Theo tài liệu và thư tịch cổ trung quốc gọi vương quốc của người khơ-me là gì?

Sử sách Trung Quốc gọi Vương quốc của người Khơ-me là gì?

Sử sách Trung Quốc gọi Vương quốc của người Khơ-me là gì?

A. Chăm-pa.

B. Chân Lạp.

C. Cam-pu-chia.

D. Miên.

Mục lục

  • 1 Tên gọi
  • 2 Lịch sử
    • 2.1 Huyền thoại lập quốc
    • 2.2 Hưng thịnh
    • 2.3 Diệt vong
  • 3 Văn hóa
    • 3.1 Trong thư tịch cổ
  • 4 Di chỉ
    • 4.1 Di chỉ Gò Cây Thị (Óc Eo)
    • 4.2 Di chỉ Gò Tháp
    • 4.3 Di chỉ Gò Thành
    • 4.4 Di chỉ Gò Cây Tung
  • 5 Phù Nam & Chân Lạp
  • 6 Bí ẩn về sự tiêu vong
  • 7 Quân chủ Phù Nam
  • 8 Xem thêm
  • 9 Chú thích
  • 10 Tham khảo chính
  • 11 Liên kết ngoài

Tên gọiSửa đổi

Được biết đến trong các ngôn ngữ ngày nay của khu vực như là វ្នំ Vnom (Khmer) hay នគរភ្ Nokor Phnom (Khmer), ฟูนาน (tiếng Thái), tiếng Trung: 扶南; bính âm: Fúnán, tên gọi Phù Nam không được tìm thấy trong bất kỳ văn bản nào có nguồn gốc tại khu vực này trong thời kỳ đó, và người ta cũng không rõ người Phù Nam dùng tên gọi gì để nói tới chính thể của mình. Tên gọi Phù Nam trong tiếng Việt có lẽ là phiên dịch từ tên gọi tiếng Trung, do tên gọi 扶南 xuất hiện trong các thư tịch Trung Hoa khi mô tả về vương quốc này, và phần lớn các mô tả đó chủ yếu dựa trên báo cáo của hai sứ giả Trung Hoa là Khang Thái (康泰) và Chu Ứng (朱應) đã từng sống tại đây trong khoảng giữa thế kỷ 3 cho vua Đông Ngô ở Nam Kinh.

Chung quanh tên gọi Phù Nam hiện vẫn còn nhiều tranh cãi. Ý kiến được nhiều người tán đồng, đó là Phù Nam do chữ Fou Nan mà ra (gọi theo cách phát âm của người Trung Hoa). Từ ngữ này xuất phát từ ngôn ngữ Môn-Khmer cổ: bnam hay vnam, mà ngày nay được đọc là phnom, có nghĩa là núi hoặc đồi.[1] Tuy nhiên, nhà nghiên cứu văn khắc Claude Jacques chỉ ra rằng diễn giải này dựa trên sự phiên âm sai từ tiếng Phạn parvatabùpála trong các văn khắc cổ như là tương đương với từ Khmer bnaṃ và đồng nhất hóa sai lệch vua Bhavavarman I đề cập trong các văn khắc này như là người chinh phục Phù Nam.[2] Jacques cũng đề xuất loại bỏ việc sử dụng tên gọi Funan trong các ngôn ngữ phương Tây và thay vì thế sử dụng các tên gọi như Bhavapura, Aninditapura, Shresthapura hay Vyadhapura, được biết đến từ các văn khắc đã từng được sử dụng vào thời gian đó để chỉ các đô thị trong khu vực và cung cấp ý tưởng chính xác hơn về địa lý của các khu vực Khmer cổ so với các tên gọi như Funan hay Zhenla (Chân Lạp), những tên gọi không được biết đến trong tiếng Khmer cổ.[3]

Theo tác giả Lương Ninh thì một danh từ chung chỉ núi non không thể là nguồn gốc của tên đất nước, mà phải là cái khác, quý báu hơn: tên tộc người bản địa: Bnam.[4] Theo đó các vua Phù Nam là những người thuộc dòng Vua Núi - Kurung bnam.[5]

Kinh đô của Phù Nam, theo sách Lương thư và Tân Đường thư là thành Đặc Mục (特牧). Học giả G. Coedes cho đó là phiên âm của từ trong tiếng Phạn là Vyadhapura (pura: thành phố/kinh đô, Vyadha: người đi săn), và thành này ở gần ngọn núi Ba Phnom ở làng Banam, thuộc tỉnh Prey Veng (Campuchia) ngày nay.[1][6] Ngược lại, một số tác giả như Paul Pelliot (1903),[7] P. Dupont (1955), L. Malleret (1962) không tán thành thuyết đó, họ cho rằng kinh đô của Phù Nam có thể là Angkor Borei do nhiều hiện vật khảo cổ có niên đại và phong cách Phù Nam tìm thấy ở đây.[8]

Lịch sửSửa đổi

Lịch sử Campuchia


Phù Nam (thế kỷ 1- 550)
Chân Lạp (550-802)
Đế quốc Khmer (802-1432)
Thời kỳ hậu Angkor (1432-1863)
Campuchia thuộc Pháp (1863-1946)
Campuchia thuộc Nhật (1945)
Vương quốc Campuchia (1946-1953)
Vương quốc Campuchia (1953-1970)
Cộng hòa Khmer (1970-1975)
Campuchia Dân chủ (1975-1979)
Cộng hòa Nhân dân Campuchia (1979-1989)
Liên minh chính phủ Kampuchea Dân chủ (1982-1992)
Nhà nước Campuchia (1989-1992)
Cơ quan chuyển tiếp Liên Hợp Quốc tại Campuchia (1992-1993)
Vương quốc Campuchia (1993-nay)
sửa

Huyền thoại lập quốcSửa đổi

Theo Khang thịnh sứ giả của Ngô Tôn Quyền thời Tam Quốc chép trong sách Phù Nam thổ tục thì ông vua đầu tiên của nước Phù Nam, có lẽ là một quý tộc người Ấn Độ hay là một tăng lữ Bà-la-môn tên là Hỗn Điền.[9] Một số học giả phương Tây cho rằng truyền thuyết Hỗn Điền là dị bản của truyền thuyết Ấn Độ về Kaundinya.[10]

Vương triều của Kaundinya tồn tại khoảng hơn 150 năm, trải qua 3 đời vua. Các thư tịch cổ của Trung Quốc phiên âm tên 3 vị vua này là Hỗn Điền, Hỗn Bàn Huống (127-217) và Hỗn Bàn Bàn (217-220).[10]

Hưng thịnhSửa đổi

Chân Lạp-Phù Nam, vào năm 600.

Ngô Văn Doanh (2009) dẫn Lương thư cho biết rằng quốc vương cuối cùng của Vương triều Kaundinya làm vua được 3 năm thì mất. Một vị tướng của Phù Nam mà Lương thư của Trung Quốc phiên âm là Phạm Sư Mạn lên làm vua, lập ra Vương triều họ Phạm. Theo Lương thư, làm vua được 3 năm thì Phạm Sư Mạn mất. Con ông là Phạm Kim Sinh nối ngôi, làm vua được khoảng 5 năm, đến năm 245 thì bị người anh họ tên Phạm Chiên giết chết để đoạt ngôi. Một người con khác của Phạm Sư Mạn là Phạm Trường đã nổi dậy lật đổ được Phạm Chiên, nhưng cũng lập tức bị tướng của Chiên là Phạm Tầm giết. Phạm Tầm lên làm vua. Phù Nam dưới Vương triều họ Phạm trở nên hùng mạnh. Phạm Sư Mạn đã đem quân đi chinh phạt được tới hơn 10 nước, mở rộng đáng kể lãnh thổ. Phạm Chiên đã thúc đẩy quan hệ ngoại giao với Ấn Độ. Còn Phạm Tầm đã thúc đẩy quan hệ ngoại giao với nhà Tấn ở Trung Quốc. Người Phù Nam đã có chữ viết, kiểu chữ viết có nguồn gốc Ấn Độ.[11]

Cho đến giờ chưa phát hiện được tư liệu nào nói về thời kỳ tiếp sau Phạm Tầm. Các nhà khoa học cho rằng vào khoảng giữa thế kỷ 4, quyền cai trị Phù Nam một lần nữa lại vào tay người Ấn Độ. Lương thư và Tấn thư có nhắc tới một người là Trúc Chiên Đàn đã triều cống Mục Đế. Các nhà khoa học sau này cho đó là người Ấn Độ tên là Chandan hoặc Chandana.[12]

Đến đầu hoặc giữa thế kỷ 5, vẫn là người Ấn Độ nắm quyền cai trị Phù Nam. Lương thư cho biết một người Thiên Trúc là Kiều Trần Như mà các nhà khoa học sau này cho rằng đó có thể là một người Brahman Ấn Độ cũng lại tên là Kaudinya đã thay đổi chế độ nhà nước Phù Nam sang theo kiểu Ấn Độ.[13] Kiều Trần Như ở ngôi khoảng năm 470 đến 514, tự xưng là Người bảo vệ thánh kinh Vê đa. Vào thời kỳ này, nhiều thương gia Phù Nam sang buôn bán ở Quảng Châu (Trung Quốc).[14]

Khi Kaundinya mất, con là Sri Indravarman (Lương thư phiên âm là Trì Lê Đà Bạt Ma) lên thay, và đã cho sứ sang triều cống Tống Văn Đế (nhà Lưu Tống) vào những năm 438, 453 và 438. Cũng theo Lương thư, thì năm 431-432, nước Lâm Ấp muốn đánh Giao Châu của người Việt, nên có yêu cầu vua Phù Nam giúp sức, nhưng Phù Nam đã từ chối.

Khi Sri Indravarman mất, người nối ngôi là Jayavarman (Lương thư phiên âm là Xà Gia Bạt Ma). Jayavarman đã phái một nhà sư Ấn Độ tên Nagasena đem lễ vật sang tặng vua Nam Tề năm 484, và yêu cầu nhà vua giúp mình đánh Lâm Ấp nhưng bị từ chối khéo. Các nhà khoa học đã phát hiện bia ký viết bằng chữ Phạn cho hay dưới thời Jayavarman Phù Nam đã xây dựng nhiều công trình thủy lợi, biến nhiều vùng đầm lầy rộng lớn ở hạ lưu sông Mê Kông thành những vùng đồng bằng phì nhiêu, trù phú. Năm 514, Jayavarman mất.

Kế vị ngôi là Rudravarman (Lương thư phiên âm là Lưu Đà Bạt Ma), con cả của Jayavarman. Đây là ông vua cuối cùng của Phù Nam. Vào năm 517 và 539, nhà vua đều có sai sứ sang Trung Quốc triều cống.

Diệt vongSửa đổi

Giữa thế kỷ 5, Chân Lạp nổi lên, chiếm thành Đặc Mục - kinh đô của Phù Nam, hợp nhất lãnh thổ Phù Nam với Chân Lạp. Nhà vua Phù Nam phải bỏ chạy và lập triều đình lưu vong tại Na Phất Na (vùng Angkor Borei). Phù Nam diệt vong.

Sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam (tr. 20) viết:

Sau một thời rực rỡ, đế quốc Phù Nam bắt đầu suy thoái vào cuối thế kỷ thứ 6. Nước Cát Miệt,[15] một thuộc quốc của Phù Nam, đến thế kỷ này đã nhanh chóng phát triển thành một vương quốc độc lập và hùng mạnh. Nhân sự suy yếu của Phù Nam, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy một phần lãnh thổ (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay) của đế chế này vào đầu thế kỷ 7...

Sách Tùy thư chép tương tự:

Nước Chân Lạp ở về phía Tây Nam nước Lâm Ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam.[16]

Sách Tân Đường thư do Âu Dương Tu & Tống Ký biên soạn cũng đã cho biết đầu niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627-649); trong nước Phù Nam có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về Na Phất Na.[17]

Căn cứ năm 627, sứ giả Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường, nên có thể suy ra nước Phù Nam bị tiêu diệt phải sau năm này.[18]

Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, trong sách Trung Quốc đã xuất hiện tên gọi Thủy Chân Lạp để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ (Việt Nam); và cũng để phân biệt với vùng đất Lục Chân Lạp, tức là vùng đất gốc của Vương quốc Chân Lạp.[19]

Mặc dầu chiếm đoạt được, nhưng trên thực tế, việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp gặp rất nhiều khó khăn. Trước hết, với truyền thống quen khai thác các vùng đất cao, dân số còn ít ỏi, người Khmer khi đó khó có khả năng tổ chức khai thác trên quy mô lớn một vùng đồng bằng mới bồi lấp, còn ngập nước và sình lầy. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Việc cai trị xứ Thủy Chân Lạp vì vậy vẫn phải giao cho những người thuộc dòng dõi Vua Phù Nam.

Theo những tài liệu bi ký còn lại có thể thấy rằng, vào thế kỷ thứ 8 tại vùng trung tâm của Phù Nam trước đây vẫn còn tồn tại một tiểu quốc tên là Aninditapura, do một người thuộc dòng dõi vua Phù Nam tên là Baladitya trị vì. Và khi Phù Nam tan rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ ở Đông Nam Á nổi lên thay thế vai trò đế quốc hàng hải của vương quốc này, mà nổi bật là vương quốc Srivijaya ở đảo Sumatra và vương quốc Sailendra ở đảo Java, thuộc Indonesia ngày nay.

Từ cuối thế kỷ 8, vương quốc Sailendra hùng mạnh đã xâm chiếm toàn bộ Thủy Chân Lạp đồng thời đưa Lục Chân Lạp vào vị trí chư hầu của mình, tới đầu thế kỷ 9, Sailendra suy yếu mới từ bỏ vùng đất Thủy Chân Lạp.

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Lịch sử ban đầu
    • 1.2 Tiếp xúc với Hồi giáo
    • 1.3 Sự sụp đổ
    • 1.4 Tại Việt Nam
    • 1.5 Tại Campuchia và những nơi khác
  • 2 Dân số và cư trú
    • 2.1 Cư trú ở Việt Nam
    • 2.2 Cư trú ở Campuchia và những nơi khác
  • 3 Tôn giáo - Tín ngưỡng
  • 4 Kinh tế
  • 5 Tổ chức cộng đồng
  • 6 Hôn nhân gia đình
  • 7 Nhà cửa
  • 8 Trang phục
    • 8.1 Trang phục nam
    • 8.2 Trang phục nữ
  • 9 Người Chăm nổi tiếng
  • 10 Xem thêm
  • 11 Chú thích
  • 12 Tham khảo
    • 12.1 Tiếng Việt
    • 12.2 Tiếng Anh và ngoại ngữ khác

Lịch sửSửa đổi

Chăm Pa (xanh lục) vào khoảng năm 1100

Người Chăm là một dân tộc đã từng có một quốc gia Chăm Pa độc lập trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển, và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt. Ở Việt Nam, người Chăm có mối liên hệ gần gũi với các dân tộc nói các tiếng cùng thuộc ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo như người Gia Rai, người Ê Đê, người Ra Glai và người Chu Ru. Bên ngoài Việt Nam, người Chăm có quan hệ gần gũi với người Mã Lai.

Trong một thời gian dài, các nhà nghiên cứu cho rằng người Chăm đã băng qua đường biển vào thiên niên kỷ đầu tiên TCN từ Malaysia và Indonesia (Sumatra và Borneo), cuối cùng định cư ở miền trung Việt Nam hiện đại.

Do đó, người Chăm gốc có khả năng là người thừa kế của các nhà hàng hải Nam Đảo từ Nam Á, những người có hoạt động chính là thương mại, vận tải và có lẽ cả cướp biển. Không hề hình thành một chế độ dân tộc nào để lại dấu vết trong các nguồn tài liệu viết, họ đã đầu tư các cảng ở đầu các tuyến đường thương mại quan trọng nối Ấn Độ, Trung Quốc và các đảo của Indonesia, sau đó, vào thế kỷ 2, họ thành lập vương quốc Chăm Pa, rồi để Việt Nam dần dần chiếm lấy lãnh thổ.

Các mô hình, niên đại di cư vẫn còn được tranh luận và người ta cho rằng người Chăm, nhóm dân tộc Nam Đảo duy nhất có nguồn gốc từ Nam Á, đến Đông Nam Á bán đảo muộn hơn qua Borneo. Đông Nam Á lục địa đã được cư trú trên các tuyến đường bộ bởi các thành viên của ngữ hệ Nam Á, chẳng hạn như người Môn và người Khmer khoảng 5.000 năm trước. Người Chăm là những người đi biển thành công của người Nam Đảo từ nhiều thế kỷ đã đông dân cư và sớm thống trị vùng biển Đông Nam Á. Những ghi chép sớm nhất được biết đến về sự hiện diện của người Chăm ở Đông Dương có từ thế kỷ 2 SCN. Các trung tâm dân cư xung quanh các cửa sông dọc theo bờ biển kiểm soát xuất nhập khẩu của lục địa Đông Nam Á, do đó thương mại hàng hải là bản chất của một nền kinh tế thịnh vượng.

Văn học dân gian Chăm bao gồm một huyền thoại sáng tạo, trong đó người sáng lập ra chính thể Chăm đầu tiên là Thiên Y A Na. Xuất thân từ một nông dân khiêm tốn ở đâu đó trên dãy núi Đại An, tỉnh Khánh Hòa, các linh hồn đã hỗ trợ bà khi bà đi du lịch Trung Quốc trên một khúc gỗ đàn hương trôi nổi, nơi bà kết hôn với một người đàn ông hoàng tộc và có hai người con. Cuối cùng, bà trở lại Chăm Pa để "làm nhiều việc thiện trong việc giúp đỡ người bệnh và người nghèo" và "một ngôi đền đã được dựng lên để vinh danh bà", ngày nay được biết đến là Tháp Po Nagar.

Lịch sử ban đầuSửa đổi

Người Chăm trang trí các ngôi đền của họ bằng những bức phù điêu bằng đá mô tả các vị thần như Garuda chiến đấu với Nāga (thế kỷ 12-13 SCN).

Người Chăm trang trí các ngôi đền của họ bằng những bức phù điêu bằng đá mô tả các vị thần như Garuda chiến đấu với Nāga từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 13 SCN

Giống như vô số các thực thể chính trị khác của Đông Nam Á, các chính quốc Champa đã trải qua quá trình Ấn hóa kể từ thời kỳ sơ khai do kết quả của nhiều thế kỷ tương tác kinh tế - xã hội được chấp nhận và giới thiệu các yếu tố văn hóa và thể chế của Ấn Độ. Từ thế kỷ thứ 8 trở đi, người Hồi giáo từ các vùng như Gujarat bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều trong thương mại và vận chuyển của Ấn Độ. Các ý tưởng Hồi giáo đã trở thành một phần của làn sóng trao đổi rộng lớn, đi trên con đường giống như Ấn Độ giáo và Phật giáo nhiều thế kỷ trước. Người Chăm đã tiếp thu những ý tưởng này vào thế kỷ 11. Có thể thấy điều này trong kiến ​​trúc của các ngôi đền Chăm, có những điểm tương đồng với kiến ​​trúc của các đền Angkor. Ad-Dimashqi viết vào năm 1325, "đất nước Champa ... là nơi sinh sống của người Hồi giáo và những người sùng bái thần tượng. Đạo Hồi đến đó vào thời Caliph Uthman ... và Ali, nhiều người Hồi giáo đã bị trục xuất bởi Umayyad và Hajjaj , bỏ trốn ở đó ".

Daoyi Zhilüe ghi lại rằng tại các cảng Chăm, phụ nữ Chăm thường kết hôn với các thương nhân Trung Quốc, những người thường xuyên quay lại với họ sau các chuyến đi buôn bán. Một thương nhân Trung Quốc từ Tuyền Châu, Wang Yuanmao, buôn bán rộng rãi với Chăm Pa và kết hôn với một công chúa người Chăm.

Thế kỷ 12, người Chăm đã chiến đấu với một loạt các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer ở ​​phía tây. Năm 1177, người Chăm và đồng minh của họ mở cuộc tấn công từ Biển Hồ và đánh chiếm kinh đô Angkor của người Khmer. Tuy nhiên, vào năm 1181, họ đã bị đánh bại bởi vua Khmer Jayavarman VII.

Tiếp xúc với Hồi giáoSửa đổi

Hình ảnh mô tả người Chăm trong cuốn bản thảo Boxer Codex từ năm 1590

Hồi giáo đến với Chăm Pa lần đầu tiên vào khoảng thế kỷ 9, song, nó không trở nên quan trọng trong cộng đồng người Chăm cho đến sau thế kỷ 11.

Người Chăm di cư đến Sulu được gọi là Orang Dampuan. Chăm Pa và Sulu giao dịch thương mại với nhau, dẫn đến việc các thương gia người Chăm đến định cư ở Sulu, nơi họ được gọi là Orang Dampuan từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 13. Những Orang Dampuan đã bị tàn sát bởi những người Sulu Buranun bản địa ghen tị do sự giàu có của Orang Dampuan. Buranun sau đó bị Orang Dampuan tàn sát trả đũa. Thương mại hài hòa giữa Sulu và Orang Dampuan sau đó đã được khôi phục. Người Yakans là hậu duệ của Orang Dampuan sống ở Taguima, người đã đến Sulu từ Chăm Pa. Sulu tiếp nhận nền văn minh ở dạng Indic từ Orang Dampuan.

Một số người Chăm cũng vượt biển sang bán đảo Mã Lai và ngay từ thế kỷ 15, một thuộc địa của người Chăm đã được thành lập ở Malacca. Người Chăm chạm trán với Hồi giáo Sunni ở đó vì Vương quốc Hồi giáo Malacca đã chính thức là Hồi giáo từ năm 1414. Vua Chăm Pa sau đó trở thành đồng minh củaVương quốc Hồi giáo Johor; vào năm 1594, Champa đã gửi lực lượng quân sự của mình để chiến đấu cùng với Johor chống lại sự chiếm đóng Malacca của người Bồ Đào Nha. Giữa năm 1607 và 1676, một trong những vị vua Chăm Pa đã cải sang đạo Hồi và nó trở thành một đặc điểm nổi trội của xã hội Chăm. Người Chăm cũng sử dụng bảng chữ cái Jawi.

Một người phụ nữ Chăm Hồi giáo ở Châu Đốc, Việt Nam

Các ghi chép lịch sử ở Indonesia cho thấy ảnh hưởng của Nữ hoàng Dwarawati, một công chúa Hồi giáo đến từ vương quốc Chăm Pa, đối với chồng của bà, Kertawijaya, vị vua thứ bảy của Đế chế Majapahit, đến nỗi hoàng gia của Đế chế Majapahit cuối cùng đã chuyển sang đạo Hồi, mà cuối cùng đã dẫn đến sự chuyển đổi sang Hồi giáo của toàn bộ khu vực. Ngôi mộ của công chúa Chăm Pa có thể được tìm thấy ở Trowulan, nơi đóng đô của Đế chế Majapahit. Trong Babad Tanah Jawii, người ta kể rằng vua Brawijaya V có một người vợ tên là Dewi Anarawati hay Dewi Dwarawat, một người con gái Hồi giáo của vua Chăm Pa. Người Chăm có quan hệ thương mại và văn hóa chặt chẽ với vương quốc hàng hải Srivijaya, và Majapahit sau đó ở Quần đảo Mã Lai.

Một nhân vật quan trọng khác của Chăm Pa trong lịch sử Hồi giáo ở Indonesia là Raden Rakhmathay hay Hoàng tử Rahma, người còn được gọi là Sunan Ampel, một trong những Wali Sanga (Chín vị thánh), người đã truyền bá đạo Hồi ở Java. Ông được xem như là tâm điểm của Wali Sanga, bởi vì một số người trong số họ thực sự là hậu duệ của ông và/hoặc học trò của ông. Cha của ông làMaulana Malik Ibrahimm còn được gọi là Ibrahim as-Samarkandy ("Ibrahim Asmarakandi" đối với taingười Java), và mẹ của ông là Dewi Candrawulan, một công chúa Chăm Pa cũng là em gái của Nữ hoàng Dwarawati. Sunan Ampel sinh ra ở Champa vào năm 1401 CN. Ông đến Java vào năm 1443 CN, để thăm dì là Hoàng hậu Dwarawati, một công chúa Chăm Pa, người đã kết hôn với Kertawijaya (Brawijaya V), vua của Đế chế Majapahit. Truyền thuyết địa phương nói rằng ông đã xây dựng Nhà thờ Hồi giáo vĩ đại của Demak (Masjid Agung Demak) vào năm 1479 CN, nhưng các truyền thuyết khác lại quy cho Sunan Kalijaga. Sunan Ampel qua đời ở Demak năm 1481 CN, nhưng được chôn cất tại Nhà thờ Hồi giáo Ampel ở Surabaya, Đông Java.

Sự sụp đổSửa đổi

Sự bành trướng mạnh mẽ của người Việt vào năm 1720 dẫn đến sự thôn tính hoàn toàn của vương quốc Chăm Pa vốn đã bị suy yếu và cuối cùng vương quốc đã bị tan rã vào thế kỷ 19 bởi Hoàng đế Việt Nam Minh Mạng. Để đối phó, vị vua Hồi giáo cuối cùng của Chăm Pa là Pô Chiên đã tập hợp dân chúng trong nội địa và chạy trốn xuống phía nam Campuchia, trong khi những người dọc theo bờ biển di cư đến Trengganu, Malaysia. Một nhóm nhỏ chạy về phía bắc đến đảo Hải Nam của Trung Quốc, nơi ngày nay họ được gọi là người Utsul. Nhà vua và những người tị nạn ở Campuchia sống rải rác trong các cộng đồng trên lưu vực sông Mê Kông. Những người ở lại các tỉnh Nha Trang, Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết của miền Trung Việt Nam đã được hòa nhập vào chính thể Việt Nam. Các tỉnh của người Chăm dần bị chúa Nguyễn đánh chiếm.

Sau khi Việt Nam xâm lược và chinh phục Chăm Pa, Campuchia đã cung cấp nơi ẩn náu cho những người Chăm Hồi giáo trốn thoát khỏi sự xâm chiếm của Việt Nam.

Năm 1832, Hoàng đế Việt Nam là Minh Mạng sát nhập phần lãnh thổ cuối cùng của vương quốc Chăm Pa. Điều này dẫn đến việc thủ lĩnh Hồi giáo Chăm Katip Suma, người được đào tạo ở Kelantan, tuyên bố một cuộc thánh chiến chống lại người Việt. Người Việt sau đó được cho rằng đã cưỡng bức người Chăm theo đạo Hồi phải ăn thằn lằn và thịt lợn và người Chăm theo đạo Ấn Độ phải ăn thịt bò nhằm chống lại ý muốn trừng phạt của họ và đồng hóa họ với văn hóa Việt Nam.

Chiêm Thành (xanh lục) trong khoảng thế kỷ 12.

Tại Việt NamSửa đổi

Trước thế kỷ 7, có một vương quốc tên Lâm Ấp của người Chăm, tồn tại từ năm Sơ Bình thứ 3 nhà Hán (192) đến năm Đại Nghiệp thứ 1 nhà Tùy (605). Sau năm 605, Lâm Ấp có nhiều thay đổi, đặc biệt là liên tục xây tháp Ân giáo và dựng bia tiếng Phạn, lịch sử bắt đầu được rõ ràng. Các tên gọi khác nhau của vương quốc này theo văn bia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ là Campapura, Campanagara, Nagara Campa, Nagar Cam. Còn sử sách Trung Quốc gọi là Lâm Ấp quốc, Hoàn Vương QuốcChiêm Thành quốc. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ đầu thế kỷ 15 sau cuộc can thiệp do quân đội nhà Minh trong thời vua Vĩnh Lạc Đế đối với ba triều đại là nhà Hậu Trần (Đại Việt), nhà Hồ (Đại Ngu) và triều đại Vijaya (Chiêm Thành).

Sau khi quân đội nhà Minh rút về, vương quốc Champa được phục hồi nhưng chia thành các tiểu vương quốc: Tiểu vương quốc Vijaya (Đồ Bàn: 1428-1471) và Tiểu vương quốc Panduranga (Phan Rang: 1433-1832).

Tiểu vương quốc Vijaya bị quân đội Đại Việt tiêu diệt vào thời vua Thánh Tông nhà Lê để thôn tính đất đai vào năm Hồng Đức thứ 2 (1471). Năm đó, tiểu vương quốc Panduranga cũng trở thành chư hầu của Đại Việt. Năm Chính Hòa thứ (1693), Nguyễn Hữu Cảnh đã một lần chinh phục Tiểu vương quốc Panduranga, đổi tên Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi đổi Thuận Thành trấn thành Bình Thuận phủ. Tuy nhiên, năm 1694, trong khi Nguyễn Hữu Cảnh tây chinh đánh Campuchia, tướng người Chăm tên Ốc Nha Đạt và tướng người Thanh tên A Ban đã tập hợp được đông đảo lực lượng người Chăm, nổi dậy và tiêu diệt toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn tại đây. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã bất đắc dĩ phải cầu hòa với người Champa và cho phép người Chăm phục hồi Thuận Thành trấn (Khu tự trị Chăm Pa). Hòa ước giữa chúa Nguyễn và Chăm Pa được ghi rõ trong "Nghị định Ngũ điều" vào năm Vĩnh Thạnh thứ 8 (1712) và được duy trì cho đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Sau giải thể khu tự trị vào năm 1832, một số người Chăm liên minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để phục hồi Thuận Thành trấn nhưng kết thúc thất bại. Hậu duệ của vua Chăm Pa có Dụng Gạch (Bo Gait, Bộ Gạch), một vị hoàng tử anh hùng, giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính lâm thời huyện Hòa Đa (huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận ngày nay) phụ trách khu vực miền núi sau Cách mạng tháng Tám.

Phù điêu mô tả thủy chiến giữa người Chăm và người Khmer ở đền Bayon.

Chăm Pa thừa kế Lâm Ấp được thành lập sau cuộc nổi dậy của một viên quan địa phương (quan Công Tao) tên là Khu Liên (Kiu-lien) chống lại chính quyền nhà Hán năm 192 tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam (ngày nay là Huế). Lãnh thổ của Chăm Pa ngày nay thuộc thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, khu vực bắc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và vùng Tây Nguyên, tỉnh Salavan và một số nơi của Lào. Lâm Ấp chịu ảnh hưởng lớn văn hóa và tôn giáo Trung Quốc nhưng sau các cuộc chiến với quốc gia láng giềng Phù Nam, cũng như sự thôn tính lãnh thổ của quốc gia này vào thế kỷ 4, đã hòa trộn văn hóa Ấn Độ. Theo văn bia tiếng Phạn tại Mỹ Sơn, vua Chăm Pa và vua Campuchia đều là hậu duệ của hoàng tử Asvattaman, một anh hùng lưu vong bạc mệnh trong sử thi Ấn Độ Mahabarata thuộc nhà Kuru. Riêng các vị chúa Panduranga thì thuộc dòng Pandu nên Champa (Vijaya, thuộc nhà Kuru) và Panduranga (thuộc nhà Pandu) vốn là hai quốc gia thù địch với nhau. Sử sách Trung Quốc luôn ghi rõ hai nước Chiêm Thành (Chăm Pa) và Tân Đồng Long (Panduranga) là hai quốc gia riêng.

Lịch sử của vương quốc Champa là các cuộc xung đột với Trung Quốc, Đại Việt, Khmer và Mông Cổ, cũng như xung đột nội bộ. Chính là do các cuộc xung đột này mà Chăm Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một quốc gia có tổ chức chính quyền và quân sự tốt hơn. Chăm Pa trong quá khứ là một nước chư hầu của các triều đại phong kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa và sự toàn vẹn lãnh thổ. Người Chăm là những chiến binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để chiếm ưu thế. Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), tiểu vương quốc Vijaya chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông. Khoảng 60.000 quân Chăm bị giết và 30.000 quân bị bắt làm tù binh. Sau đó, tiểu vương quốc Panduranga tiếp tục tồn tại dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua Gia Long trong bốn đạo: đạo Panrang (đạo Phan Rang tức tỉnh Ninh Thuận), đạo Kraong (đạo Long Hương hay đạo Liên Hương tức huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận), đạo Parik (đạo Phan Rí tức huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) và đạo Pạjai (đạo Phố Hài, huyện Hàm Thuận Bắc - Hàm Thuận Nam - Hàm Tân và thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận). Đến thời vua Minh Mạng, Khu tự trị Thuận Thành đã bị xóa sổ và trở thành phủ Ninh Thuận.

Tại Campuchia và những nơi khácSửa đổi

Tương tự như quốc gia của người Việt ở phía Bắc, người Chăm có lịch sử tiếp xúc và định cư lâu đời ở quốc gia Chân Lạp của người Khmer ở phía Nam. Tại Chân Lạp, từ lâu đã có cộng đồng người gốc Mã Lai, Java sang sinh sống. Do tương đồng trong ngôn ngữ và tôn giáo, người Chăm từ lãnh thổ Chăm Pa đã cộng cư với người gốc Mã Lai ở Chân Lạp.

Năm 774, vương triều Sailendra ở đảo Java, Indonesia mạnh lên đã tấn công vương quốc Chân Lạp, chiếm được kinh đô Sambhupura và đẩy đất nước này tới hồi diệt vong. Đầu thế kỷ thứ 9, vua Khmer là Jayavarman II mới giải phóng được đất nước, khởi đầu một đế chế hùng mạnh ở Đông Nam Á là Đế quốc Khmer (802-1434).

Từ những năm 944 và 945, quân Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara của người Chăm.[8] Năm 1080, quân đội Khmer lại tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Chăm Pa.[9] Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người đã xây dựng Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và chiếm toàn bộ miền Bắc Chăm Pa.[10].

Năm 1170, vua Chăm là Jaya Indravarman đã tiến đánh Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ lớn Tonle Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm[11]. Vua Khmer là Jayavarman VII đã đẩy lùi quân Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Và tới năm 1203, quân Khmer chiếm được kinh đô Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220[12]. Thất bại năm 1471 đã dẫn đến việc nhiều làn sóng người Chăm di cư sang Campuchia và các quốc gia khác như Malacca. Cộng đồng người Chăm và người Hồi giáo gốc Mã Lai, Java ở Campuchia nhờ đó mà gia tăng thế lực.[13]

Năm 1594, chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca[14]. Cùng lúc này, quân Ayutthaya một lần nữa đánh bại Chân Lạp, tàn phá kinh đô Lovek. Các thế lực người Chăm, Mã Lai, Java và ngoại quốc như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan tranh nhau giành ảnh hưởng tại Campuchia. Nhiều nhóm người gốc Chăm Mã Lai còn ám sát cả các vua Chân Lạp.[15]

Từ năm 1642, tại Campuchia, một vị vua tên Nặc Ông Chân đổi sang Hồi giáo và xưng là Sultan Ibrahim (1642-1659). Nặc Ông Chân tin dùng và ưu ái người Chăm Mã Lai, gây bất bình với người Khmer trong nước. Năm 1659, Nặc Ông Chân bị chúa Nguyễn đánh bại, một lượng lớn người Chăm và Mã Lai ở Chân Lạp bỏ chạy sang Ayutthaya tị nạn, tạo thành một cộng đồng người gốc Chăm Pa ở Xiêm. Năm 1672, vua Chân Lạp là Chey Chetta III lại bị một nhóm Chăm Mã Lai sát hại.[16][17]

Năm 1692, chúa Nguyễn chinh phạt tiểu quốc Panduranga khiến một hoàng thân tên Po Chongchan (Po Choncăin) dẫn theo gia quyến và hơn 5.000 người Chăm bỏ sang Campuchia tị nạn. Những nhóm người này được Chính vương Chey Chettha IV cho định cư dọc xung quanh kinh đô Oudong, bên bờ sông Mê Kông. Người Chăm Mã Lai tiếp tục được triều đình Chân Lạp sử dụng làm quân binh hầu cận.[18][19] Năm 1747, vua Chân Lạp là Chey Chettha VII (1709-1755) chống đối chúa Nguyễn và hay ức hiếp người Côn Man (người Chăm, Mã Lai). Năm 1755, Nguyễn Cư Trinh đón hơn 5.000 trai gái dân Côn Man về trú dưới chân núi Bà Đinh (Bà Đen). Từ đây đã đánh dấu gia đoạn "hồi hương" của những nhóm người Chăm từ Chân Lạp về lại lãnh thổ Đàng Trong.

Vào năm 1796, một thủ lĩnh người Chăm từng sống ở Kedah tên Tuan Phaow (Đồng Phù, Toàn Phù) cùng một tù trưởng khác là Tăng Mã, thừa dịp chúa Nguyễn bận công kích nhà Tây Sơn, xách động một cuộc bạo loạn nhằm khôi phục quyền tự trị hoàn toàn cho Panduranga, nhưng cũng bị Po Saong Nyung Ceng dẹp tan. Có ý kiến cho rằng Tuan Phaow trốn chạy sang Campuchia với tên Tuon Set Asmit và được vua Ang Eng thu dùng, cho làm tỉnh trưởng Tbong Khmum.[20] Tuan Phaow sau đó làm tới chức Tể tướng dưới triều vua Ang Chan II với tên gọi Chiêu Chùy[21] Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha). Năm 1820, Đồng Phù bị phát hiện thân phận và bị triều đình nhà Nguyễn xử tử.[20] Tuy nhiên, xét theo Đại Nam thực lục và liệt truyện, Tuan Phaow có thể không phải là vị Tể tướng gốc Chăm tên Tôn La Ca Đồng Phù thời vua Ang Chan II. Việc xử tử Đồng Phù là do Ang Chan II nhờ triều Nguyễn bắt giúp để trị tội đại nghịch vô đạo với vua Chân Lạp.[22][23]

Năm 1783, hai vị quan Chân Lạp là Ốc nha Nhum Rạch Bèn[24] (Thượng thư bộ Hình) và Ốc nha Cao La Hâm Sưu (Suos)[25] (Thượng thư bộ Thủy Hải quân, Samdach Chau Phraya Kalahom) từ nước Xiêm trở về bắt và giết vị Chiêu Chùy (Tể tướng) thân Đàng Trong là Mô. Nhum Rạch Bèn sau đó lại mâu thuẫn và giết cả và Cao La Hâm Sưu. Hay tin Cao La Hâm Sưu bị giết, thủ lĩnh người Chăm Mã Lai (Đồ Bà, Java) là Toàn Sét[26] Cháu Voi Vuốt (hoặc Doun Set từ tỉnh Tbong Khmum) khởi loạn, tiến đánh Oudong, Nam Vang. Doun Set sau đó tự xưng thủ lĩnh ở Oudong và sắp đặt quân gốc Chăm Malay chốt giữ Chroy Changva và Phnom Penh.[27] Năm Giáp Dần (1784), Chao Phraya Abhaya Bhubet giết được Toàn Sét (Doun Set), viện binh của Xiêm La quét sạch luôn bè đảng quân Đồ Bà.[28]

Năm 1793, phiên vương Thuận Thành trấn là Po Tisuntiraidapuran (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Tá/阮文佐) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại. Một vị hoàng thân Chăm là Po Krei Brei (Nguyễn Văn Chiêu) đưa gia quyến bỏ sang tỉnh Tbong Khmum của Chân Lạp định cư. Lần này, người Chăm từ Việt Nam chạy sang Campuchia tị nạn rất đông.[29] Po Krei Brei được cộng đồng Hồi giáo Tbong Khmum và Kampong Cham suy tôn là thủy tổ của mình.[30]

Năm 1794, vua Chân Lạp là Ang Eng lên ngôi và sau đó tin dùng các nhóm lính người Chăm Mã Lai. Một người Mã Lai tên Tuon Set Asmit (Tuon Pha, Tuen Phaow) được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Tbong Khmum.[31] Đến thời vua Ang Chan II, nhiều người gốc Chăm Mã Lai giữ chức cao trong triều đình Chân Lạp như Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha) giữ chức Tể tướng, Samdech Chau Ponhea Tei (Tham đích Tây, Tham đích Châu Bôn Nha) nắm quân đội.

Năm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can-Po Chơn), vị vua cuối cùng của Chăm Pa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia.[32]

Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua Chân Lạp Ang Chan II mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về tay các quan Trà Long[33] và La Kiên[34]. Người Chăm Mã Lai ở Chân Lạp được nhà Nguyễn tin dùng. Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương cho sắp xếp quân đội để bảo hộ Chân Lạp, trong đó: lựa lấy thổ binh người Chàm (dòng dõi người Thuận Hoá), người Chà (dòng giống Chà Và cư trú đất Phiên)[35] xếp làm hai cơ An Man Nhất và An Man Nhị. Mỗi cơ mười đội, mỗi đội 50 người. Dùng người đầu mục là Hu Khiêm làm Suất cơ cơ An Man Nhất, Đỗ Cố làm Phó suất cơ, Tôn Ly làm Suất cơ cơ An Man Nhị, Hàn Ông làm Phó suất cơ. Sai họ chiêu tập cho đủ số, để phòng khi có việc sẽ trưng dụng. Tới năm 1835, khi lập Trấn Tây thành, nhà Nguyễn đặt quân Chăm Mã Lai làm ba cơ, Nhất, Nhị, Tam (dân Chàm 823 người làm cơ cơ An man Nhất và Nhị; dân Chà Và 223 người làm cơ An man Tam).[36] Ba cơ An Man này của người Chăm Mã Lai được nhà Nguyễn khen ngợi "chỉ biết hướng mộ triều đình, ra sức bắt giặc, trước sau sai phái, không khác lính Kinh". Khen thưởng Cai đội cơ Nhất sung Quản cơ là Vũ Khiêm (Hu Khiêm), Cai đội cơ Nhị sung Quản cơ là Tôn Ly, đều thưởng thụ Phó quản cơ, thí sai Quản cơ, Chánh đội trưởng cơ Tam sung Phó quản cơ là Đào Kim thưởng thụ Cai đội, thí sai Phó quản cơ. Tuy nhiên, việc ưu ái người Chăm Mã Lai của nhà Nguyễn cũng khiến họ bị người Khmer bản địa nghi kỵ, ganh gét và xua đuổi.[36]

Cùng năm 1834, mùa đông, tháng 12, hơn 30 sách người Mán Chàm ở gần thành Quang Hoá thuộc Gia Định (nay là tỉnh Tây Ninh), tình nguyện xin phụ thuộc vào Đại Nam.[36]

Từ năm 1847, quân Nguyễn rút khỏi Chân Lạp, vua Ang Dương lên nắm quyền ở Campuhia. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), người Chàm là Chàm Ôn, Chàm Núi trước đây bị thổ phỉ bắt hiếp xua dồn đi, nay mang gia quyến xin về châu Quang Hoá (nay là Tây Ninh) dựng nhà ở. Năm 1857, đầu mục người Chàm là Ả và Ôn ở hai xã Đông Tác, Tây Thành, phủ Tây Ninh thuộc Gia Định lại về lập ấp.[36]

Năm 1858, một số cuộc nổi dậy nổ ra như người Khmer ở gần biên giới Tây Ninh và đặc biệt là người Chăm Mã Lai ở Tbuong Kmoum. Người Chăm Mã Lai nổi dậy dưới sự kêu gọi của các thủ lĩnh Tuon-Him (Tôn Hiên), Tuon-Su (Tôn Ca?) và Tuon-it (Tôn Ích). Hàng nghìn người Chăm Mã Lai chạy sang Châu Đốc tỵ nạn.[36][37]