rộng để chăn nuôi. Người dân Việt Nam chưa có thói quen trồng cỏ sử dụng cho chăn nuôi gia súc. Ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính từ bò sữa rất lớn. Hội nhập sâu rộng về kinh tế thế giới, Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) được ký kết là thách thức lớn đối với ngành chăn nuôi, đặc biệt với ngành chăn nuôi bò sữa. Bởi khi đó, các sản phẩm chăn nuôi, trong đó có sữa tại các nước có lợi thế như Newzealand, Úc, Mỹ,…sẽ được nhập vào nước ta. Theo nghiên cứu của IFCN (Mạng lưới trang trại quốc tế, 2013), chi phí sản xuất sữa trung bình của thế giới ước tính là 46 USD/100kg sữa tươi nguyên liệu, của Nhật Bản là 128 USD, các nước thành viên châu Âu 40-55 USD, Mỹ là 41,4 USD,…Ở nước ta, tùy thuộc điều kiện, sản xuất ra 100kg sữa tươi chi phí khoảng 42-52 USD. Đây là một thách thức không nhỏ đối với người chăn nuôi bò sữa ở nước ta. Tăng cường các giải pháp phát triển ngành chăn nuôi bò sữa Đàn bò sữa nước ta phát triển nhanh, bình quân tăng trưởng trong giai đoạn 2001-2014 đạt 14,04%. Trong đó, giai đoạn 2001-2010, tốc độ tăng trưởng bình quân số lượng bò là 13,47%, giai đoạn 2010-2014 tăng trưởng 15,35%. Bên cạnh đó, tổng sản lượng sữa tươi sản xuất hàng năm tăng liên tục, tổng sản lượng giai đoạn 2001-2010 tăng 18,87% và giai đoạn 2010-2014 tăng 17,89%. Nhằm phát triển, nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm từ bò sữa trong quá trình hội nhập, theo PGS. TS Hoàng Kim Giao, việc phát triển đàn bò sữa không nên chạy theo số lượng mà cần ưu tiên hướng tới chất lượng thông qua con giống; phát triển trang trại tập trung ứng dụng công nghệ cao gắn với việc sản xuất chế biến sữa. Giảm dần chăn nuôi bò sữa quy mô nhỏ, phân tán; khuyến khích quy mô chăn nuôi trong nông hộ dần dần ổn định ở số lượng 50-100 đầu bò sữa. Hướng tới chăn nuôi bền vững, hiệu quả và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Để đạt được những mục tiêu trên, cần tăng cường các giải pháp đồng bộ để phát triển đàn bò sữa. Cùng với đó, ngành chăn nuôi bò sữa cần quy hoạch theo hướng xác định các vùng khuyến khích đầu tư phát triển, vùng không khuyến khích và không nên phát triển. Bên cạnh đó, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi bò sữa, chú trọng về chất lượng con giống. Về thức ăn cho đàn bò sữa, cần đưa tiêu chuẩn, khẩu phần thức ăn phù hợp với từng cá thể, xây dựng quy trình chăn nuôi phù hợp với lứa tuổi vật nuôi, phù hợp với năng suất sữa ở từng giai đoạn của bò, phù hợp với môi trường điều kiện sinh thái của từng vùng, địa phương. Đồng thời, ngành chăn nuôi, các viện, trường cần phối hợp đưa các giáo trình dạy phù hợp với tập quán và điều kiện chăn nuôi của từng vùng. Liên doanh, liên kết chặt chẽ giữa người chăn nuôi với các nhà máy, cơ sở thu mua chế biến là công tác quan trọng. Mối liên doanh này tạo chuỗi khép kín từ sản xuất đến tiêu dùng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có các chính sách nhằm tạo điều kiện về đất, mặt bằng, hỗ trợ về xử lý môi trường, hỗ trợ cơ sở vật chất về đường, điện, đặc biệt ở vùng sâu, xa; hỗ trợ việc nhập khẩu máy móc, trang thiết bị phục vụ công nghệ cao trong chăn nuôi bò sữa, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư công nghệ cao trong chăn nuôi bò sữa./. BT
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM
|