Tỉ số giới tính là gì

Một trong những chỉ số quan trọng được Tổng cục Thống kê tiến hành điều tra trong cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là Tỷ số giới tính khi sinh - SRB (Chỉ số SRB phản ánh cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra. Tỷ số này thông thường là 104-106 bé trai/100 bé gái sinh ra sống). Bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào của SRB chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can thiệp có chủ ý và sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn định dân số của quốc gia và toàn cầu.

Theo Tổng cục Thống kê, SRB của Việt Nam có xu hướng tăng hơn so với mức sinh học tự nhiên từ năm 2006 đến nay, đưa ra bằng chứng về mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam. Trong đó, SRB năm 2019 giảm so với năm 2018 nhưng vẫn ở mức cao (năm 2018: 114,8 bé trai/100 bé gái; năm 2019: 111,5 bé trai/100 bé gái).

Sự gia tăng bất thường về SRB của Việt Nam trong những năm gần đây đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập chính sách. Theo đó, những cảnh báo về hệ lụy của sự mất cân bằng giới tính khi sinh và sự quyết liệt thực hiện các chính sách nhằm xóa bỏ sự can thiệp có chủ đích trong lựa chọn giới tính khi mang thai ở Việt Nam trong thời gian qua chưa đem lại hiệu quả; tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh chưa được khắc phục.

Kết quả điều tra cho thấy, SRB của khu vực thành thị thấp hơn nông thôn, tương ứng là 110,8 và 111,8 bé trai/100 bé gái. SRB giữa các vùng có sự chênh lệch đáng kể, SRB cao nhất ở Đồng bằng sông Hồng (115,5 bé trai/100 bé gái) và thấp nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long (106,9 bé trai/100 bé gái). Sự khác biệt của SRB giữa khu vực thành thị và nông thôn thuộc Đồng bằng sông Hồng cũng cao nhất cả nước.

SRB của Trung du và miền núi phía Bắc năm 2009 là 108,5 bé trai/100 bé gái, tăng lên 114,2 bé trai/100 bé gái năm 2019. SRB của Đồng bằng sông Hồng năm 2009 là 115,3 bé trai/100 bé gái, tăng nhẹ lên 115,5 bé trai/100 bé gái năm 2019. Qua 10 năm, mức tăng SRB của Trung du và miền núi phía Bắc nhiều hơn mức tăng SRB của Đồng bằng sông Hồng.

Có thể thấy, mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là do một số nguyên nhân như: Sự ưa thích sinh con trai trong bối cảnh giảm sinh, văn hóa Nho giáo với phong tục về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên cũng như đánh giá thấp giá trị của nữ giới trong gia đình và xã hội tại mỗi vùng, miền và việc tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng hơn trong lựa chọn giới tính thai nhi khi mang thai hoặc chuẩn đoán giới tính thai nhi dẫn tới nạo phá thai vì lý do lựa chọn giới tính,…

Việc lựa chọn giới tính trước khi sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới sâu sắc. Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy tới cấu trúc gia đình và các vấn đề xã hội trong tương lai của tình trạng mất cân bằng giới tính hiện nay, tình trạng thiếu hụt số trẻ em gái quan sát được gần đây ở nhiều quốc gia sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả các nhóm tuổi trong tương lai.

Tổng cục Thống kê nhận định, cấu trúc dân số trong những thập kỷ tới sẽ mang dấu ấn của việc lựa chọn giới tính hiện tại, với quy mô dân số nam vượt trội trong một thời gian dài. Theo các nhà khoa học xã hội, tác động chính của hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ liên quan tới quá trình hình thành và cấu trúc gia đình, đặc biệt là hệ thống hôn nhân.

Nam giới trẻ tuổi sẽ bị dư thừa so với nữ do tỷ lệ nữ giới đang giảm dần trong cùng một thế hệ và kết quả là họ có thể phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi tìm kiếm bạn đời. Trì hoãn hôn nhân trong nam giới hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc thân là những khả năng có thể xảy ra trong tương lai do tình trạng thiếu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn. Điều này sẽ tác động ngược lại hệ thống gia đình trong tương lai.

Lựa chọn giới tính trước khi sinh là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh. Do đó, số liệu theo dõi các diễn biến của SRB là cần thiết, nhằm đưa ra các can thiệp kịp thời về chính sách và chương trình.

Tổng cục Thống kê cho biết, nghiên cứu và đưa ra những nhận định, đánh giá về thực trạng mức sinh tại Việt Nam, trong đó đặc biệt là trước thực trạng về SRB, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm đến vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Do đó, tại Hội nghị lần thứ sáu, Khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ “Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng” và đặt mục tiêu “đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên”, “Đến năm 2030: Tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống”. Chỉ đạo của Đảng về mục tiêu đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên đã được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện thông qua Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030./.

SKĐS - Tác động của sự chênh lệch tỷ số giới tính khi sinh sẽ không dễ nhận thấy ngay, nhưng những năm tiếp theo sau sẽ gây ra tình trạng "nam thừa, nữ thiếu", theo đó xuất hiện hàng loạt các vấn đề thách thức lớn. Vậy cần làm gì để giải quyết thực trạng này?

Báo động mất cân bằng giới tính

Tỉ số giới tính khi sinh (chỉ số phản ánh cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra ở mức sinh học bình thường là từ 104 - 107 trẻ em nam/100 trẻ em gái). Tuy nhiên theo số liệu từ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tỉ số giới tính khi sinh của Việt Nam là 111,5 trẻ em trai/100 trẻ em gái được sinh ra. Con số này cho thấy mức độ mất cân bằng giới tính tại nước ta rất cao.

Theo đó, tỷ số giới tính khi sinh của các vùng có sự chênh lệch đáng kể, khu vực thành thị thấp hơn nông thôn.

Tỉ số giới tính là gì

Có những hành động thiết thực bảo vệ trẻ em gái để các em sinh ra được bình đẳng…

Mới đây, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3671/QĐ-BYT ngày 2/8/2021 về danh sách tỉnh, thành phố thuộc các vùng theo tỷ số giới tính khi sinh sử dụng để xây dựng đề án kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2021-2025.

Theo đó, có 21 tỉnh có tỷ lệ giới tính khi sinh trên 112 bé trai/100 bé gái; 18 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh từ 109-112 bé trai/100 bé gái. Trong đó, có Sơn La có tỷ lệ giới tính là 118,2 bé trai/100 bé gái; tỉnh Hưng Yên 118,1 bé trai/100 bé gái; tỉnh Bắc Ninh 117,7 bé trai/100 bé gái, Hà Nội 113 bé trai/100 bé gái…

  • Dự báo năm 2034, sẽ thừa 1,5 triệu nam giới do mất cân bằng giới tính khi sinh

  • Nhiều hậu quả khôn lường từ mất cân bằng giới tính khi sinh, tiếp tục nâng cao nhận thức cho người dân

Nguyên nhân của mất cân bằng giới tính khi sinh, một phần là do tâm lý ưa thích con trai, phong tục muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra, quan niệm của nhiều người vẫn đánh giá thấp giá trị của nữ giới trong gia đình và xã hội. Đồng thời, càng ngày việc tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng hơn trong lựa chọn giới tính thai nhi khi mang thai…

Cần đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên

Trước tình hình này, ngày 23/3/2016, Thủ tưởng Chính phủ ban hành Quyết định số 468/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016-2025.

Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành tại Hội nghị lần thứ VI, Khóa XII. Trong đó nêu rõ: Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng. Đồng thời đặt mục tiêu đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, và yêu cầu đến năm 2030, tỷ số giới tính khi sinh phải đạt dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.

Quan điểm và các mục tiêu chỉ đạo của Đảng đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên đã được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện thông qua Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030.

Tỉ số giới tính là gì

Cần đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên.

Thực hiện đúng quan điểm và các mục tiêu đã đề ra, chúng ta cần:

- Tuyên truyền nâng cao nhận thức của mọi người về hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh. Thực hiện giáo dục về giới, bình đẳng giới; Tổ chức rộng rãi các hội thảo, các chuyên đề, sự kiện truyền thông về mất cân bằng giới tính khi sinh.

- Thực hiện các điều luật nghiêm cấm sử dụng công nghệ trong xác định giới tính thai nhi và đình chỉ thai nghén.

- Tuyên truyền, phổ biến những quy định pháp luật, chính sách… liên quan đến bình đẳng giới

- Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

- Nâng cao địa vị phụ nữ, trẻ em gái trong xã hội, xây dựng các chuẩn mực, giá trị xã hội phù hợp, từng bước khắc phục tư tưởng trọng nam, khinh nữ.

- Khuyến khích sự tham gia của nam giới trong các hoạt động bình đẳng giới.

- Tuyên truyền về giá trị của trẻ em gái, có những hành động thiết thực bảo vệ trẻ em gái để các em sinh ra được bình đẳng…

Để đạt được những mục tiêu này, đòi hỏi sự chung tay, nỗ lực của mỗi cá nhân, của toàn thể xã hội và cả hệ thống chính trị.