Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý được thể hiện như thế nào

đề cương tâm lý học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.26 KB, 31 trang )

Câu 1: Bản chất hiện tượng tâm lý người theo quan điểm duy vật biện chứng (Phân tích nội dung và nêu ý
nghĩa của 3 luận điểm).
1. Tâm lí người: Trong tâm lí học Tâm lí là những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn
liền và điều hành mọi hành vi, hoạt động của con người.
2. Bản chất của hiện tượng tâm lí người theo quan điểm duy vật biện chứng
Theo quan điểm duy vật biện chứng: Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông
qua chủ thể và mang tính chủ thể, tâm lý người mang bản chất xã hội – lịch sử
• Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua hoạt động của mỗi
người
 Phản ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống khác, kết quả là để lại dấu vết
(hình ảnh) tác động ở cả hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác động.
- Phản ánh vật lí: là phản ánh của những vật không sống
VD: viên phấn viết lên bảng thì viên phấn mòn đi còn bảng có dấu phấn in
- Phản ánh sinh vật: là phản ánh của những vật chất sống chưa có hệ thần kinh phát triển (amip, cây
xấu hổ)
VD: hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời mọc. Cây xương rồng sống được ở những nơi có khí hậu
khô hạn là nhờ những thay đổi trong cấu trúc sinh trưởng và phát triển của cây,những chiếc lá dần thu nhỏ lại
thành những chiếc gai.Từ đó giúp cây chống mất nước và thích nghi với môi trường khắc nghiệt.
- Phản ánh tâm lí: là hình thức phản ánh của vật chất sống có hệ thần kinh phát triển. Đó là kết quả của
sự tác động của hiện thực khách quan vào não người và do não tiến hành.
 Vai trò của HTKQ và não:
- HTKQ là nguồn gốc làm nảy sinh ra tâm lý. Khi một sự vật, hiện tượng nào đó trong hiện thực khách quan tác
động vào ta, não làm nảy sinh hỉnh ảnh về sự vật, hiện tượng đó trong óc con người và một phản ánh tâm lý
được diễn ra. Đồng thời, HTKQ chính là nội dung phản ánh của tâm lý.
VD: Khi chúng ta nhìn một bức tranh đẹp sau khi nhắm mắt lại chúng ta vẫn có thể hình dung lại nội dung của
bức tranh đó.
Khi ta nhắm mắt ta sờ vào một vật gì đó như hòn bi, sau khi cất đi chúng ta vẫn có thể mô tả lại hình dạng của
hòn bi đó.
- Não bộ đóng vai trò là cơ sở vật chất, thực hiện chức năng phản ánh HTKQ để tạo ra các hình ảnh tâm lý
 Điều kiện cần và đủ để có được tâm lý ngườu là phải có HTKQ và não người bình thường. Nếu thiếu 1
trong 2 yếu tố trên thì không có được tâm lý người.


Hiện thực khách quan (Tác động)  Não người bình thường  hỉnh ảnh tâm lý
(Nguồn gốc) (Cơ sở vật chất)
- Thông qua hoạt động của não bộ dưới tác động của HTKQ phản ánh tâm lý thực chất là quá trình cải tạo thế
giới khách quan trong não người
 Càng hăng hái tích cực tham gia các hoạt động phong phú đa dạng trong cuộc sống thì tâm lý của cá nhân
càng phát triển. Đồng thời phải biết bảo vệ và giữ gìn bộ não, có chế độ hoạt động và nghĩ ngơi hợp lý
• Tâm lý người mang tính chủ thể
- Tính chủ thể: Hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Hình ảnh tâm lý do con
người tạo ra, mang màu sắc cá nhân. Do con người trong quá trình phản ánh đã đưa cái riêng của mình
vào trong đó làm cho hình ảnh tâm lý mang đậm màu sắc chủ quan.
- Biểu hiện
+ Cùng nhận sự tác động của cùng một sự vật, hiện tượng nhưng ở những chủ thể khác nhau sẽ cho ta
những hình ảnh tâm lý với những mức độ sắc thái khác nhau.
VD: Cùng trong một tiếng tơ đồng.
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Hạnh Ngô – PR32
Cùng xem một bức tranh sẻ có kẻ khen người chê khác nhau.
+ Cùng một sự vật, hiện tượng tác động đến 1 chủ thể duy nhất vào những thời điểm khác nhau, vào
những hoàn cảnh khác nhau với trạng thái cơ thể tinh thần khác nhau có thể cho ta những hình ảnh tâm
lý khác nhau
Ví dụ: Cùng một câu nói đùa nhưng tùy vào hoàn cảnh câu nói đó sẻ gây cười hay sẻ gây sự tức giận cho người
khác.
Hay : Chồng giận thì vợ bớt lời.
Cơm sôi bớt lửa chẳng rơi hạt nào.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
VD: Một người ăn xin đến xin tiền một người đàn ông,nhưng người đàn ông này đang trong trạng thái giận dữ,
không vui vẻ thì chắc chắn người đàn ông này không cho và bỏ đi.Nhưng cũng với người ăn xin đó đến xin tiền
một người khác.Người này đang vui vẻ,tâm trạng thoải mái cùng với tấm lòng thương người thì người này sẽ
nhìn người ăn xin đó với ánh mắt đồng cảm và sẽ giúp đỡ người ăn xin đó

- Nguyên nhân có sự khác biệt đó là do:
+ Mỗi người có đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não bộ.
+ Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục không như nhau.
+ Đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong cuộc sống dẫn
đến tâm lí của người này khác với tâm lí của người kia.
- Ý nghĩa
+ Vì tâm lý mang tính chủ thể, mỗi con người đều có cái riêng của mình, vì vậy trong quan hệ ứng xử
cũng như trong giáo dục, cần biết tôn trọng ý kiến của người khác.
+ Trong ứng xử cần phải chú ý đến nguyên tắc sát đối tượng, đặt mình vào hoàn cảnh của đối tượng,
hiểu đối tượng, không áp đặt đối tượng suy nghĩ và hành động như mình
+ Trong giáo dục cần chú ý đến tính cá biệt của các học sinh, nhìn nhận đánh giá con người trong quan
điểm vận động, phát triển không ngừng.
Tác động

dẫn đến
• Tâm lí người mang bản chất xã hội và tính lịch sử
 Tâm lý người mang bản chất xã hội: bản chất xã hội của tâm lý người được thể hiện ở chỗ tâm lý
người có nguồn gốc xã hội và mang nội dung xã hội
- Thế giới khách quan tồn tại xung quanh chúng ta bao gồm cả thế giới tự nhiên và môi trường xã hội. Trong đó,
môi trường xã hội là quyết định tâm lí con người, thể hiện qua: các mối quan hệ kinh tế-xã hội, đạo đức, pháp
quyền, mối quan hệ con người-con người, từ quan hệ gia đình, làng xóm, quê hương, quan hệ cộng đồng, nhóm,
…Các mối quan hệ trên quyết định bản chất tâm lí con người (như Mark nói: bản chất con người là tổng hòa
các mối quan hệ xã hội). Trên thực tế, nếu con người thoát li khỏi các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa con
người với con người thì tâm lí người sẽ mất bản tính người.
Ví dụ: Rochom P’ngieng mất tích năm 1989 khi đi chăn trâu. Sau 18 năm, Rochom được tìm thấy khi trên
người không mặc quần áo và di chuyển như một con khỉ nói chuyện hay giao tiếp mà chỉ phát ra những tiếng gừ
gừ, những âm thanh vô nghĩa, không thể hòa nhập vào cuộc sống con người. Từ đó có thể thấy tâm lí người chỉ
Hạnh Ngô – PR32
Hình ảnh,
phản ánh

tâm lí
khác
nhau.
các chủ thể
khác nhau
1HTKQ
cùng 1 chủ thể
nhưng ở các thời
điểm, hoàn cảnh,
trạng thái,…khác
nhau.
hình thành khi có điều kiện cần và đủ là sự tác động của hiện thực khách quan lên não người bình thường và
phải có hoạt động và giao tiếp.
- Thông qua hoạt động và giao tiếp, con người đã thu thập được vô vàn kinh nghiệm, tri thức về mọi mặt cuộc
sống. Mỗi người lĩnh hội kinh nghiệm và tri thức chung của loài người biến thành vốn sống, kinh nghiệm, tri
thức của riêng mình, tức là tạo nên tâm lý của bản thân.
Ví dụ: Một đứa trẻ khi sinh ra chúng như một trang giấy trắng, nhưng sau một thời gian được bố mẹ chăm sóc,
dạy dỗ, được tiếp xúc với nhiều người thì nó ngày càng học hỏi, lĩnh hội, tiếp thu và hiểu biết nhiều hơn về mọi
việc xung quanh.
Trải biến nhiều thì lo nghĩ sâu
Tính toán xa thì thành công lớn (Nguyễn Trãi)
- Con người càng hăng hái, tích cực chủ động tham gia các hoạt động đa dạng và các mối quan hệ xã hội phong
phú thì tâm lý càng phát triển
- Muốn cải tạo, thay đổi những tính cách tâm lý không phù hợp thì chúng ta cần phải thay đổi môi trường sống,
môi trường xã hội để có được những tâm lý lành mạnh
 Tâm lý người mang tính lịch sử
Tâm lý hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng
đồng.
- Khi xã hội vận động và biến đổi thì tâm lý của con người cũng vận động và biến đổi theo
- Có những nét tâm lý đã được hình thành không hoàn toàn mất đi mà để lại những dấu ấn nhất định

trong mỗi người và mỗi thế hệ
VD: Trước đây thì xã hội rất định kiến về việc có thai trước khi cưới nhưng bây giờ xã hội biến đổi, sống phóng
túng hơn nên con người xem vấn đề đó là bình thường.
VD: Lòng yêu nước của mỗi người Việt Nam không bao giờ mất đi dù trong thời chiến tranh hay thời bình.
3. Kết luận sư phạm
- Tâm lý có nguồn gốc từ thế giới khách quan vì thế muốn nghiên cứu hay hoàn thiện, cải tạo tâm lí
người cần phải nghiên cứu hoàn cảnh lịch sử, điều kiện sống,…của con người.
- Cần chú ý nghiên cứu sát đối tượng, chú ý đặc điểm riêng của từng cá nhân.
- Tâm lý là sản phẩm của hoat động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt động và các quan hệ giao tiếp
để nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm lí con người.
- Chú ý giáo dục thể chất, phát triển não bộ và các giác quan.
- Tâm lý người mang tính chủ thể, vì thế trong dạy học, giáo dục cũng như trong quan hệ ứng xử phải
chú ý đến nguyên tắc sát đối tượng, nhìn nhận học sinh theo quan điểm phát triển, tôn trọng đặc điểm
lứa tuổi.
- Tôn trọng ý kiến, quan điểm của từng chủ thể.
- Khi nghiên cứu các môi trường xã hội quan hệ xã hội để hình thành và phát triển tâm lý cần tổ chức có
hiệu quả hoạt động đa dạng của từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau, giúp cho con người lĩnh hội nền
văn hóa xã hội để hình thành và phát triển tâm lý con người; phải tìm hiểu nguồn gốc của họ; tìm hiểu
đặc điểm của vùng mà người đó sống.
Câu 2: Bằng dẫn chứng cụ thể hãy chứng minh rằng: Tâm lý người được hình thành, bộc lộ và phát triển
thông qua hoạt động và giao tiếp.
• Tâm lý người được hình thành, bộc lộ và phát triển thông qua hoạt động
Hạnh Ngô – PR32
- Hoạt động là phương thức tồn tại của con người trong thế giới. Hoạt động tạo nên mối quan hệ tác động qua
lại giữa con người với thế giới khách quan và với chính bản thân mình, qua đó tạo ra sản phẩm cả về phía thế
giới (khách thể), cả về phía con người (chủ thể).
- Hoạt động đóng vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân thông qua hai quá trình:
- Quá trình đối tượng hóa: chủ thể chuyển năng lực và phẩm chất tâm lý của mình tạo thành sản phẩm. Từ đó,
tâm lý người được bộc lộ, khách quan hóa trong quá trình tạo ra sản phẩm, hay còn đươc gọi là quá trình xuất
tâm.

Ví dụ: Khi thuyết trình một môn học nào đó thì người thuyết trình phải sử dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình
cảm của mình về môn học đó để thuyết trình. Ttrong khi thuyết trình thì mỗi người lại có tâm lý khác nhau:
người thì rất tự tin, nói to, mạch lạc, rõ ràng, logic; người thì run, lo sợ, nói nhỏ, không mạch lạc. Cho nên phụ
thuộc vào tâm lý của mỗi người mà bài thuyết trình đó sẽ đạt yêu cầu hay không đạt yêu cầu.
- Quá trình chủ thể hóa: Thông qua các hoạt động đó, con người, tiếp thu lấy tri thức, đúc rút được kinh nghiệm
nhờ quá trình tác động vào đối tượng, hay còn được gọi là quá trình nhập tâm.
Ví dụ: Sau lần thuyết trình lần đầu tiên thì cá nhân đó đã rút ra được rất nhiều kinh nghiệm cho bản thân, và đã
biết làm thế nào để có một bài thuyết trình đạt hiệu quả tốt. Nếu lần sau có cơ hội được thuyết trình thì sẽ phải
chuẩn bị một tâm lý tốt, đó là: phải tư tin, nói to, rõ ràng, mạch lạc, logic, phải làm chủ được mình trước mọi
người,…
- Kết luận
- Hoạt động quyết định đến sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân.
- Sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo của từng thời kỳ.
Ví dụ:
• Giai đoạn tuổi nhà trẻ (1-2 tuổi) hoạt động chủ đạo là hoạt động với đồ vật: trẻ bắt trước
các hành động sử dụng đồ vật, nhờ đó khám phá, tìm hiểu sự vật xung quanh.
• Giai đoạn trưởng thành (18-25 tuổi) hoạt động chủ đạo là lao động và học tập.
- Cần tổ chức nhiều hoạt động đa dạng và phong phú trong cuộc sống và công tác.
- Cần tạo môi trường thuận lợi để con người hoạt động.
• Tâm lý người được hình thành, bộc lộ và phát triển thông qua giao tiếp.
- Giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành các mối quan hệ giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu
nhất định.
- Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người. Không có giao tiếp với người khác con người cảm thấy cô đơn
và có khi trở thành bệnh hoạn. Nhu cầu của con người trước hết là nhu cầu tiếp xúc với người khác. Khi tiếp
xúc với nhau mọi người thường truyền cho nhau thông tin , kinh nghiệm, kiến thức làm cho tâm lý mỗi người
trở nên phong phú đa dạng…
VD: Một người khi có tâm lý rụt rè ,ngại giao tiếp nhưng khi bị buộc phải làm việc nhóm. Những người trong
nhóm hết sức năng động và lạc quan. Sau thời gian làm việc và tiếp xúc, người mà trước kia từng rất ngại giao
tiếp thì giờ đã trở nên bạo dạn và nhanh nhẹn.
- Giao tiếp có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành tâm lý. Trên thực tế, nếu con người khi sinh ra nhưng

không sống trong xã hội loài người, không có sự giao tiếp giữa con người với con người thì sẽ không mang tâm
lý người.
VD:Một nhà nhân chủng học người Pháp đã gặp một cô bé lên 10 sống tại rừng rậm ven sông Amazon (Brazin).
Ông đã mang về Pari nuôi dạy. Mười năm sau hình dáng và tâm lý cô gái đã thay đổi đến mức người ta không
thể phân biệt được cô với các cô gái khác ở Pari
-
Thông qua giao tiếp con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, đạo đức,
chuẩn mực xã hội.
Hạnh Ngô – PR32
- Nhiều nhà tâm lý học đã khẳng định, nếu không có sự giao tiếp giữa con người thì một đứa trẻ không thể phát
triển tâm lý, nhân cách và ý thức tốt được.
- Nếu con người trong xã hội mà không giao tiếp với nhau thì sẽ không có một xã hội tiến bộ, con người tiến bộ.
- Nếu cá nhân không giao tiếp với xã hội thì cá nhân đó sẽ không biết phải làm những gì để cho phù hợp với
chuẩn mực xã hội, cá nhân đó sẽ rơi vào tình trạng cô đơn, cô lập về tinh thần và đời sống sẽ gặp rất nhiều khó
khăn.
- Trong khi giao tiếp với mọi người thì họ truyền đạt cho nhau những tư tưởng , tình cảm, thấu hiểu và có điều
kiện tiếp thu được những tinh hoa văn hóa nhân loại, biết cách ứng xử như thế nào là phù hợp với chuẩn mực xã
hội.
Ví dụ: Khi gặp người lớn tuổi hơn mình thì phải chào hỏi, phải xưng hô cho đúng mực, phải biết tôn trọng tất
cả mọi người, dù họ là ai đi chăng nữa, phải luôn luôn thể hiện mình là người có văn hóa, đạo đức.
- Kết luận
- Giao tiếp đóng vai trò quan trong trong sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân.
- Cần phải rèn luyện các kỹ năng giao tiếp.
“ Sự phát triển của một các nhân phụ thuộc vào sự phát triển của các cá nhân khác mà nó giao tiếp trực tiếp và
gián tiếp”.
 Tâm lý người do tồn tại khách quan quy định, được nảy sinh bằng hoạt động và giao tiếp. Hoạt động và giao
tiếp là nơi nảy sinh tâm lý, đồng thời cũng là nơi tâm lý vận hành, thực hiện vai trò của mình đối với cuộc sống.
Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp
Câu 3: Nêu định nghĩa, đặc điểm, quy luật của cảm giác và tri giác. So sánh cảm giác và tri giác.
1. Cảm giác

• Định nghĩa: Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện
tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
• Đặc điểm
- Cảm giác là một quá trình tâm lý, quá trình tâm lý là những hoạt động tâm lý diễn ra trong một thời
gian tương đối ngắn, có mở đầu, diễn biến, kết thúc.
- Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, rời rạc của sự vật, hiện tượng chứ không phản ánh
được trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng
VD: Khi ta chạm tay vào nước nóng, nó tác động đến tay và gây cho ta một cảm giác nóng thông qua xúc giác
ta chưa thể phân biệt được hết các thuộc tính của sự việc ấy và bản chất của nó.
- Cảm giác phản ánh hiện thực khách quan khi nó đang tác động một cách trực tiếp, tức là sự vật, hiện
tượng phải đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta, và chỉ vào thời điểm đó mới tạo ra được cảm
giác.
VD: Khi chạm tay vào nước nóng, tay ta trực tiếp cảm giác được tay ta bị nóng thông qua mạc giác của mình và
chỉ vào lúc đó
- Cảm giác của con người có tính chất xã hội. Cảm giác của con người không chỉ phản ánh những thuộc
tính của bản thân sự vật, hiện tượng vốn có trong thế giới mà còn phản ánh những thuộc tính của sự
vật, hiện tượng do con người sáng tạo ra. Cảm giác của con người có sự tham gia của tư duy và ý thức
nên nó phản ánh ở chất lượng mới.
VD: nhờ hoạt động nghề nghiệp mà có người thợ dệt phân biệt được 60 màu đen khác nhau, có những người
đầu bếp nếm được bằng mũi hoặc có những người đọc được bằng tay.
Hạnh Ngô – PR32
 Các đặc điểm trên của cảm giác chứng tỏ mức độ phản ánh tâm lí thấp và tính chất hạn chế của cảm giác.
Trong thực tế, để tồn tại và phát triển con người cần phải nhận thức cả những sự vật, hiện tượng không trực tiếp
tác động vào các giác quan của mình
• Quy luật
 Quy luật về ngưỡng cảm giác: Muốn có cảm giác thì phải có kích thích tác động vào các giác quan.
Muốn kích thích gây ra cảm giác thì kích thích phải đạt tới ngưỡng cảm giác
- Ngưỡng cảm giác: là giới hạn mà ở đó kích thích đủ để gây ra được cảm giác
- Ngưỡng cảm giác phía trên: cường độ kích thích tối đa vẫn gây ra được cảm giác
- Ngưỡng cảm giác phía dưới: cường độ kích tối thiểu đủ để gây ra cảm giác

 Quy luật về sự thích ứng của cảm giác
- Thích ứng: là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích
thích, khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm và ngược lại
- Quy luật thích ứng có ở tất cả các loại cảm giác, nhưng mức độ khác nhau và có thể rèn luyện được
 Quy luật về sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các cảm giác
- Các cảm giác của con người không tồn tại 1 cách biệt lập, riêng rẽ mà chúng luôn tác động qua lại lẫn nhau: sự
kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng lên độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia và
ngược lại
- Sự tác động lẫn nhau của các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hoặc nối tiếp trên các cảm giác cùng loại hay
khác loại
2. Tri giác
• Định nghĩa: Tri giác là một quá trình tâm lý, phản ánh một cách trọn vẹn một sự vật hiện tượng khi
chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta.
• Đặc điểm
- Tri giác là một quá trình tâm lý, có nảy sinh, diễn biến và kết thúc
- Tri giác phản ánh trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng.
Vd: nhờ mắt ta thấy được màu sắc, ước lượng được kích thước và số lượng quả xoài trong rổ.
- Tri giác phản ánh HTKQ 1 cách trực tiếp tác động vào các giác quan.
- Trong quá trình tri giác, kinh nghiệm đóng vai trò rất quan trọng. Chỉ cần tri giác 1 số thành phần riêng lẻ của
sự vật hiện tượng ta cũng có thể tổng hợp được các thành phần đó và tạo nên hình ảnh trọn vẹn của sự vật hiện
tượng.
Vd: Chúng ta chỉ cần nhìn bằng mắt và không sử dụng tới mũi miệng cùng với hiều biết trước đó của bản
thân, chúng ta tri giác và gọi tên đúng sự vật trên.
- Tri giác là quá trình tích cực được gắn liền với hoạt động của con người.
Tri giác là mức độ phản ánh cao hơn so với cảm giác nhưng tri giác vẫn thuộc giai đoạn nhận thức cảm tính
• Quy luật cơ bản của tri giác
a. Quy luật về tính đối tượng của tri giác:
- Do sự tác động của những sự vật, hiện tượng nhất định của thế giới xung quanh vào giác quan mà tính đối
tượng của tri giác được hình thành: đó là hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ cũng là cũng thuộc về
một sự vật, hiện tượng nhất định nào đó của thế giới bên ngoài.

- Mỗi hành động tri giác của ta đều phản ánh 1 đối tượng nào đó của thế giới khách quan.
Ví dụ: các chú bộ đội có thể tri giác được chiếc xe tăng dựa vào tiếng xích xe, tiếng động cơ.
Hạnh Ngô – PR32
- Tính đối tượng của tri giác có vai trò quan trọng – nó là cơ sở định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi và
hoạt động của con người. Nhờ tri giác có tinh đối tượng làm cho chúng ta nhìn thấy các thông tin ở bên ngoài và
giúp chúng ta khách quan hóa các hoạt động của mình.
b. Quy luật về tính lựa chọn cuả tri giác
- Tính lựa chọn của tri giác là sự tách bạch 1 số dấu hiệu hoặc đối tượng này ra khỏi các dấu hiệu hoặc đối
tượng khác để phản ánh tốt hơn
VD: Hình về một cuốn vở có chữ viết có những dòng chữ viết bằng màu mực khác nhau.
- Tính lựa chọn còn phụ thuộc vào chủ quan của người tri giác. Kinh nghiệm của con người càng phong phú,
con người càng hứng thú với đối tượng thì ta càng dễ dàng và nhanh chóng tách được đối tượng cần tri giác ra
khỏi bối cảnh. Cho nên, nếu bối cảnh và đối tượng càng khác biệt thì tri giác càng dễ dàng.
Ví dụ: trong sách có nhiều chữ in nghiêng để nhấn mạnh, giáo viên dùng mực đỏ đánh giấu chỗ sai của học
sinh…
c. Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác:
+ Vì tri giác của con người được gắn liền với tư duy, với sự hiểu biết về bản chất của sự vật với ý thức. Nên
những hình ảnh của tri giác mà con người thu được luôn luôn có một ý nghĩa xác định.
+ Khi tri giác một sự vật hiện tượng nào đó ta gọi tên được sự vật hiện tượng đó trong óc, và xếp sự vật hiện
tượng đó vào một nhóm, một lớp các sự vật hiện tượng nhất định
+ Ngay cả tri giác sự vật không quen thuộc, chúng ta cũng cố thu nhập trong nó một sự giống nhau nào đó với
những đối tượng mà mình đã biết, xếp nó vào một nhóm phạm trù nào đó.
d. Quy luật về tính ổn định của tri giác
+ Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh sự vật hiện tượng một cách không thay đổi khi điều kiện tri
giác bị thay đổi.
Ví dụ: Khi viết lên trang giấy ta luôn biết trang giấy có màu trắng mặc dù ta viết dưới ánh đèn dầu, lúc trời tối.
+ Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do cấu trúc của sự vật hiện tượng tương đối ổn định
trong một thời gian, thời điểm nhất định, mặt khác do cơ chế tự điều chỉnh của hệ thần kinh cũng như vốn kinh
nghiệm về đối tượng. Là điều kiện cần thiết của hoạt động thực tiễn của con người.
Ví dụ: một đứa trẻ đứng gần ta và một người lớn đứng xa ta hàng km, ảnh của đứa trẻ lớn hơn ảnh của người

lớn, nhứng ta vẫn biết đâu là đứa trẻ đâu là người lớn nhờ tri giác.
e. Quy luật tổng giác:
+ Hành động tri giác không chỉ phụ thuộc vào đặc điểm của vật kích thích, mà còn phụ thuộc vào bản thân chủ
thể tri giác.
+ Sự phụ thuộc của tri giác vào đặc điểm nhân cách, vào thái độ, nhu cầu, hứng thú tình cảm của họ. Người ta
gọi đó là hiện tượng tổng giác
f. Quy luật về tính trọn vẹn của tri giác: là khả năng tri giác trọn vẹn 1 sự vật, hiện tượng mặc dù nó có thể
bị thiếu hay khuyết đi những dấu hiệu nào đó.
VD: ta có thể chỉ nhìn thấy cái vòi mà không nhìn thấy các bộ phận còn lại thì vẫn tri giác ra đó là con voi
3. So sánh
• Cảm giác và tri giác đều nằm trong nhận thức cảm tính nên chúng có những điểm
chung:
 Chúng đều là quá trình tâm lý, tức là đều có ba giai đoạn: mở đầu, diễn biến, kết thúc.
 Cả cảm giác và tri giác đều chỉ phản ánh bề ngoài của sự vật hiện tượng
 Cũng phản ánh hiện thực khách quan 1 cách trực tiếp tác động vào các giác quan.
Những điểm khác nhau giữa cảm giác và tri giác:
Hạnh Ngô – PR32
Cảm giác Tri giác
Nội dung phản ánh
chỉ phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính
của sự vật hiện tượng
VD: quan sát chai nước, cảm giác cho ta biết
chai nước đó màu gi?,hình dạng như thế nào….
phản ánh sự vật hiện tượng một cách trọn
vẹn
cũng quan sát chai nước nhưng tri giác sẽ
cho ta biết đó là chai nước gì?
Phương thức phản ánh 1 giác quan Giác quan và kinh nghiệm
Sản phẩm 1 cảm giác
Gọi tên sự vật, hiện tưởng; hình ảnh về sự

vật hiện tượng
Cảm giác là một hình thức phản ánh ở trình độ
thấp hơn.
- Cảm giác chỉ cho ta những thuộc
tính rời rạc không gắn kết vào bất
cứ một cấu trúc nào.
Tri giác phản ánh sự vật hiện tượng theo một
cấu trúc nhất định. Cấu trúc này không phải là
tổng số các cảm giác mà là một hình thức
phản ánh ở trình độ cao hơn, hiệu quả hơn.
- Cảm giác mang tính thụ động, cứ
có kích thích là có cảm giác.
Vd: lấy kim châm vào da, ta sẽ có cảm giác
đau,…
Tri giác là quá trình tích cực gắn liền với hoạt
động của con người.Tri giác mang một nhiệm
vụ nhận thức nào đó.Tri giác là một hành
động tích cực có sự kết hợp chặt chẽ các yếu
tố cảm giác và vận động.

 Mối quan hệ giữa cảm giác và tri giác
Giữa cảm giác và tri giác có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình nhận thức của con người: Cảm giác
là cơ sở, là nguyên liệu cho quá trình tri giác và ngược lại, tri giác là sự phát triển cao là một quá trình nhận
thức khác xa về chất so với cảm giác, giúp cho cảm giác có hiệu quả hơn.
Vd: giáo viên không nên nói quá to hoặc quá nhỏ, chữ viết trên bảng phải rõ ràng, đủ to để học sinh ngồi cùng
có thể nhìn thấy. những điểm lưu ý, quan trọng giáo viên có thể viết đậm hơn, thay đổi kiểu chữ viết để tạo sự
chú ý cho học sinh. Thông qua hoạt động để rèn luyện cảm giác cho học sinh, làm cho vùng cảm giác rộng hơn,

Câu 4: Nêu định nghĩa, đặc điểm của tư duy và tưởng tượng. So sánh tư duy và tưởng tượng.
A. Tư duy

• Định nghĩa: Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ
và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước
đó ta chưa biết.
• Đặc điểm
Tư duy thuộc mức độ nhận thức lý tính với các đặc điểm sau:
a. Tính có vấn đề của tư duy
- Vấn đề là những tình huống, hoàn cảnh chứa đựng một mục đích, một vấn đề mới mà những hiểu biết cũ,
những phương pháp hành động cũ tuy còn cần thiết song không đủ sức giải quyết.
Hạnh Ngô – PR32
- Tư duy chỉ xuất hiện khi gặp những hoàn cảnh, tình huống có vấn đề. Muốn giải quyết vấn đề đó con người
phải tìm cách thức giải quyết mới. Tức là con người phải tư duy.
Ví dụ : Giả sử để giải một bài toán, trước hết học sinh phải nhận thức được yêu cầu, nhiệm vụ của bài toán, sau
đó nhớ lại các quy tắc, công thức, định lí có liên quan về mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm, phải chứng
minh để giải được bài toán. Khi đó tư duy xuất hiện
- Không phải bất cứ hoàn cảnh nào tư duy cũng xuất hiện. Vấn đề chỉ trở nên tình huống có vấn đề khi chủ thể
nhận thức được tình huống có vấn đề, nhận thức được mâu thuẫn chứa đựng trong vấn đề, chủ thể phải có nhu
cầu giải quyết và phải có những tri thức liên quan đến vấn đề. Chỉ trên cơ sở đó tư duy mới xuất hiện.
Vídụ: Nếu đặt câu hỏi giai cấp là gì? Với học sinh lớp 1 thì sẽ không làm học sinh phải suy nghĩ.
Nếu cho bài toán : 2(x+1) = ? thì với học sinh lớp 2 tư duy sẽ không xuất hiện.
b. Tính gián tiếp của tư duy.
- Ở nhận thức cảm tính, con người phản ánh trực tiếp sự vật hiện tượng bằng các giác quan của mình. Đến tư
duy con người không nhận thức thế giới một cách trực tiếp mà có khả năng nhận thức nó một cách gián tiếp.
- Tính gián tiếp của tư duy được thể hiện trước hết ở việc con người sử dụng ngôn ngữ để tư duy. Nhờ có ngôn
ngữ mà con người sử dụng các kết quả nhận thức (quy tắc, khái niệm, công thức, quy luật…) và kinh nghiệm
của bản thân vào quá trình tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát…) để nhận thức được cái bên trong,
bản chất của sự vật hiện tượng.
- Tính gián tiếp của tư duy còn được thể hiện ở chỗ, trong quá trình tư duy con người sử dụng những công cụ,
phương tiện (như đồng hồ,nhiệt kế,máy móc…) để nhận thức đối tượng mà không thể trực tiếp tri giác chúng.
Ví dụ: Để biết Các phát minh do con người tạo ra như nhiệt kế, tivi…giúp chúng ta hiểu biết về những hiện
tượng thiên nhiên,thực tế nhưng không tri giác chúng ta trực tiếp

- Mỗi người khi giải quyết vấn đề, nhiệm vụ tư duy của mình đều sử dụng kết quả tư duy của người khác
c. Tính trừu tượng và khái quát của tư duy.
- Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh sự vật, hiện tượng một cách cụ thể và riêng lẻ. Tư duy có
khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính, những dấu hiệu cá biệt, cụ thể, chỉ giữ lại những
thuộc tính bản chất chung cho nhiều sự vật hiện tượng, trên cơ sở đó mà khái quát những sự vật hiện tượng
riêng lẻ, nhưng có những thuộc tính chung thành một nhóm, một loại, một phạm trù. Nói cách khác tư duy
mang tính trừu tượng và khái quát.
+ Trừu tượng là dùng trí óc để gạc bỏ những mặc những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ thứ yếu không
cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết cho tư duy.
+ Khái quát là dùng tri óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm, một loại, một phạm trù theo
những thuộc tính,liên hệ,quan hệ chung nhất định.
Trừu tượng và khái quát có mối liên hệ mật thiết với nhau ở mức độ cao. Không có trừu tượng thì không thể
tiến hành khái quát, nhưng trừu tượng mà không khái quát thì hạn chế quá trình nhận thức.
VD
+ Nói về khái niệm “ cái cốc”, con người trừu xuất những thuộc tính không quan trọng như chất liệu,màu
sắc,kiểu dáng mà chỉ giữ lại những thuộc tính cần thiết như hình trụ,dùng để đựng nước uống. Đó là trừu tượng.
+ Khái quát gộp tất cả những đồ vật có những thuộc tính cơ bản nói trên dù làm bằng nhôm, sứ, thủy tinh…có
màu xanh hay vàng…tất cả điều xếp vào một nhóm “cái cốc”.
- Nhờ có đặc điểm này mà con người không chỉ giải quyết được những nhiệm vụ hiện tại mà còn có thể giải
quyết được những nhiệm vụ của tương lai
 Mục đích của quá trình học tập là phải nắm được cái khái quát của vấn đề nghiên cứu từ việc tìm những cái
cụ thể rồi từ chính những khái quát này, người học có thể giải quyết được những vấn đề cụ thể.
Hạnh Ngô – PR32
d. Tư duy quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ.
- Tư duy mang tính có vấn đề, tính gián tiếp, tính trừu tượng và khái quát là do nó gắn chặt với ngôn ngữ. Tư
duy và ngôn ngữ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không có ngôn ngữ thì quá trình tư duy của con người
không thể diễn ra được, đồng thời các sản phẩm của tư duy (khái niệm, phán đoán…) cũng không được chủ thể
và người khác tiếp nhận.
Ví dụ: Nếu không có ngôn ngữ thì những công thức toán học sẽ không có và không thể hiện được những hiểu
biết về tự nhiên.

- Ngôn ngữ của chúng ta ngày nay là kết quả của quá trình phát triển tư duy lâu dài trong lịch sử phát triển của
nhân loại, do đó ngôn ngữ luôn thể hiện kết quả tư duy của con người.
Ví dụ: Công thức tính diện tích hình vuông S = (a x a) là kết quả của quá trình con người tìm hiểu tính toán.Nếu
không có tư duy thì rõ ràng công thức này vô nghĩa.
e. Tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính
- Tư duy phải dựa vào nhận thức cảm tính (cảm giác và tri giác), dựa trên những tài liệu cảm tính, trên kinh
nghiệm, trên cơ sở trực quan sinh động.
- Nhận thức cảm tính là cơ sở, là nguồn cung cấp nguyên liệu của tư duy
VD X.L.Rubinstein – nhà tâm lí học Xô viết đã viết: “nội dung cảm tính bao giờ cũng có trong tư duy trừu
tượng, tựa hồ như làm thành chỗ dựa của tư duy”.
Lênin từng nói: “không có cảm giác thì không có quá trình nhận thức nào cả”.
- Nhận thức cảm tính là 1 khâu, 1 thành phần trong hoạt động tư duy của con người
- Nhận thức cảm tính là phương tiện để kiểm tra tư duy. Ngược lại, những kết quả của tư duy cũng ảnh hưởng
đến cảm giác và tri giác. Tư duy giúp nhận thức cảm tính diễn ra nhanh chóng, tinh vi hơn
Vi dụ: Khi có một vụ tai nạn giao thông xảy ra mà ta thấy.Thì trong đầu ta sẽ đặt ra hàng loạt các câu hỏi như:
Tại sao lại xảy ra tai nạn? Ai là người có lỗi? như vậy là từ những nhận thức cảm tính như : nhìn, nghe…quá
trình tư duy bắt đầu xuất hiện.
• Kết luận sư phạm
- Việc phát triển tư duy phải được tiến hành song song và thông qua truyền thụ tri thức. Mọi tri thức đều mang
tính khái quát, nếu không tư duy thì không thực sự tiếp thu, lại không vận dụng được những tri thức đó.
-Việc phát triển tư duy phải gắn với việc trau dồi ngôn ngữ. Bởi lẽ có nắm vững ngôn ngữ thì mới có phương
tiện để tư duy có hiệu quả.
- Tăng cường khả năng trừu tượng và khái quát trong suy nghĩ.
- Việc phát triển tư duy phải gắn liền với việc rèn luyện cảm giác, tri giác, năng lực quan sát và trí nhớ. Bởi lẽ,
thiếu những tài liệu cảm tính thì tư duy không thể diễn ra được.
- Để phát triển tư duy không còn con đường nào khác là thường xuyên tham gia vào các hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Qua đó tư duy của con người sẽ không ngừng được nâng cao.
B. Tưởng tượng
• Định nghĩa: Tưởng tượng là một quá trình tâm lí phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm
của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới dựa trên cơ sở của những biểu tượng đã có.

Ví dụ: hình ảnh nàng tiên cá, con rồng,…
• Đặc điểm
- Phản ánh cái mới
Hạnh Ngô – PR32
- Tưởng tượng chỉ nảy sinh trước những tình huống có vấn đề, tức là những đòi hỏi mới, thực tiễn chưa từng
gặp, trước những nhu cầu khám phá, phát hiện, làm sáng tỏ cái mới nhưng chỉ khi tính bất định (không xác định
rõ ràng) của hoàn cảnh quá lớn (nếu rõ ràng rành mạch thì diễn ra quá trình tư duy).
- Vấn đề tưởng tượng dựa trên những hình ảnh cụ thể, rõ nét
- Tưởng tượng là một quá trình nhận thức được bắt đầu và thực hiện chủ yếu bằng hình ảnh, nhưng vẫn mang
tính gián tiếp và khái quát cao so với trí nhớ. Biểu tượng của tưởng tượng là một hình ảnh mới được xây dựng
từ những biểu tượng của trí nhớ, nó là biểu tượng của biểu tượng.
Ví dụ: Họa sĩ Nga Xuricop nhìn thấy 1 con quạ đen trền nền tuyết trắng tưởng tượng ngay đến hình tượng của
phu nhân Morodova (nhân vật thối tha của chế độ Nga hoàng).
C. So sánh
• Giống nhau
- Là 2 quá trình thuộc tính nhận thức lý tính, tức là đều phản ánh những cái mới, những thuộc tính bản chất,
những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật.
- Đều xuất hiện khi gặp tình huống có vấn đề và hướng vào giải quyết tình huống có vấn đề.
- Cả 2 đều mang tính khái quát, tính gián tiếp, đều có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính và ngôn ngữ,
đều phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn.
• Khác nhau:
Tư duy Tưởng tượng
- - Giải quyết vấn dề dựa trên những khái
niệm trừu tượng khái quát
- - Hoàn cảnh có vấn đề có tính chất
không xác định thấp hơn
- VD: tôi không thể trong cùng một thời
điểm đang ở Sài Gòn và đang ở Hà Nội,
trên thực tế không thể xảy ra trường
hợp này. Tư duy không cho phép

- - Sản phẩm của tư duy là những khái
niệm suy lí phán đoán theo một logic
nhất định
- VD: tứ giác có bốn cạnh bằng nhau với
ba góc 90
0
 đó là hình vuông.
-Giải quyết vấn đề dựa trên những hình ảnh cụ
thể, rõ nét
- Hoàn cảnh có vấn đề có tính chất không xác định cao
hơn
VD : nhưng cùng ở ví dụ đó tưởng tượng cho phép ta
có thể ở hai nơi cùng một lúc vừa ở Sài Gòn, vừa ở Hà
Nội.
- Sản phẩm của tưởng tượng là những biểu
tượng nhưng là biểu tượng cấp hai (biểu
tượng của biểu tượng)
VD: ta nhìn thấy con sư tử và về nhà ta vẽ lại nó
nhưng ta tưởng tượng sư tử gắn đầu ngược  nhân
sư, từ hình ảnh sư tử ta hình thành hình ảnh mới nhân

 Mối quan hệ giữa tư duy và tưởng tượng:
- Giữa tư duy và tưởng tượng có mối quan hệ mật thiết với nhau không có quá trình tư duy nào lại tách rời khỏi
quá trình tưởng tượng. Ngược lại không có quá trình tưởng tượng nào lại không cần sự hỗ trợ của tư duy.
- Nhiều khi tưởng tượng xâm nhập vào quá trình tư duy, đóng vai trò như phương tiện của tư duy, đó cũng là
đặc trưng phản ánh của tượng tượng
VD: giả sử học sinh làm một bài toán hình học. Trước hết người học sinh phải nhận thức được yêu cầu nhiệm
vụ (bài toán) sau đó phải nhờ lại các định lý có liên quan, mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, phải
chứng minh… để đưa ra những cách giải quyết có thể có. Tiếp theo người học sinh xem xét lại những phương
Hạnh Ngô – PR32

hướng giải quyết bài toán sau khi giải xong cần rút ra kinh nghiệm cách giải sau đó tưởng tượng sáng tạo ra
cách giải mới từ cách giải cũ lựa chọn những phương hướng tối ưu.
Câu 5: So sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
- Nhận thức là hoạt động đặc trưng của con người trong quá trình sống và hoạt động. Trong đó con người có thể
nhận thức – phản ánh được hiện thực xung quanh và đời sống xã hội.
- Việc nhận thức thế giới con người có thể đạt đến những mức độ nhận thức khác nhau, mà nhận thức cảm tính
(gồm cảm giác và tri giác) là mức nhận thức thấp nhất, còn nhận thức lý tính là mức nhận thức cao hơn, phản
ánh những thuộc tính bên trong gồm tư duy và tưởng tượng.
1) Khái niệm: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng
2) Đặc điểm chung của NTCT:
- Đều là 1 quá trình tâm lý, tức có nảy sinh, có diễn biến và kết thúc
- Chỉ phản ánh thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng
- Phản ánh HTKQ 1 cách trực tiếp tác động vào các giác quan
3) Đặc điểm chung của NTLT:
- Đều phản ánh cái mới
- Đều nảy sinh khi con người đứng trước những hoàn cảnh có vấn đề và cùng được thúc đẩy bởi nhu cầu
- Phản ánh 1 cách gián tiếp và khái quát
- Có mối quan hệ với NTCT
4) So sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
• Giống nhau
 Cả hai quá trình nhận thức đều phản ánh hiện thực khách quan để có những hình ảnh về
chúng.
 Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là quá trình tâm lý có mở đầu, có diễn biến và
kết thúc.
• Khác nhau
Nhận thức cảm tính Nhận thức lý tính
Về nguồn gốc Nảy sinh khi có hiện thực khách quan tác động
vào các giác quan tới ngưỡng.
Vd: khi tôi nói nhỏ thì những bạn ở xa không nghe
được. ( tần số chưa tới 16hz) hay các bạn cảm thấy

nhói tai khi nghe những âm thanh với những tấn số
lớn như: tiếng hú của micro, tiếng còi ô tô,…
Nảy sinh khi gặp tình huống có vấn đề
Vd: trong giờ học thầy giáo cho bạn giải bài
pt: +bx+c=0. Đây là dạng bài tập mà ta chưa
giải qua, từ đó chúng ta phải phân tích, suy
luận, tìm ra phương pháp giải phù hợp.
=> nhận thức lý tính được nảy sinh.
Về nội dung phản
ánh
Chỉ phản ánh những thuộc tính bề ngoài, trực
quan cụ thể, những mối liên hệ quan hệ không gian
và thời gian.
Vd: khi ta nhìn một chiếc điện thoại ta chỉ biết
vẻ bề ngoài của nó là của hãng FPT, màu đỏ, nhỏ
gọn,…
Phản ánh những thuộc tính bản chất những
mối quan hệ có tính quy luật.
Vd: cũng ví dụ bên, nhận thức lí tính sẽ cho
ta biết điện thoại đó có chụp hình 2
Megapixel, nghe nhạc, game, web, …
Hạnh Ngô – PR32
Phương thức phản
ánh
Nhận thức phản ánh trực tiếp bằng các giác
quan.
Vd: khi ta nghe nhạc một bản nhạc, ta dùng
thính giác để nghe nó và biết bản nhạc có hay không
- Nhận thức lí tính phản ánh khái
quát, gián tiếp bằng ngôn ngữ,

bằng biểu tượng,bằng khái niệm,

- Vd: cũng ví dụ đó, nhận thức lí
tính không chỉ nghe thấy mà còn
cảm nhận từng nốt nhạc, cảm
nhận được điều mà nhạc sĩ
muốn nói.
Về khả năng phản
ánh
Chỉ phản ánh được những sự vật hiện tượng cụ
thể tác động trực tiếp vào các giác quan.
Vd: khi ta nấu chè, để biết chè đủ ngọt chưa ta
dùng lưỡi(vị giác) nếm thử nó.
- Phản ánh những sự vật hiện
tượng không còn tác động, thậm
chí là chưa tác động.
- Ví dụ: cũng ví dụ bên nhưng khi
nồi chè đang nóng để nếm thử
thì ta phải thổi nguội, nếu không
sẽ bị phỏng(có thể bạn đã từng
bị hoặc thấy ai đó bị trước nên
rút kinh nghiệm).
Về kết quả phản
ánh
Nhận thức cảm tính cho ta những hình ảnh trực
quan, cụ thể .
Vd: thông qua giác quan ta biết chiếc điện
thoại này màu đen, hình chữ nhật, …
- Nhận thức lí tính cho ta những
khái niệm, những phán đoán,

những cái chung, cái bản chất về
những hình ảnh mới.
- Vd: cùng ví dụ đó, nhận thức lí
tính cho ta biết nó là nokia 2690,
chức năng, cấu tạo bên trong,…
 Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính
 Nhận thức cảm tính là cơ sở, là nơi cung cấp nguyên liệu cho nhận thức lý tính. Lê nin nói:
“ không có cảm giác thì không có quá trình nhận thức nào cả.
 Nhận thức thức lý tính phải dựa trên nhận thức cảm tính, gắn chặt với nhận thức cảm tính,
thường bắt đầu từ nhận thức cảm tính. Dù nhận thức lý tính có trừu tượng và lhais quát đến
đâu thì nội dung của nó cũng chứa đựng các thành phần của nhận thức cảm tính.
 Ngược lại, nhận thức lý tính chi phối nhận thức cảm tính làm cho nhận thức cảm tính tinh
vi, nhạy bén và chính xác hơn.
3. Kết luận sư phạm
- Để rèn luyện nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính của mỗi cá nhân cần tích cực tham gia vào các loại hình
hoạt động.
- Cá nhân cần rèn luyện các giác quan giữ gìn chúng. Sức khỏe cá nhân cũng là một yếu tố liên quan đến các
thuộc tính nhận thức. Cá nhân có sức khỏe tốt là điều kiện cho quá trình nhận thức diễn ra tốt hơn.
- Trao dồi vốn ngôn ngữ để tăng khả năng tư duy thông qua việc học thêm ngoại ngữ ( anh, pháp,…), đọc nhiều
sách báo để tăng vốn từ vựng,….
Hạnh Ngô – PR32
Câu 6: Nêu định nghĩa, đặc điểm và quy luật của đời sống tình cảm.
 Định nghĩa
- Tình cảm là những thái độ cảm xúc ổn định của mỗi cá nhân đối với sự vật, hiện tượng, nó phản ánh ý nghĩa
của chúng trong mối liên hệ với nhu cầu và động cơ của con người
 Đặc điểm đặc trưng của tình cảm
1 Tính nhận thức
- Những nguyên nhân gây nên tình cảm được chủ thể nhận thức rõ ràng
- Tình cảm bao giờ cũng có đối tượng xác định
- Con người luôn biểu đạt tình cảm của mình dưới dạng ngôn ngữ bằng các từ thích hợp

2 Tính xã hội
- Tình cảm chỉ có ở con người, nó mang tính xã hội, thực hiện chức năng xã hội, nảy sinh và hình thành trong
môi trường xã hội
- Vì tính xã hội hình thành trong môi trường xã hội nên gia đình, bạn bè, nhà trường, xã hội là những môi
trường chính thức tác động trực tiếp tới tình cảm của mỗi người. Chính những môi trường này hình thành nên
tình cảm mang tính xã hội. Bên cạnh đó, môi trường sống, hoàn cảnh kinh tế cũng là tác động hình thành tình
cảm
3 Tính khái quát
Tình cảm mang tính khái quát, nhất là loại tính cảm mang tính chất thế giới quan. Biểu hiện ở chỗ tình cảm là
thái độ của con người đối với cả 1 loại các sự vật, hiện tượng, chứ không phải với từng sự vật hiện tượng
4 Tính ổn định
- Tình cảm là thuộc tính tâm lý, là những kết cấu tâm lý ổn định, tiềm tàng của nhân cách, khó hình thành và
khó mất đi.
- Nếu xúc cảm là thái độ nhất thời, có tính tình huống, thì tình cảm là những thái độ ổn định của con người đối
với hiện thực xung quanh và đối với bản thân. Chính vì vậy mà tình cảm là một thuộc tính tâm lí, một đặc trưng
quan trọng của nhân cách con người.
5 Tính chân thực
Tình cảm được biểu ở chỗ phản ánh chân thực, chính xác nội tâm thực sự của con người, cho dù người ấy cố
tình che dấu bằng những “ động tác giả” bên ngoài.
Tình cảm phản ánh chính xác nội tâm của con người. Như vậy, con người dù có cố che dấu đến đâu thì cũng
không bao giờ che đậy đươc tình cảm thật sự của mình.
6 Tính đối cực (hay còn gọi là tính hai mặt)
- Dù ở mức độ nào tình cảm cũng mang tính hai mặt: nghĩa là tính chất đối lập nhau: vui - buồn, yêu - ghét, …
Thiếu những rung động tương phản thì nó sẽ dẫn đến sự bão hòa và buồn tẻ.

 Quy luật của đời sống tình cảm
1. Quy luật thích ứng:
- Một xúc cảm, tình cảm được lặp đi lặp lại nhiều lần một cách không thay đổi thì cuối cùng sẽ bị suy yếu, bị
lắng xuống. Đó là hiện tượng “chai sạn” tình cảm.
VD: xa thương gần thương

“ Sự xa cách đối với tình yêu giống như gió với lửa, gió sẽ dập tắt những tia lửa nhỏ, nhưng lai đốt cháy, bùng
nổ những tia lửa lớn” (Ngạn ngữ Nga)
Hạnh Ngô – PR32
Ví dụ: Hoa là một học sinh nhút nhát,luôn rụt rè trước mọi người. Mỗi lần bị giáo viên gọi dậy trả lời câu hỏi,
Hoa đều tỏ ra lúng túng và đỏ mặt. Nhưng một thời gian sau, việc Hoa luôn phải đứng dậy trả lời lặp đi lặp lại
nhiều lần và nhờ sự khuyến khích động viên của bạn bè thầy cô thì Hoa đã tự tin trả lời những câu hỏi trước lớp.
2. Quy luật lây lan: Xúc cảm, tình cảm của người này có thể truyền, lây sang người khác
Biểu hiện: Vui lây, buồn lây, đồng cảm
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ
Niềm vui nhân đôi, nỗi buồn sẻ nửa
Ví dụ: An vừa nhận được giấy báo nhập học. An vô cùng sung sướng, vui mừng. An thông báo cho bố mẹ và
bạn bè của mình. Sự vui vẻ của An đã tạo nên không khí thoải mái, vui mừng cho mọi người xung quanh.
3. Quy luật tương phản: Trong quá trình hình thành và biểu hiện tình cảm, sự xuất hiện hoặc suy yếu của một
tình cảm này có thể làm tăng hoặc giảm của một hiện tượng khác diễn ra đồng thời.
Biểu hiện: Càng yêu nước càng căm thù giặc
“Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”
Ví dụ: Khi chấm bài,sau một loạt bài kém, gặp một bài khá, giáo viên thấy hài lòng .Bình thường bài khá này
chỉ đạt điểm 7 nhưng trong hoàn cảnh này giáo viên sẽ cho điểm 9.
Ví dụ: Càng yêu mến nhân vật Bạch Tuyết hiền lành thì càng căm ghét mụ hoàng hậu độc ác .
4. Quy luật di chuyển: Là hiện tượng tình cảm, cảm xúc có thể di chuyển từ 1 đối tượng này sang đối tượng
khác. Trong cuộc sống ta hay gặp hiện tượng vơ đũa cả nắm cho nên chúng ta phải chú ý kiểm soát thái độ của
mình làm cho nó mang tính chọn lọc tích cực
Biểu hiện: “Giận cá chém thớt”
“Yêu nhau yêu cả đường đi
Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”
5. Quy luật pha trộn: Trong đời sống tình cảm của con người, nhiều khi hai tình cảm đối cực nhau, có thể xảy
ra cùng một lúc nhưng không loại trừ nhau, chúng pha trộn vào nhau, quy định lẫn nhau
Biểu hiện: “Giận mà thương, mà thương mà giận”
“Bỏ thì thương mà vương thì tội”
“Cái gì càng khó khăn gian khổ mới đạt được thì khi đạt được ta càng tự hào”

6. Quy luật về sự hình thành tình cảm: Xúc cảm là cơ sở của tình cảm, tình cảm được hình thành từ những
xúc cảm đồng loại, chúng được động hình hóa, tổng hợp hóa và khái quát hóa mà thành. Như vậy, muốn hình
thành tình cảm phải có xúc cảm, nếu không có xúc cảm, không có sự rung động thì không thể có tình cảm
Biểu hiện: Năng mưa thì giếng năng đầy.
Anh năng đi lại mẹ thầy năng thương .
Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén.
Mưa dầm thấm đất .
Đẹp trai không bằng chai mặt .
Ví dụ: Tình cảm của con cái đối với bố mẹ là cảm xúc thường xuyên xuất hiện do liên tục được bố mẹ yêu
thương,thõa mãn nhu cầu, dần dần được tổng hợp hóa, động hình hóa và khái quát hóa mà thành.
 Kết luận: Nếu không có các quy luật đời sống tình cảm thì sẽ khó hình thành nên tình cảm hoặc gây ra hiện
tượng “ đói tình cảm” làm cho toàn bộ hoạt động sống của con người không thể phát triển bình thường.
C. KẾT LUẬN
- Tình cảm là động lực thúc đẩy con người làm việc.
Hạnh Ngô – PR32
- Đời sống tình cảm rất phong phú, đa dạng và phức tạp chính vì vậy chúng ta phải nắm bắt được tình cảm của
bản thân. Tham gia nhiều hoạt động để nắm bắt được đời sống tình cảm của mọi người. Tạo môi trường thuận
lợi để phát triển toàn diện về mặt tình cảm.
- Sống có tình cảm giúp chúng ta hòa nhập với cuộc sống tốt hơn.
Vì vậy chúng ta phải luôn rèn luyện bản thân để hoàn thiện hơn để hòa nhập với mọi thứ trong cuộc sống
này. Mỗi người phải có nhận thức đúng về tình cảm, không nên đứng trên lập trường của tình cảm yếu mềm mà
quyết định mọi việc, đồng thời phải biết kêt hợp hài hòa giữa tình cảm và ý chí để giải quyết vấn đề.
- Tình cảm cũng ảnh hưởng đến tư duy và sự phát triển con người, nên trong tất cả các ngành, ngành giáo dục là
một ngành cần có sự quan tâm với tình cảm và phải biết phân tích tình cảm của học sinh để biết tâm lí của
người học và có phương pháp dạy có hiệu quả nhất.
→ Giáo dục tình cảm là một công việc khó khăn, phức tạp và lâu dài, cần tiến hành thường xuyên liên tục và
lâu dài.
Câu 7: Nêu định nghĩa, vai trò và các phẩm chất của ý chí. Phân tích cấu trúc hành động ý chí thông
qua một ví dụ cụ thể.
Định nghĩa ý chí: Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có

mục đích, đòi hỏi phải có sự nổ lực khắc phục khó khăn.
Vai trò của ý chí
- Ý chí làm thay đổi chiều hướng, tính chất và hình thức của hành động
- Ý chí cho phép con người hạ quyết tâm trước khi hành động
- Nhờ ý chí của con người mà mỗi hoạt động của mình được tổ chức 1 cách có ích và hợp lý
- Nhờ ý chí con người cả thiện được thiên nhiên, xã hội, sáng tạo ra những giá trị vật chất tinh thần đạt
được những hiến công, có được những phát minh khoa học
Các phẩm chất của ý chí
- Tính mục đích: là khả năng biết đề ra mục đích, cho phép con người điều chỉnh hành vi của mình theo
mục đích đã xác định
- Tính độc lập: là năng lực quyết định và thực hiện hành động đã dự định mà không chịu ảnh hưởng của
ai, giúp con người hình thành niềm tin vào sức mạnh của mình
- Tính quyết đoán: là khả năng đưa ra quyết định kịp thời và cứng rắn mà không có sự dao động không
cần thiết. Người quyết đoán phải luôn hành động có suy nghĩ dũng cảm, đúng lúc, không dao động và là
người có trí tuệ
VD: Trong 1 ca mổ, sau khi gây mê, chuẩn bị tiến hành phẫu thuật, bỗng dạ dày cháu bé phản ứng nôn
thốc nôn tháo, thức ăn tràn ra cả miệng và mũi. Lúc đó bệnh nhân đã ngấm thuốc mê, nếu không hút hết
các tạp chất kịp thời, chỉ trong vòng 2-3 phút các tạp dịch sẽ tràn vào màng phổi gây ngạt thở, bệnh nhân
sẽ tử vong. Bệnh viện đang rất thiếu thốn phương tiện, chưa có máy hút. Các bác sĩ lúng túng chưa biết
nên xử lý thế nào thì lập tức bác sĩ Hà Văn Quỳnh – Phó Giám đốc phụ trách chuyên môn Bệnh viện Đa
khoa vùng Tây Nam Nghệ An đến dùng miệng của mình ngậm vào miệng, mũi bệnh nhân vừa hút vừa
nhả các tạp chất ra ngoài để thông đường hô hấp. Nhờ hành động kịp thời này, ca phẫu thuật đã diễn ra
thành công.
- Tình bền bỉ: là kỹ năng đạt được mục đích đề ra dù cho con đường đạt tới chúng có lâu dài và gian khổ
đến đâu chăng nữa. Thể hiện ở sự khắc phục những trở ngại bên trong và bên ngoài, khả năng duy trì sự
nỗ lực 1 cách không mệt mỏi, những khó khăn chỉ làm tăng sự mong muốn tiếp tục công việc mà thôi.
- Tính tự chủ: khả năng được làm chủ bản thân. Nó làm cho con người tự phê phán mình giúp họ tránh
được những hành vi không suy nghĩ
Cấu trúc hành động ý chí thông qua 1 ví dụ cụ thể
Hạnh Ngô – PR32

Hành động ý chí là hành động được hướng vào những mục đích mà việc đạt tới chúng đòi hỏi phải có sự
khắc phục những trở ngại, do đó phải có sự hoạt động tích cực của tư duy và những nỗ lực ý chí đặc biệt.
Cấu trúc của hành động ý chí gồm có 3 giai đoạn:
• Giai đoạn chuẩn bị:
- Đặt ra và ý thức rõ ràng mục đích của hành động
- Lập kế hoạch và lực chọn phương pháp, phương tiện hành động
- Quyết định hành động
Trước khi làm một việc gì, con người thường tự hỏi: “Làm việc này để làm gì?”, tức là người đó đã xác
định mục đích hành động. Mục đích này nếu như không được hình dung rõ trong ý thức, thì hành động sẽ
mất phương hướng. Có điều, mục đích phải thiết thực, có ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa xã hội rõ rệt. Trong
khoa học và trong đời sống xã hội, chính những mục đích cao đẹp đầy nhân ái đã thúc đẩy con người khắc
phục những trở ngại trên đường thực hiện mục đích và kiên trì đấu tranh cho mục đích ấy.
• Giai đoạn thực hiện: việc chuyển từ quyết định hành động đến hành động là sự thay đổi về chất vì đó là
sự chuyển biến nguyện vọng thành hiện thực. Sự thực hiện quyết định có thể diễn ra dưới 2 hình thức:
- Hành động bên ngoài
- Kìm hãm các hành động bên ngoài (hành động ý chí bên trong)
• Giai đoạn đánh giá kết quả của hành động: khi hành động đạt đến một mức độ nào đó, con người đánh
giá, đối chiếu các kết quả đạt được với mục đích đã định. Sự đánh giá thường đem lại sự hài lòng, thỏa
mãn hoặc chưa thỏa mãn, chưa hài lòng. Sự đánh giá có thể trở thành sự kích thích vì động cơ đối với hoạt
động tiếp theo, kinh nghiệm cho những hành động sau.
+ Giai đoạn chuẩn bị
Ví dụ về Phan Đình Giót ( PĐG ) lấy thân mình lấp lỗ châu mai, ngày 13/3/1954, bộ đội Đại đội 58 tấn
công cứ điểm Him Lam, bất ngờ hỏa điểm lô cốt số 3 của lính Pháp bắn trả rất mạnh khiến lực lượng xung
kích của Việt Nam bị chặn lại, PĐG đến lô cốt số 3 với ý nghĩ là “dập tắt ngay lô cốt này”, ông dùng sức
nâng tiểu liên và bắn vào lỗ châu mai, miệng hô to “quyết hy sinh vì Đảng, vì dân” rồi sau đó lấy thân
mình lấp lỗ châu mai, do đó hỏa điểm bị dập tắt, quân Việt Nam xông lên và tiêu diệt Him Lam, góp phần
cho chiến thắng Điện Biên Phủ. Phân tích ví dụ này ta thấy rõ:
Giai đoạn chuẩn bị của hành động ý chí này, là quá trình đấu tranh tư tưởng với ý nghĩ xác định mục đích,
đồng thời hình thành động cơ là phải làm sao để dập tắt được lô cốt số 3, kế hoạch hành động với ý nghĩ
ban đầu là dùng súng tiểu liên xả đạn vào bên trong lô cốt thông qua lỗ châu mai để tiêu diệt địch.

Nhiều khi, trong cùng một lúc, con người thường có nhiều mục đích khác nhau, thậm chí trái ngược nhau,
song hành động trong giây phút ấy thì chỉ có một. Vì vậy, lúc này PĐG không nghĩ đến lợi ích cá nhân,
mà đặt lợi ích Tổ quốc là trên hết, ông phải chọn lấy một mục đích, một động cơ hành động là hy sinh
thân mình vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp toàn dân. Quá trình lựa chọn này gọi là đấu tranh động cơ hay đấu
tranh bản thân. Đấu tranh động cơ là thời kỳ vô cùng quan trọng của hành động ý chí. Nó xác định phương
hướng tâm lý cho hành động.
Trong trường hợp này, mục đích nào được nhận thức là cấp thiết, là phù hợp với bản thân, thì mục đích ấy
được giữ lại và chi phối hành động, tức là cuộc đấu tranh động cơ được kết thúc bằng một quyết định là
lấy thân mình lấp lỗ châu mai.
+ Giai đoạn thực hiện:
Thực hiện quyết định thể hiện ở hành động. Và, kết thúc quá trình hành động, con người biến nguyện
vọng thành hiện thực. Qua ví dụ về PĐG ta thấy được quá trình thực hiện quyết định của ông là hành động
lấy than mình lấp lỗ châu mai, biến nguyện vọng dập tắt lô cốt số 3 thành hiện thực, giúp quân Việt Nam
tiến lên giành cứ điểm Him Lam.
Có điều, trong quá trình hành động, ít nhiều đều gặp khó khăn. Ví như PĐG mặt dù đang bị thương nơi
đùi ( do ném bộc phá bị thương), phải khó khăn lê thân mình đến miệng lô cốt dưới làn đạn của lính
Pháp.Thái độ của PĐG trước khó khăn biểu hiện mức độ nỗ lực ý chí của ông ấy. Khó khăn càng nhiều,
Hạnh Ngô – PR32
càng khắc phục được, thì sự nỗ lực ý chí càng cao, ông bất chấp vết thương rỉ máu, bất chấp tính mạng
của mình. Sự vĩ đại và uy lực của ông chính là ở chỗ biết huy động toàn bộ sức mạnh thể chất, tinh thần và
xúc cảm, vượt hết trở ngại này đến trở ngại khác một cách liên tục và có mục đích.
Không phải ngẫu nhiên lịch sử nói với chúng ta rằng, cuộc đời của tuyệt đại đa số các vĩ nhân thường phải
tiến hành đấu tranh đến cao độ, phải khắc phục vô vàn những trở ngại trên đường bằng cách huy động
toàn bộ sức mạnh ý chí của mình!
+ Giai đoạn đánh kết quả: PĐG đã đánh giá được kết quả của việc mình đang làm, là mình sẽ hy sinh
nhưng sự hy sinh ấy là vĩ đại, sự hy sinh của ông sẽ giúp được Đại đội 58 hoàn thành nhiệm vụ, sẽ hạn chế
sự hy sinh của đồng đội nếu như lô cốt số 3 không còn tồn tại, sự hy sinh của ông sẽ làm nên chiến thắng
Him Lam, mở màn cho chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.
3) Kết luận :
+ Ba giai đoạn trên của 1 hành động ý chí có liên quan hữu cơ, tiếp nối nhau và bổ sung cho nhau.

+ Muốn có hành động ý chí thì ta phải có động lực và nguồn tạo nên động lực đó là ý chí.
+ Muốn có kết quả hành động ý chí tốt thì phải có mục đích và xác định được mục đích hành động đồng
thời phải lập kế hoạch để biết mình cần làm những gì.
+ Hãy biết chấp nhận khó khăn như một phần tất yếu trên con đường đến thành công.
+ Sau khi hành động thì hãy so sánh kết quả mình vừa đạt được với mục tiêu ban đầu mình đã đạt ra để rút
ra kinh nghiệm.
4) Để rèn luyện hành động ý chí:
- Luôn tạo cho mình những lý tưởng sống cao đẹp, luôn lạc quan yêu đời và tham gia nhiều vào các hoạt
động xã hội.
- Nên chơi với những ai biết làm gì khi mình không biết làm gì.
- Phải luôn có mơ ước và phải luôn tạo động lực để thực hiện ước mơ.
- Phải luôn nhìn lên, suy nghĩ và hành động theo hướng tích cực.
- Phải luôn kiên trì và vững bước trước khó khăn.
-Hãy coi cái khó và sự thất bại là cơ hội để ta đi tiếp, để kiểm tra lại chính mình, luôn nhớ rằng thất bại là
mẹ thành công.
Câu 8: Phân tích mối quan hệ giữa ba mặt hoạt động tâm lý cơ bản của cá nhân (Nhận thức - Tình cảm - Ý
chí). Cho ví dụ minh hoạ.
1) Khái niệm tình cảm:
- Tình cảm là những thái độ cảm xúc ổn định của mỗi cá nhân đối với sự vật, hiện tượng, nó phản ánh ý nghĩa
của chúng trong mối liên hệ với nhu cầu và động cơ của con người. Tình cảm là sản phẩm cao cấp của sự phát
triển các quá trình xúc cảm trong điều kiện xã hội.
- Tình cảm là sự phản ánh tâm lý dưới dạng thái độ mà con người thể hiện đối với những gì mà người đó đang
nhận thức với người khác vad với cả chính bản than mình có lien quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn
nhu cầu cá nhân.
- Ví dụ: tình cảm gia đình, tình cảm bạn bè, tình cảm thầy cô, tình yêu
Một người mẹ có thể làm tất cả những gì có thể để chăm sóc con, nuôi con khôn lớn, sắn sàng hi sinh tính mạng
của mình để bảo vệ con của mình.
2) Khái niệm nhận thức :
- Nhận thức là quá trình phản ánh năng động và sáng tạo hiện thực khách quan vào bộ não con người. Nhờ hoạt
động nhận thức, chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh mà còn phản ánh cả hiện thực xung quanh

Hạnh Ngô – PR32
mình, không chỉ “ cái bên ngoài mà cả bản chất bên trong, các mối quan hệ mang tính qui luật chi phối sự vận
động, phát triển các sự vật hiện tượng , không chỉ phản ánh cái hiện tại mà cái đã qua và cái sẽ tới. Hoạt động
này bao gồm nhiều quá trình khác nhau , thể hiện nhiều mức độ phản ánh hiện thực khách quan và mang lại
những sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan .
Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành hai mức độ:
- Nhận thức cảm tính: phản ánh thuộc tính bên ngoài( cảm giác và tri giác). Ví dụ : khi
nhìn thấy một chiếc máy tính xách tay thì nhận thức cảm tính cho chúng ta thấy được
màu sắc, kích thước , nhãn hiệu của chiếc máy tính
- Nhận thức lí tính: phản ánh thuộc tính bên trong, bản chất của sự vật.
Ví dụ: khi nhìn thấy chiếc máy tính xác
3) Ý chí:
- Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải
có sự nỗ lực khắc phục khó khăn.
- Ý chí là phẩm chất tâm lí của cá nhân, nó phản ánh hiện thực khách quan của não dưới dạng mục đích của
hành động. Nhưng mục đích này không phải tự nó mà có mà do điều kiện của hiện thực khách quan quy định
-Ý chí bao giờ cũng là ý chí của con người cụ thể và luôn luôn biểu hiện ở hành động. Khi nói đến ý chí tất yếu
phải nói đến hành động. Hành động này gọi là hành động ý chí
( Nói đến ý chí là nói đến năng lực điều khiển hành vi của mình, năng lực khắc phục những khó khăn trên
đường đi tới mục đích. Trong điều khiển học, ý chí được định nghĩa như một khái niệm trò chơi. Nó phản ánh
những tình huống của cuộc đấu tranh sống còn. Không có đấu tranh, không có sự chống trả trong bản thân mỗi
con người thì cũng không cần thiết tới sự nỗ lực ý chí.)
Mối quan hệ giữa nhận thức, tình cảm và ý chí:
*) Tình cảm được nảy sinh trên cơ sở những xúc cảm của con người trong quá trình nhận thức đối tượng. Hay
nói cách khác, yếu tố nhận thức, rung động và phản ứng cảm xúc là ba yếu tố làm nảy sinh tình cảm. Trong đó,
nhận thức được xem là “cái lý” của tình cảm, nó làm cho tình cảm có tính đối tượng xác định.
Được biểu hiện ở chỗ những nguyên gây nên tình cảm thường được chủ thể nhận thức rõ ràng. Yếu tố nhận
thức, cững giống như sự rung động, sự phản ứng xúc cảm là yếu tố tất yếu để nảy sinh tình cảm.
• Ví dụ: khi tôi bắt gặp một người ăn xin tới xin tiền thì tôi sẽ cho người đó trong mức có thể của
mình, nhưng nếu người đó còn đủ sức lao động thì tôi sẽ cân nhắc lại.

Trong cuộc sống, ta cần nhận thức rõ điều mà mình nên làm, mình cho là đúng cũng như trường hợp trên,
mình là sinh viên mà đi cho người còn đủ sức lao động tiền thì thật vô nghĩa, càng làm cho họ lười biếng hơn.
→ Ta cần nhận thức rõ điều mà mình nên làm, mình cho là đúng, cần làm và làm chủ tình cảm của bản thân
mình.
*) Tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con người tìm tòi chân lí. Ngược lại, nhận thức là cơ sở, là
cái lí của tình cảm, cái lí chỉ đạo tình, lí và tình là hai mặt của một vấn đề nhân sinh quan thống nhất của con
người.
• Ví dụ: Người ta nói: “Cái khó ló cái khôn” trong cái khó khăn của cuộc sống, con người ý thức
được khó khăn của mình, nhận thức đúng đắn để cố vươn lên trong cuộc sống, vượt lên chính
mình.
Con người muốn vượt lên số phận thì phải biết nhận thức, có nhận thức rõ ràng để phân biệt cái gì đúng và
cái gì sai, cái gì nên làm và cái gì nên tránh.
=> - Nhận thức chỉ ra phương hướng cho sự phát triển của tình cảm.
- Nhận thức làm cho tình cảm sâu sắc hơn, vững chắc hơn, đó là cơ sở lý trí của tình cảm.
- Tình cảm thúc đẩy quá trình nhận thức.
- Tình cảm cho phối quá trình nhận thức, chi phối việc lựa chon đối tượng nhận thức, làm cho quá trình
nhận thức rõ ràng hơn hay mờ nhạt đi hoặc có thể làm biến dạng các đối tượng của nhận thức
- Ý chí chỉ có ở con người vì chỉ có con người mới có ý thức.
Hạnh Ngô – PR32
- Ý chí có mối quan hệ mật thiết với nhận thức và tình cảm.
Câu 9: Phân biệt các khái niệm con người, cá nhâ, cá tính, nhân cách. Cho ví dụ minh họa
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học (triết học , xã hội học, đạo đức học, thẩm mỹ học,
văn hóa giáo dục học, tâm lý học ). Việc nghiên cứu nhân cách là vấn đề trọng tâm của tâm lý học,
nhưng để nắm rõ được về nhân cách, chúng ta phải biết phân biệt một số khái niệm sau thường dùng để
chỉ con người.
- Con người: là một tồn tại sinh vật ở bậc thang cao nhất của tiến hóa vật chất. Nhứng đặc điểm cơ thể của
nó là tiền đề vật chất quan trọng cho sự phát triển các chức năng tâm lý. Đồng thời, con người cũng là 1
tồn tại xã hội, tất cả những thuộc tính tự nhiên với chức năng của nó chỉ được phát triển và hoàn thiện
trong quá trình con người sống. Khái niệm con người là một khái niệm rất rộng, dùng để chỉ mọi cá thể.
Ví dụ: người Châu Á, người Châu Âu, hay đàn ông, phụ nữ,

- Cá nhân: là một con người cụ thể, là một thành viên của một cộng đồng xã hội nhất định. Cá nhân cũng
là 1 thực thể sinh vật - xã hội và văn hóa, nhưng được xem xét 1 cách cụ thể riêng từng người với những
đặc điểm về sinh lý, tâm lý và xã hội để phân biệt nó với các cá nhân khác, với cộng đồng.
Ví dụ trong 1 tập thể của 1 lớp học, thì bạn A là một cá nhân, bạn B là một cá nhân khác , hay trong 1
công ty thì mỗi nhân viên sẽ là một cá nhân.
- Cá tính: là tính đơn nhất, độc đáo, có một không ai về đặc điểm sinh lý, tâm lý của cá thể động vật hoặc
cá thể người. Hay nói cách khác, nếu xét trên phương diện con người, thì cá tính là đặc điểm riêng biệt của
cá nhân, không lặp lại ở người khác, có thể dùng đẻ phân biệt người này với người khác.
Trước tiên, ví dụ về đặc điểm sinh lý: một cậu bé bị tai nạn bỏng và để lại 1 vết sẹo hình bán nguyệt trên
cách tay trái, đó là 1 đặc điểm mà chỉ riêng cậu bé mới có. Còn về cá tính trong đặc điểm tâm lý, ví dụ như
là trong 1 câu lạc bộ của trường có nhiều thành viên, họ sẽ có những tính cách khác biệt nhau, người này
rất nóng nảy, trong khi người kia thì luôn có khả năng giữ bình tĩnh trước mọi tình huống, hoặc người này
là con gái mà đá bóng rất giỏi, thích các trò mạo hiểm như leo núi, nhào lộn, lướt ván
- Nhân cách: là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân nói lên bộ mặt tâm lý - xã
hội, bản sắc cá nhân, qui định giá trị xã hội và hành vi xã hội của họ. Hay nói cách khác, nhân cách là giá
trị cốt cách làm người của mỗi con người, nó thể hiện ở năng lực và tính cách ở mỗi cá nhân.
Ví dụ bác sĩ P là một bác sĩ rất tài giỏi, tận tình, cẩn thận, yêu thương và chăm sóc bệnh nhân như người
thân của mình. Hay có cô gái kia tính tình hiền lành, hòa nhã và lễ phép với mọi người. Đó là những phẩm
chất thể hiện được giá trị của những con người đó, và có thể ảnh hưởng, chi phối những hoạt động mà họ
hằng ngày thực hiện.
Câu 10: Phân tích đặc điểm của nhân cách.
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân nói lên bộ mặt tâm lý –
xã hội, bản sắc cá nhân và hành vi xã hội của người đó.
Hạnh Ngô – PR32
1, Tính thống nhất của nhân cách
- Nhân cách là chỉnh thể thống nhất của tất cả mọi thuộc tính, đặc điểm, phẩm chất tâm lý, giữa phẩm
chất và năng lực, giữa đức và tài, trong đó mỗi nét nhân cách đều liên quan không tách rời những nét
nhân cách khác.
VD: Trong lòng yêu nước có: yêu lao động, yêu con người, yêu quê hương đất nước, có tinh thần
chống giặc ngoại xâm…

- Trong nhân cách có sự thống nhất hài hoà giữa 3 cấp độ: cấp độ bên trong,cấp độ liên nhân cách, cấp
độ siêu nhân cách. Đó là sự thống nhất giữa tâm lý, ý thức với hoạt động và giao tiếp.
VD: “ Nói đi đôi với làm” thể hiện được sự thống nhất giữa ý thức với hoạt động.
Kết luận:
• Muốn đánh giá nhân cách của một con người thì xem xét từ nhiều khía cạnh, nhiều nguồn thông
tin khác nhau.
• Muốn đánh giá một nét nhân cách nào đó thì phải liên hệ tới các nét nhân cách khác.
• Mỗi cá nhân cần phải hình thành và phát triển đồng thời tất cả các nét nhân cách.
2, Tính ổn định của nhân cách
- Nhân cách được hình thành và phát triển trong suốt cuộc đời một người thông qua hoạt động và giao
lưu, nó tương đối khó hình thành và cũng khó mất đi.
- Trong thực tế, từng nét nhân cách có thể biến đổi chuyển hoá nhưng nhìn một cách tổng thể thì
chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn của nhân cách, tương đối ổn định, ít nhất là trong một
khoảng thời gian nào đó của con người.
VD: Dân gian có câu:
“ Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”
“ Cái nết đánh chết vẫn còn”
Kết luận:
• Nhân cách có tính ổn định vì thế mà một người đang tốt không thể xấu ngay được và ngược lại.
Từ sự ổn định đó chúng ta có thể dự kiến trước được hành vi của một nhân cách nào đó trong tình
huống hoàn cảnh cụ thể.
• Cần phải biết nắm bắt nhân cách của bản thân cũng như của người khác thì quá trình hoạt động
và giao tiếp của bản thân sẽ thuận lợi hơn.
3, Tính tích cực của nhân cách
- Nhân cách là sản phẩm của xã hội, nó vừa là khách thể vừa là chủ thể của các mối quan hệ xã hội nên
nhân cách mang tính tích cực.
VD: Về việc sinh viên Học Viện Hành Chính tham gia vào các phong trào Đoàn, Hội… thì nhân
cách của mỗi sinh viên vừa chịu tác động đồng thời tác động tới những nhân cách khác cùng tham gia.
- Giúp con người ý thức được đồng thời biến đổi, cải tạo được thế giới xung quanh cũng như cải tạo
bản thân mình.

VD: Khi sinh viên tham gia vào các hoạt động Đoàn, Hội … thì họ vừa cải tạo được bản thân
bằng cách học hỏi , tiếp thu…những điểm tốt từ nhiều nhân càch khác nhau, đồng thời vừa cải tạo
được thế giới – đó là mọi người cũng học hỏi tiếp thu…những điểm tốt từ mình.
- Thể hiện được giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân.
VD: thông qua quá trình hoạt động như vậy thì nhân cách của mỗi sinh viên sẽ được bộc lộ và
người khác sẽ đánh giá được mình là người như thế nào. Đồng thời qua đó mỗi người đều có thể phát
triển thêm nhiều mối quan hệ xã hội.
Kết luận:
• Cần tích cực tham gia vào các hoạt động
• Tổ chức nhiều hoạt động và tạo điều kiện để mọi người tham gia vào các hoạt động.
Hạnh Ngô – PR32
• Biết phát huy những điểm tích cực và hạn chế những điểm tiêu cực khi tham gia vào các hoạt
động.
4, Tính giao lưu của nhân cách
Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại, thể hiện trong hoạt động, trong mối quan hệ
giao lưu với những nhân cách khác. Nhân cách không thể phát triển bên ngoài sự giao lưu.Thông qua
giao lưu con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá
trị xã hội. Qua đó mỗi cá nhân được đánh giá, được nhìn nhận theo quan điểm xã hội.
VD: dân gian có câu:
“Đi một ngày đàng học một sàng khôn
“Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”
Kết luận:
• Cần phải tích cực tham gia vào các hoạt động ngoài xã hội
• Cần phải tạo mọi điều kiện để mọi người tham gia vào các hoạt động để có sự giao lưu giữa
nhiều nhân cách với nhau.
• Đồng tjời biết phát huy những điểm tốt và khắc phục những hạn chế đang mắc phải khi giao lưu,
tham gia vào các hoạt động.
• Cần phải tích cực rèn luyện kỹ năng giao tiếp
III: KẾT LUẬN CHUNG

→ Mỗi người đều có một nhân cách riêng biệt vì vậy chúng ta cần phải biết phát huy, phát triển
cũng như hoàn thiện nhân cách của bản thân.
→ Cần tổ chức nhiều hoạt động đa dạng và phong phú trong cuộc sống và công tác
→ Cần tích cực tham gia vào các hoạt động
→ Cần nắm bắt được tâm lý, nhân cách của người khác để có thể đối nhân xử thế phù hợp.
Câu 11: Phân tích vai trò của các yếu tố có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách (giáo
dục, hoạt động, giao tiếp, tập thể).
Nhân cách không phải được sinh ra cùng với sự ra đời của mỗi cá nhân. Nhân cách là cấu tạo tâm lý mới được
hình thành và phát triển trong quá trình sống – hoạt động, giao tiếp… của cá nhân. Trong quá trình hình thành
nhân cách thì giáo dục, hoạt động, giao tiếp, tập thể có vai trò quyết định tạo nên những con đường cơ bản để
hình thành và phát triển nhân cách. Ngoài ra còn có các yếu tố khác cũng ảnh hưởng tới sự hình thành và phát
triển nhân cách đó là yếu tố di truyền bẩm sinh và yếu tố môi trường
1. Yếu tố giáo dục
Khái niệm: Giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ động đến
con người đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lý ý thức nhân cách.
Vai trò: Trong sự hình thành và phát triển nhân cách thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo, vai trò đó được thể hiện
như sau:
• Vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách, dẫn dắt nhân cách hình thành
và phát triển theo mô hình nhân cách xã hội
• Qua giáo dục con người lĩnh hội nền văn hóa xã hội – lịch sử để tạo nên nhân cách của mình
• Thông qua giáo dục thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau tiếp thu nền văn minh văn hóa xã hội.
• Phát huy tối đa các mặt mạnh, các yếu tố chi phối sự hình thành nhân cách (bẩm sinh di truyền,
hoàn cảnh sống ) đồng thời bù đắp những thiếu hụt, những hạn chế của yếu tố đó
Hạnh Ngô – PR32
• Có thể uốn nắn sai lệch của nhân cách về 1 mặt nào đó so với các chuẩn mực xã hội, làm cho nó
phát triển theo chiều hướng xã hội mong muốn
• Có khả năng đi trước hiện thực, trong khi các yếu tố khác chỉ có thể ảnh hưởng đến con người ở
mức độ hiện có mà thôi
Ví dụ: Những học sinh có tư chất tốt, sống trong môi trường tốt nhưng không được giáo dục thì không
thể phát triển thành năng lực, tài năng.

“…Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên ”
Tuy vậy, không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục , giáo dục chỉ có thể phát huy tối đa vai trò chủ
đạo trong điều kiện có tổ chức , hướng dẫn cá nhân tham gia hoạt động và giao tiếp với tư cách là chủ
thể.
2. Hoạt động và nhân cách.
Khái niệm: Hoạt động là những phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự
hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. Đó là hoạt động có mục đích, mang tính chất xã hội, cộng
đồng, được thể hiện bằng những thao tác và công cụ nhất định.
Vai trò: là yếu tố quan trọng bậc nhất và mang tính chất quyết định đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách.
- Thông qua hoạt động con người lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội – lịch sử để hình thành nhân cách
- Mỗi loại hoạt động đều đề ra cho con người những yêu cầu nhất định, đòi hỏi ở con người những
phẩm chất nhất định. Khi tích cực tham gia vào hoạt động con người sẽ hình thành nên những phẩm
chất đó
- Qua hoạt động con người chuyển hóa phẩm chất, năng lực của mình thành sản phẩm của hoạt động.
Nhờ vậy con người đã tạo nên sự “đại diện nhân cách” của mình ở người khác, trong xã hội
- Nhờ có hoạt động cá nhân mà những tác động giáo dục có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức mới trở
nên hiệu quả. Cho nên chỉ khi nào cá nhân nhận thức được ý nghĩa của hoạt động trong sự hình thành
và hoàn thiện nhân cách của mình thì hoạt động cá nhân mới trở thành hoạt động tự giáo dục
Kết luận sư phạm
- Muốn hình thành nhân cách, con người phải tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau, trong đó
đặc biệt chú ý tới hoạt đồng chủ đạo
- Phải lựa chọn, tổ chức và hướng dẫn các hoạt động đảm bảo tính giáo dục và hiệu quả đối với việc
hình thành và phát triển nhân cách.
- Việc đánh giá hoạt động là rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách. Việc đánh giá sẽ
chuyển dần thành tự đánh giá, giúp con người thấm nhuần những chuẩn mực, những biểu giá trị xã
hội, trở thành lương tâm của con người.
Ví dụ
Cách dễ nhất để kết hợp cả việc học và chơi với nhau là nên thông qua những hoạt động hàng ngày

của trẻ em.
Trẻ có thể học được rất nhiều bài học thông qua việc phân loại quần áo. Hãy để trẻ giúp mẹ phân loại
những bộ quần áo lớn nhỏ, màu sắc quần áo cũng như kiểu quần áo để mẹ đem đi giặt. Nếu trên một
cái áo có in hình một chữa cái nào đó, hãy chỉ cho bé biết đó là chữ gì. Và lần sau khi bé mặc chiếc áo
đó bé sẽ nhận ra ngay đó là chữ cái gì.
Hạnh Ngô – PR32
Tuy nhiên nếu trẻ không tham gia vui chơi với bạn bè, không bắt chước những hành vi, cách xử sự của
người lớn, không học tập thì trẻ sẽ không thể phát triển đầy đủ những phẩm chất và năng lực của nhân
cách. Vì vậy, người lớn cần phải hướng dẫn, tổ chức và lôi kéo trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động
để giúp hình thành và phát triển nhân cách trẻ.
5. Giao tiếp và nhân cách
Khái niệm: Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người, là nhu cầu cơ bản xuất hiện
sớm nhất ở con người.
Vai trò: Cùng với hoạt động, giao tiếp cũng là con đường quyết định trực tiếp đến sự hình thành và
phát triển của nhân cách
- Là điều kiện tồn tại và là 1 nhân tố phát triển nhân cách. Cá nhân sống mà không có giao tiếp hoặc
giao tiếp quá nghèo nàn, hạn chế thì nhân cách không thể hình thành và phát triển được
- Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực.
Đóng góp tài lực vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại.
- Qua giao tiếp con người nhân thức bản thân mình, đối chiếu so sánh mình với người khác, với các
chuẩn mực xã hội. tự đánh giá bản thân mình như 1 nhân cách để hình thành thái độ giá trị - xúc cảm
nhất định đối với bản thân mình
- Thúc đẩy sự hình thành ở con người những hứng thú nhận thức khác nhau, điều này có thể làm đòn
bẩy dẫn đến sự tự đào tạo
Ví dụ: Khi giao tiếp thì ta sẽ biết được cách thức giao tiếp của người đó. Từ đó hình thành khả năng
giao tiếp riêng cho bản thân mình. Khi mình giao tiếp với nhiều đối tượng, với nhiều người thì ta sẽ rút
ra được nhiều kinh nghiệm cho việc giao tiếp của mình.
6. Tập thể và nhân cách.
Khái niệm: Nhân cách được hình thành trong môi trường xã hội cụ thể: gia đình, làng xóm, quê
hương, khu phố… mà nó là thành viên. Ở những môi trường sống cụ thể đó con người luôn hoạt

động và giao tiếp trong các nhóm. Nhóm là 1 tập hợp những người được thống nhất lại theo những
mục đích chung. Tập thể là một nhóm người, một bộ phận xã hội được thống nhất lại theo những
mục đích chung, phục tùng các mục đích của xã hội.
Vai trò: nhóm và tập thể có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
• Nhóm, tập thể là nơi diễn ra các hình thức hoạt động đa dạng, phong phú (vui chơi,
học tập, lao động, xã hội) tạo điều kiện để cá nhân tham gia vào, qua đó nhân cách
hình thành và phát triển
• Ảnh hưởng của xã hội, của các mối quan hệ xã hội cũng thông qua nhóm mà tác động
tới từng cá nhân. Ngược lại, mỗi cá nhân tác động tới cộng đồng, tới xã hội, tới cá
nhân khác cũng thông qua các tổ chức nhóm và tập thể mà nó là thành viên.
• Nhóm, tập thể đưa ra các yêu cầu, chuẩn mực đối với các thành viên trong tập thể
• Tập thể còn tạo tiền đề cho mỗi cá nhân thể hiện, phát triển các phẩm chất, năng lực
của mình thông qua những nội dung hoạt động phong phú của tập thể
• Trong môi trường tập thể những hiện tượng tâm lý của tập thể có ảnh hưởng to lớn đến
sự hình thành, phát triển nhân cách
Hạnh Ngô – PR32
VD: Chẳng hạn, nội quy của lớp đề ra cho mỗi sinh viên trong lớp phải thực hiện như đi học đúng
giờ, trật tự trong lớp, chuẩn bị bài vở khi đến lớp…
Ví dụ: Khi một bạn sinh viên sống trong kí túc xá, đó là một môi trường tập thể. Ban đầu thì bạn đó
chưa thích nghi với môi trường kí túc xá, nhưng sau này sống lâu và dần dần hình thành thói quen
sống theo tập thể.
III. Kết luận.
1 Trong cuộc sống tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần nhân cách cá nhân thông qua việc
cá nhân tự ý thức, tự rèn luyện, tự giáo dục….nhân cách của mình ở trình độ phát triển
cao hơn.
2 Các cá nhân tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội khác nhau.
3 Cần rèn luyện khả năng giao tiếp cho bản thân để gia nhập vào các quan hệ xã hội,
chuẩn mực. Đóng góp tài lực vào kho tàng nhân loại.
4 Cần tham gia vào các hoạt động tập thể như: vui chơi, học tập, lao động, xã hội
5 Cần phải giao tiếp với mọi người xung quanh, với cộng đồng để tiếp thu kinh nghiệm

cho bản thân để dần hoàn thiện nhân cách cá nhân.
6 Hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách, nên
trong công tác giáo dục cũng như trong các hoạt động khác cần chú ý thay đổi làm
phong phú nội dung, hình thức, cách tổ chức hoạt động, sao cho lôi cuốn thực sự cá
nhân tham gia hoạt động tích cực, tự giác vào các hoạt động đó.
7 Trong giao tiếp con người còn nhận thức chính bản thân mình, tự đối chiếu, so sánh
với người khác, với chuẩn mực của xã hội. Hình thành năng lực tự đối chiếu.
Câu 12: Phân biệt nhu cầu và hứng thú. Cho ví dụ minh hoạ.
A. Nhu cầu
1.Khái niệm nhu cầu
Nhu cầu là đòi hỏi tất yếu mà con người cảm thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển.
 tất cả mọi hoạt động sống của con người đều nhằm thỏa mãn hàng loạt nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống
con người
2. Phân loại nhu cầu
Nhu cầu của con người rât phong phú và đa dạng. Song thông thường nhất người ta thường chia nhu cầu làm 2
loại như sau
- Nhu cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại cơ thể, đây là những nhu cầu cơ sở và sơ đẳng nhất của con người.
Vd: ăn uống, ở, mặc,…
Chính nó thúc đẩy hoạt đông lao đông và sáng tạo của con người, làm ra của cải vật chất.
Nhu cầu vật chất là nhu cầu cơ bản nhất của con người, nếu nhu cầu này không đươc đáp ứng thì các nhu cầu
khác thì khó có thể đạt được.
- Nhu cầu tinh thần là những nhu cầu có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của đời sống tinh thần như nhu
cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mĩ, nhu cầu đạo đức, nhu cầu giao tiếp
Vd: nghe một bài hát hay, xem một bức tranh đẹp thì ta đã thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ.
Vd: sinh viên đang ngồi trên ghế giảng đường đại học cũng có nghĩa là bạn đang đáp ứng nhu cầu hiểu biết.
Vd: ta cần trao đổi, tâm sự hay nói chuyện với người thân, bạn bè và mọi người để phát triển các mối quan hệ
trong xã hội đó là nhu cầu giao tiếp.
Hạnh Ngô – PR32

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN TÂM LÝ HỌC CHUẨN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.47 KB, 26 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN TÂM LÝ
Câu 1: Trình bày tính chủ thể của tâm lý người theo quan điểm của
tâm lý học duy vật biện chứng và đưa ra các bài học sư phạm cần thiết
về vấn đề này.
Tâm lý học duy vật biện chứng khẳng định: Tâm lý người là sự phản
ánh hiện thức khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lý người
có bản chất xã hội – lịch sử.
Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiện ở chổ:
- Cùng nhận một sự tác động của thế giới nhưng ở những chủ thể
khác nhau cho ta những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái biểu
hiện khác nhau.
- Cùng một hiện thực khách quan tác động đến một chủ thể duy nhất
nhưng vào thời điểm khác nhau, với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh thần
khác nhau, có thể cho ta hình ảnh tâm lý có mức độ và sắc thái biểu hiện
tâm lý khác nhau ở chủ thể ấy.
- Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận, cảm
nghiệm và thể hiện hình ảnh tâm lý đó rõ nhất và thông qua các mức độ và
sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác nhau đối
với hiện thức. VD …
*Kết luận sư phạm
- Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não nên khi
nghiên cứu tâm lý con người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó có con
người sống và hoạt động.
- Hình ảnh, phát triển tâm lý tích cực cần phải xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh để mọi người sống và hoạt động trong đó.
- Tâm lý người mang đậm tính chủ thể vì vậy dạy học và giáo dục
cần phải chú ý đến đặc điểm riêng của từng người, nghĩa là phải chú ý đến
đặc điểm riêng của mỗi người để có những tác động phù hợp, không nên
áp đặt người này phải giống người kia.
1
ĐỀ CƯƠNG MÔN TÂM LÝ


Câu 1: Trình bày tính chủ thể của tâm lý người theo quan điểm của
tâm lý học duy vật biện chứng và đưa ra các bài học sư phạm cần thiết
về vấn đề này.
Tâm lý học duy vật biện chứng khẳng định: Tâm lý người là sự phản
ánh hiện thức khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lý người
có bản chất xã hội – lịch sử.
Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiện ở chổ:
- Cùng nhận một sự tác động của thế giới nhưng ở những chủ thể
khác nhau cho ta những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái biểu
hiện khác nhau.
- Cùng một hiện thực khách quan tác động đến một chủ thể duy nhất
nhưng vào thời điểm khác nhau, với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh thần
khác nhau, có thể cho ta hình ảnh tâm lý có mức độ và sắc thái biểu hiện
tâm lý khác nhau ở chủ thể ấy.
- Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận, cảm
nghiệm và thể hiện hình ảnh tâm lý đó rõ nhất và thông qua các mức độ và
sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác nhau đối
với hiện thức. VD …
*Kết luận sư phạm
- Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não nên khi
nghiên cứu tâm lý con người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó có con
người sống và hoạt động.
- Hình ảnh, phát triển tâm lý tích cực cần phải xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh để mọi người sống và hoạt động trong đó.
- Tâm lý người mang đậm tính chủ thể vì vậy dạy học và giáo dục
cần phải chú ý đến đặc điểm riêng của từng người, nghĩa là phải chú ý đến
đặc điểm riêng của mỗi người để có những tác động phù hợp, không nên
áp đặt người này phải giống người kia.
1
Câu 2: Trình bày bản chất xã hội lịch sử của tâm lý người theo quan điểm

của tâm lý học duy vật biện chứng và đưa ra các bài học sp cần thiết về vấn
đề này
Bản chất xã hội lịch sử của tâm lý người thể hiện:
- Tâm lý người có nguồn gốc xã hội, biểu hiện: Tâm lý người là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào não của mỗi người. Hiện thực khách quan bao
gồm: hiện thực tự nhiên và hiện thực xã hội, trong đó hiện thực xã hội là cái
quyết định đến tâm lý người. Ngay cả phần tự nhiên trong thế giới cũng được
xã hội hóa (được bàn tay con người cải biến theo cách của họ). Phần xã hội của
thế giới quyết định tâm lý người thể hiện qua: các mối quan hệ về kinh tế - xã
hội, các quan hệ đạo đức, pháp quyền, quan hệ người – người từ các quan hệ
gia đình, làng xóm, đến các nhóm, cộng đồng ., Tất cả các mối quan hệ trên
quyết định đến bản chất tâm lý người. Nên sống và hoạt động nơi có các mối
quan hệ xã hội càng đa dạng càng phong phú, đời sống xã hội, nền văn hóa xã
hội càng phát triển. Và con người sống trong điều kiện xã hội nào sẽ mang
những đặc điểm của xã hội ấy.
- Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người
trong các mối quan hệ xã hội. Thông qua hoạt động và giao tiếp với tư cách là
chủ thể, một mặt con người đã biến kinh nghiệm lịch sử - xã hội, nền văn hóa
xã hội của các thế hệ đi trước thành kinh nghiệm, tri thức cho riêng mình qua
cơ chế lĩnh hội. Mặt khác con người còn là một chủ thể tích cực, sáng tạo trong
hoạt động cải biến tâm lý làm cho nó mang đầy đủ các dấu ấn xã hội, lịch sử
của con người.
- Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn
sống, vốn kinh nghiệm, nên văn hóa xã hội thông qua hoạt động, giao tiếp …
trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo còn hoạt động và giao tiếp giữ vai trò
quyết định.
- Tâm lý của mỗi người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự
phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lý của mỗi
con người chịu sự chế ước bởi lịch sử của cá nhân và cộng đồng.
* Kết luận sư phạm

- Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu kinh
nghiệm xã hội, nền văn hóa thông qua giao tiếp: hoạt động vui chơi, lao động
… trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo hoạt động của con người.
- Tâm lý mỗi người được hình thành, phát triển và biến đổi cùng với lịch
sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Cần phải tổ chức có hiệu quả hoạt
động dạy học và giáo dục cũng như các hoạt động chủ đạo, hoạt động tập thể ở
từng lứa tuổi để hình thành và phát triển tâm lý cho thế hệ trẻ.
- Cần phải nhìn nhận con người ở góc độ vận động và phát triển
- Tâm lý có nguồn gốc xã hội vì thế phải nghiên cứu môi trường xã hội
các mối quan hệ xã hội trong đó con người sống và hoạt động.
2
Câu 2: Trình bày bản chất xã hội lịch sử của tâm lý người theo quan điểm
của tâm lý học duy vật biện chứng và đưa ra các bài học sp cần thiết về vấn
đề này
Bản chất xã hội lịch sử của tâm lý người thể hiện:
- Tâm lý người có nguồn gốc xã hội, biểu hiện: Tâm lý người là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào não của mỗi người. Hiện thực khách quan bao
gồm: hiện thực tự nhiên và hiện thực xã hội, trong đó hiện thực xã hội là cái
quyết định đến tâm lý người. Ngay cả phần tự nhiên trong thế giới cũng được
xã hội hóa (được bàn tay con người cải biến theo cách của họ). Phần xã hội của
thế giới quyết định tâm lý người thể hiện qua: các mối quan hệ về kinh tế - xã
hội, các quan hệ đạo đức, pháp quyền, quan hệ người – người từ các quan hệ
gia đình, làng xóm, đến các nhóm, cộng đồng ., Tất cả các mối quan hệ trên
quyết định đến bản chất tâm lý người. Nên sống và hoạt động nơi có các mối
quan hệ xã hội càng đa dạng càng phong phú, đời sống xã hội, nền văn hóa xã
hội càng phát triển. Và con người sống trong điều kiện xã hội nào sẽ mang
những đặc điểm của xã hội ấy.
- Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người
trong các mối quan hệ xã hội. Thông qua hoạt động và giao tiếp với tư cách là
chủ thể, một mặt con người đã biến kinh nghiệm lịch sử - xã hội, nền văn hóa

xã hội của các thế hệ đi trước thành kinh nghiệm, tri thức cho riêng mình qua
cơ chế lĩnh hội. Mặt khác con người còn là một chủ thể tích cực, sáng tạo trong
hoạt động cải biến tâm lý làm cho nó mang đầy đủ các dấu ấn xã hội, lịch sử
của con người.
- Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn
sống, vốn kinh nghiệm, nên văn hóa xã hội thông qua hoạt động, giao tiếp …
trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo còn hoạt động và giao tiếp giữ vai trò
quyết định.
- Tâm lý của mỗi người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự
phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lý của mỗi
con người chịu sự chế ước bởi lịch sử của cá nhân và cộng đồng.
* Kết luận sư phạm
- Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu kinh
nghiệm xã hội, nền văn hóa thông qua giao tiếp: hoạt động vui chơi, lao động
… trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo hoạt động của con người.
- Tâm lý mỗi người được hình thành, phát triển và biến đổi cùng với lịch
sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Cần phải tổ chức có hiệu quả hoạt
động dạy học và giáo dục cũng như các hoạt động chủ đạo, hoạt động tập thể ở
từng lứa tuổi để hình thành và phát triển tâm lý cho thế hệ trẻ.
- Cần phải nhìn nhận con người ở góc độ vận động và phát triển
- Tâm lý có nguồn gốc xã hội vì thế phải nghiên cứu môi trường xã hội
các mối quan hệ xã hội trong đó con người sống và hoạt động.
2
Câu 3: Hoạt động là gì? Trình bày vai trò của hoạt động đối với sự
hình thành và phát triển tâm lý nhân cách. Hiểu biết này có ý nghĩa sư
phạm là gì?
Theo phương diện tâm lý học: Hoạt động là mối quan hệ tác động
qua lại giữa con người (chủ thể) và thế giới (khách thể), để tạo ra sản phẩm
cả về phía thế giới, cả về phía con người.
* Vai trò của hoạt động đối với sự hình thành và phát triển tâm lý

nhân cách:
Hoạt động đóng vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển
tâm lý và nhân cách cá nhân được biểu hiện thoogn qua quá trình hoạt
động con người tác động vào thế giới đồng thời cũng mang về cho mình
những hiểu biết mới về thế giới. Qua đó hình thành nên thái độ tương ứng
trong quá trình hoạt động của con người đồng thời gặp phải trở ngại khó
khăn đòi hỏi họ phải nỗ lực, khắc phục. Từ đó hình thành các phẩm chất ý
chí cũng như hoạt động con người vừa tương tác với đối tượng, vừa quan
hệ với chủ thể khác thông qua đó nhiều chức năng tâm lý khác hình thành
như: ngôn ngữ, hợp tác, cạnh tranh, chia sẽ.
- Qua hoạt động nhiều kỹ năng mới của con người được hình thành
và phát triển.
- Thông qua hoạt động con người biến đổi thế giới tạo ra sản phẩm
mới từ phía thế giới, từ những sản phẩm đó con người tự đánh giá được về
mình., Tạo những động lực mới để tiếp tục hoạt động.
Như vậy:Thông qua quá trình hoạt động các chức năng tâm lý con
người dần dần được hình thành. Con người càng hoạt động đa dạng, phong
phú và phức tạp thì các chức năng tâm lý của con người càng phát triển.Từ
đó hoạt động là quy luật tổng quát của sự hình thành và phát triển tâm lý.
*Kết luận sư phạm
- Khi tổ chức cho trẻ hoạt động cần phải cho trẻ chú ý đến nội dung
tính chất hoạt động (tốt và chưa tốt). Vì vậy cần phải có sự định hướng và
hướng dẫn trẻ lựa chọn tham gia vào các hoạt động tốt, tích cực, tránh các
hoạt động xấu.
- Đối với mỗi con người muốn hình thành và phát triển tâm lý cho
mình cũng cần tích cực tham gia nhiều mặt hoạt động , lựa chọn hoạt động
bổ ích lành mạnh. Tránh hoạt động sai trái.
3
Câu 3: Hoạt động là gì? Trình bày vai trò của hoạt động đối với sự
hình thành và phát triển tâm lý nhân cách. Hiểu biết này có ý nghĩa sư

phạm là gì?
Theo phương diện tâm lý học: Hoạt động là mối quan hệ tác động
qua lại giữa con người (chủ thể) và thế giới (khách thể), để tạo ra sản phẩm
cả về phía thế giới, cả về phía con người.
* Vai trò của hoạt động đối với sự hình thành và phát triển tâm lý
nhân cách:
Hoạt động đóng vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển
tâm lý và nhân cách cá nhân được biểu hiện thoogn qua quá trình hoạt
động con người tác động vào thế giới đồng thời cũng mang về cho mình
những hiểu biết mới về thế giới. Qua đó hình thành nên thái độ tương ứng
trong quá trình hoạt động của con người đồng thời gặp phải trở ngại khó
khăn đòi hỏi họ phải nỗ lực, khắc phục. Từ đó hình thành các phẩm chất ý
chí cũng như hoạt động con người vừa tương tác với đối tượng, vừa quan
hệ với chủ thể khác thông qua đó nhiều chức năng tâm lý khác hình thành
như: ngôn ngữ, hợp tác, cạnh tranh, chia sẽ.
- Qua hoạt động nhiều kỹ năng mới của con người được hình thành
và phát triển.
- Thông qua hoạt động con người biến đổi thế giới tạo ra sản phẩm
mới từ phía thế giới, từ những sản phẩm đó con người tự đánh giá được về
mình., Tạo những động lực mới để tiếp tục hoạt động.
Như vậy:Thông qua quá trình hoạt động các chức năng tâm lý con
người dần dần được hình thành. Con người càng hoạt động đa dạng, phong
phú và phức tạp thì các chức năng tâm lý của con người càng phát triển.Từ
đó hoạt động là quy luật tổng quát của sự hình thành và phát triển tâm lý.
*Kết luận sư phạm
- Khi tổ chức cho trẻ hoạt động cần phải cho trẻ chú ý đến nội dung
tính chất hoạt động (tốt và chưa tốt). Vì vậy cần phải có sự định hướng và
hướng dẫn trẻ lựa chọn tham gia vào các hoạt động tốt, tích cực, tránh các
hoạt động xấu.
- Đối với mỗi con người muốn hình thành và phát triển tâm lý cho

mình cũng cần tích cực tham gia nhiều mặt hoạt động , lựa chọn hoạt động
bổ ích lành mạnh. Tránh hoạt động sai trái.
3
Câu 4: Giao tiếp là gì? Trình bày vai trò của hoạt động đối với sự hình
thành và phát triển tâm lý nhân cách. Hiểu biết này có ý nghĩa sư phạm gì?
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa con người với con người, thông qua
đó, con người trao đổi với nhau về thông tin, về xúc cảm, tri giác lẫn nhau, ảnh
hưởng tác động qua lại với nhau.
Nói cách khác: Giao tiếp là quá trình xác lập và vận hành các quan hệ
người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể
khác.
Vai trò của giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển tâm lý nhân cách
- Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu
giao tiếp là nhu cầu xã hội cơ bản và xuất hiện sớm nhát ở con người, Nếu quá
trình giao tiếp bị hạn chế bởi phạm vi tiếp xúc, nội dung quá nghèo nàn thì nhất
định sẽ dẫn đến hậu quả rất nặng nề và dễ mắc bệnh gọi là bệnh đói giao tiếp.
- Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội phức tạp,
chiếm lĩnh nền văn hóa xã hội, quy tắc đạo đức xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực
xã hội để làm thành bản chất người trong mỗi con người, làm nên nhân cách
của chính mình.
- Khi tham gia vào quá trình giao tiếp con người nhận thức được chính
bản thân mình, từ đó hình thành năng lực tự đánh giá, tự ý thức, thông qua sự
so sánh mình, đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, với yêu
cầu xã hội, tự đánh giá mình như một nhân cách để hình thành một thái độ giá
trị - cảm xúc nhất định đối với bản thân để tự hoàn thiện mình theo mong muốn.
- Thông qua giao tiếp, con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng
chung của nhân loại, của xã hội và là cơ sở cho sự hình thành và phát triển cá
nhân.
Kết luận sư phạm:
- Để hình thành và phát triển tâm lý cho cá nhân thì mỗi người cần nhận

thức được và cần nỗ lực tham gia vào các hoạt động giao tiếp.
- Để hình thành và phát triển tâm lý cho học sinh người giáo viên cũng
cần phải tổ chức các hoạt động xã hội, cuộc giao tiếp xã hội để thu hút học sinh
tham gia.
- Người giáo viên thường xuyên giao tiếp với trẻ trong các hoàn cảnh cụ
thể, nói chậm, nói rõ ràng để trẻ hiểu về các chuẩn kiến thức khích lệ trẻ nói
bằng cách đặt ra các câu hỏi, tình huống, động viên cổ vũ cho trẻ phấn khỏi khi
thực hiện giao tiếp.
- Nội dung tính chất của cuộc giao tiếp đảm bảo định hướng cho trẻ tham
gia vào cuộc giao tiếp tích cực, lành mạnh, tránh cuộc giao tiếp không tích cực,
không đảm bảo tiêu chuẩn.
4
Câu 4: Giao tiếp là gì? Trình bày vai trò của hoạt động đối với sự hình
thành và phát triển tâm lý nhân cách. Hiểu biết này có ý nghĩa sư phạm gì?
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa con người với con người, thông qua
đó, con người trao đổi với nhau về thông tin, về xúc cảm, tri giác lẫn nhau, ảnh
hưởng tác động qua lại với nhau.
Nói cách khác: Giao tiếp là quá trình xác lập và vận hành các quan hệ
người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể
khác.
Vai trò của giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển tâm lý nhân cách
- Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu
giao tiếp là nhu cầu xã hội cơ bản và xuất hiện sớm nhát ở con người, Nếu quá
trình giao tiếp bị hạn chế bởi phạm vi tiếp xúc, nội dung quá nghèo nàn thì nhất
định sẽ dẫn đến hậu quả rất nặng nề và dễ mắc bệnh gọi là bệnh đói giao tiếp.
- Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội phức tạp,
chiếm lĩnh nền văn hóa xã hội, quy tắc đạo đức xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực
xã hội để làm thành bản chất người trong mỗi con người, làm nên nhân cách
của chính mình.
- Khi tham gia vào quá trình giao tiếp con người nhận thức được chính

bản thân mình, từ đó hình thành năng lực tự đánh giá, tự ý thức, thông qua sự
so sánh mình, đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, với yêu
cầu xã hội, tự đánh giá mình như một nhân cách để hình thành một thái độ giá
trị - cảm xúc nhất định đối với bản thân để tự hoàn thiện mình theo mong muốn.
- Thông qua giao tiếp, con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng
chung của nhân loại, của xã hội và là cơ sở cho sự hình thành và phát triển cá
nhân.
Kết luận sư phạm:
- Để hình thành và phát triển tâm lý cho cá nhân thì mỗi người cần nhận
thức được và cần nỗ lực tham gia vào các hoạt động giao tiếp.
- Để hình thành và phát triển tâm lý cho học sinh người giáo viên cũng
cần phải tổ chức các hoạt động xã hội, cuộc giao tiếp xã hội để thu hút học sinh
tham gia.
- Người giáo viên thường xuyên giao tiếp với trẻ trong các hoàn cảnh cụ
thể, nói chậm, nói rõ ràng để trẻ hiểu về các chuẩn kiến thức khích lệ trẻ nói
bằng cách đặt ra các câu hỏi, tình huống, động viên cổ vũ cho trẻ phấn khỏi khi
thực hiện giao tiếp.
- Nội dung tính chất của cuộc giao tiếp đảm bảo định hướng cho trẻ tham
gia vào cuộc giao tiếp tích cực, lành mạnh, tránh cuộc giao tiếp không tích cực,
không đảm bảo tiêu chuẩn.
4
Câu 5: Giáo dục là gì? Trình bày vai trò của hoạt động đối với sự hình
thành và phát triển tâm lý nhân cách. Hiểu biết này có ý nghĩa sư phạm gì?
Giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, kế hoạch, nội dung,
phương pháp của nhà giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho
người được giáo dục phù hợp với những yêu cầu của xã hội trong giai đoạn lịch
sử nhất định.
Vai trò của giáo dục.
- Giáo dục là nhân tố được xem là yếu tố quan trọng và có ảnh hưởng
mạnh mẽ và sâu sắc nhaatgs đến sự hình thành và phát triển tâm lý nhân cách

của con người.
- Giáo dục là yếu tố có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển và hoàn thiện
nhân cách của mỗi con người.
- Giáo dục luôn vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách luôn xác định mục tiêu của sự giáo dục.
- Qúa trình giáo dục giúp mỗi cá nhân lĩnh hội được nền văn hóa – xã hội
lịch sử đã được tinh lọc và hệ thống hóa thể hiện trên các nội dung, chương
trình giáo dục, nhờ đó mà tâm lý nhân cách của họ đảm bảo yêu cầu xã hội.
- Giáo dục tác động đến con người hiệu quả nhất bởi vì nó dư trên các kết
quả nghiên cứu, quy luật nhận thức, con đường giúp nhận thức của con người
đạt hiệu quả cao do đội ngũ các nhà giáo thực hiện.
- Bằng con đường giáo dục nó có thể phát huy tối đa mặt mạnh của các
yếu tố sinh học, môi trường, hoạt động của cá nhân đến sự hình thành và phát
triển tâm lý. Đồng thời giáo dục có khả năng bù đắp nhiều thiếu hụt của các yếu
tố trên đến sự hình thành và phát triển tâm lý con người.
- Giáo dục có khả năng giáo dục lại phát hiện và tổ chức can thiệp những
biểu hiện tâm lý bị lệch lạc so với chuẩn mực để nó phát triển theo chiều hướng
mong muốn.
*Kết luận sự phạm:
- Cần phải đánh giá đúng vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và
phát triển tâm lý con người. Giáo dục chỉ đóng vai trò chủ đạo, không thể coi
giáo dục là vạn năng từ đó phó mặc cho giáo dục, nhưng cũng không nên xem
nhẹ vai trò của giáo dục.
- Phải quan tâm phát huy vai trò của giáo dục bên cạnh phát triển vai trò
các yếu tố khác có sự ảnh hưởng đến tâm lý nhân cách của người học.
- Đối với nhà giáo dục phải xác định rõ vai trò của mình từ đó luôn chủ
động tìm kiếm phương thức để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự hình thành
và phát triển tâm lý.
- Giáo dục còn ảnh hưởng đến người học từ chính nhân cách của nhà giáo
dục. Vì vậy bản thân nhà giáo dục rự rèn luyện mình sao cho đảm bảo chuẩn để

trẻ học theo.
5
Câu 5: Giáo dục là gì? Trình bày vai trò của hoạt động đối với sự hình
thành và phát triển tâm lý nhân cách. Hiểu biết này có ý nghĩa sư phạm gì?
Giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, kế hoạch, nội dung,
phương pháp của nhà giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho
người được giáo dục phù hợp với những yêu cầu của xã hội trong giai đoạn lịch
sử nhất định.
Vai trò của giáo dục.
- Giáo dục là nhân tố được xem là yếu tố quan trọng và có ảnh hưởng
mạnh mẽ và sâu sắc nhaatgs đến sự hình thành và phát triển tâm lý nhân cách
của con người.
- Giáo dục là yếu tố có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển và hoàn thiện
nhân cách của mỗi con người.
- Giáo dục luôn vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách luôn xác định mục tiêu của sự giáo dục.
- Qúa trình giáo dục giúp mỗi cá nhân lĩnh hội được nền văn hóa – xã hội
lịch sử đã được tinh lọc và hệ thống hóa thể hiện trên các nội dung, chương
trình giáo dục, nhờ đó mà tâm lý nhân cách của họ đảm bảo yêu cầu xã hội.
- Giáo dục tác động đến con người hiệu quả nhất bởi vì nó dư trên các kết
quả nghiên cứu, quy luật nhận thức, con đường giúp nhận thức của con người
đạt hiệu quả cao do đội ngũ các nhà giáo thực hiện.
- Bằng con đường giáo dục nó có thể phát huy tối đa mặt mạnh của các
yếu tố sinh học, môi trường, hoạt động của cá nhân đến sự hình thành và phát
triển tâm lý. Đồng thời giáo dục có khả năng bù đắp nhiều thiếu hụt của các yếu
tố trên đến sự hình thành và phát triển tâm lý con người.
- Giáo dục có khả năng giáo dục lại phát hiện và tổ chức can thiệp những
biểu hiện tâm lý bị lệch lạc so với chuẩn mực để nó phát triển theo chiều hướng
mong muốn.
*Kết luận sự phạm:

- Cần phải đánh giá đúng vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và
phát triển tâm lý con người. Giáo dục chỉ đóng vai trò chủ đạo, không thể coi
giáo dục là vạn năng từ đó phó mặc cho giáo dục, nhưng cũng không nên xem
nhẹ vai trò của giáo dục.
- Phải quan tâm phát huy vai trò của giáo dục bên cạnh phát triển vai trò
các yếu tố khác có sự ảnh hưởng đến tâm lý nhân cách của người học.
- Đối với nhà giáo dục phải xác định rõ vai trò của mình từ đó luôn chủ
động tìm kiếm phương thức để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự hình thành
và phát triển tâm lý.
- Giáo dục còn ảnh hưởng đến người học từ chính nhân cách của nhà giáo
dục. Vì vậy bản thân nhà giáo dục rự rèn luyện mình sao cho đảm bảo chuẩn để
trẻ học theo.
5
Câu 6: Tri giác là gì?Trình bày đặc điểm của tri giá. Đưa ra kết luận sư
phạm cần thiết
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính
cảu sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan ta.
*Đặc điểm của tri giác.
- Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính trwucj quan
bên ngoài của sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Khi ta có 1 rổ xoài. Chúng ta muốn biết đó là gì thì ở mức độ đơn giản nhất
chúng ta cần phải tiếp xúc trực tiếp với nó.
- Tri giác phản ảnh trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Nhờ mắt ta thấy được màu sắc, ước lượng được kích thước và số lượng quả
xoài trong rổ.
- Tri giác phản ánh hiện thực khách quan 1 cách trực tiếp khi chúng tác
động vào các giác quan của chúng ta.
- Tri giác phản ánh sự vật hiện tượng theo cấu trúc nhất định. Cấu trúc này
không phải là tổn số các cảm giác mà là sự khái quát đã được trừu xuất từ các cảm
giác đó trong mối liên hệ qua lại giữa các thành phần cấu trúc ấy ở một khoảng

thời gian nào đó.
Ví dụ: Chúng ta chỉ cần nhìn bằng mắt và không sử dụng tới mũi miệng … cùng
với hiểu biết trước đó của bản thân, chugns ta tri giác và ọi tên đúng sự vật trên.
- Tri giác là quá trình tích cực được gắn liền với hoạt động của con người.
Tri giác mang tính tự giác, giải quyết một nhiệm vụ cụ thể, là hành động tích cực
trong đó có sự kết hợp chặt chẽ của yếu tố cảm giác vận động.
Ví dụ: Con người đặt ra nhiệm vụ và tìm cách giải quyết nhiệm vụ, muốn biết sự
việc trên buộc chủ thể phải chủ động, tự giác và tích cực để tri giác đúng sự việc
trên.
Tri giác giúp con người xác định được vị trí của chủ thẻ đối với sự vật hiện
tượng trong thế giới xung quanh một cách tương đối rõ ràng. Tri giác giúp con
người xác định được sự vật hiện tượng nào, tức là tri giác “tự động” xác định mối
quan hệ giữa một sự vật hiện tượng và nhóm.
• Kết luận sư phạm
- Tri giác sử dụng trực quan do cảm giác mang lại. Vậy có thể nói: cảm giác là
tiền đề để hình thành tri giác.
- Tri giác sử dụng kinh nghiệm đã học được, tích lũy được trong quá khứ để có
hình ảnh về sự vật hiện tượng một cách trọn vẹn phân biệt, xác định mối quan hệ
giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
- Do vậy chúng ta cần phải học tập, cập nhật thông tin, tích cực trao đổi và tích
lũy kiến thức tri giác đúng và vững về sự vật hiện tượng khách quan. Giải quyết
các nhiệm vụ cụ thể và góp phần hoàn thiện bản thân.
- Tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc rộng rãi với môi trường xung quan để thu
thập nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, giúp các em tri giác tài liệu tốt hơn.
6
Câu 6: Tri giác là gì?Trình bày đặc điểm của tri giá. Đưa ra kết luận sư
phạm cần thiết
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính
cảu sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan ta.
*Đặc điểm của tri giác.

- Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính trwucj quan
bên ngoài của sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Khi ta có 1 rổ xoài. Chúng ta muốn biết đó là gì thì ở mức độ đơn giản nhất
chúng ta cần phải tiếp xúc trực tiếp với nó.
- Tri giác phản ảnh trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Nhờ mắt ta thấy được màu sắc, ước lượng được kích thước và số lượng quả
xoài trong rổ.
- Tri giác phản ánh hiện thực khách quan 1 cách trực tiếp khi chúng tác
động vào các giác quan của chúng ta.
- Tri giác phản ánh sự vật hiện tượng theo cấu trúc nhất định. Cấu trúc này
không phải là tổn số các cảm giác mà là sự khái quát đã được trừu xuất từ các cảm
giác đó trong mối liên hệ qua lại giữa các thành phần cấu trúc ấy ở một khoảng
thời gian nào đó.
Ví dụ: Chúng ta chỉ cần nhìn bằng mắt và không sử dụng tới mũi miệng … cùng
với hiểu biết trước đó của bản thân, chugns ta tri giác và ọi tên đúng sự vật trên.
- Tri giác là quá trình tích cực được gắn liền với hoạt động của con người.
Tri giác mang tính tự giác, giải quyết một nhiệm vụ cụ thể, là hành động tích cực
trong đó có sự kết hợp chặt chẽ của yếu tố cảm giác vận động.
Ví dụ: Con người đặt ra nhiệm vụ và tìm cách giải quyết nhiệm vụ, muốn biết sự
việc trên buộc chủ thể phải chủ động, tự giác và tích cực để tri giác đúng sự việc
trên.
Tri giác giúp con người xác định được vị trí của chủ thẻ đối với sự vật hiện
tượng trong thế giới xung quanh một cách tương đối rõ ràng. Tri giác giúp con
người xác định được sự vật hiện tượng nào, tức là tri giác “tự động” xác định mối
quan hệ giữa một sự vật hiện tượng và nhóm.
• Kết luận sư phạm
- Tri giác sử dụng trực quan do cảm giác mang lại. Vậy có thể nói: cảm giác là
tiền đề để hình thành tri giác.
- Tri giác sử dụng kinh nghiệm đã học được, tích lũy được trong quá khứ để có
hình ảnh về sự vật hiện tượng một cách trọn vẹn phân biệt, xác định mối quan hệ

giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
- Do vậy chúng ta cần phải học tập, cập nhật thông tin, tích cực trao đổi và tích
lũy kiến thức tri giác đúng và vững về sự vật hiện tượng khách quan. Giải quyết
các nhiệm vụ cụ thể và góp phần hoàn thiện bản thân.
- Tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc rộng rãi với môi trường xung quan để thu
thập nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, giúp các em tri giác tài liệu tốt hơn.
6
Câu 7: Tư duy là gì? Trình bày các thao tác cơ bản của tư duy. Từ đó
đưa ra các biện pháp cơ bản để phát triển tư duy.
Tư duy là một quá tình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng
trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
• Các thao tác của tư duy
Tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó nảy sinh trong
quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Qúa trình tư duy gồm
nhiều giai đoạn, nhiều khâu, từ khi gặp phải tình huống có vấn đề cho đến
khi vấn đề được giải quyết. Tuy nhiên, tính giai đoạn của tư duy chỉ phản ánh
được mặt bề ngoài, cấu trúc bên ngoài của tư duy, còn nội dung bên trong
của mỗi giai đoạn là một quá trình phức tạp, diễn ra trên cơ sở của những
thao tác trí tuệ. Có rất nhiều thao tác trí tuệ tham gia vào một quá trình tư duy
cụ thể, có thể khái quát các thao tác cơ bản của tư duy là:
- Phân tích – tổng hợp
+ Phân tích là quá trình dùng trí óc để phân chia đối tượng, hiện tượng
thành những bộ phận, những thuộc tính hay những mối liên hệ, quan hệ để
hiểu đối tượng sâu sắc hơn.
+ Tổng hợp là quá trình dùng trí óc để hợp nhất những bộ phận, những
thuộc tính, những thành phần đã được phân tích thành một chỉnh thể.
Phân tích và tổng hợp có quan hệ qua lại mật thiết với nhau, bổ sung cho
nhau tạo thành sự thống nhất không tách rời được. Phaant ích là cơ sở của
Tổng hợp – Phân tích thực hiện theo hướng tổng hợp còn tổng hợp được thực

hiện theo kết quả của phân tích.
- So sánh:
So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau hay khác nhau,
đồng nhất hay không đồng nhất, bằng nhau hay không bằng nhau giữa các
đối tượng nhận thức (sự vật hiện tượng)
Thao tác so sánh liên hệ chặt chẽ với thao tác phân tích – tổng hợp. Ở lứa
tuổi mẫu giáo, nhi đồng so sánh là con đường cơ bản để trẻ nhận thức thế
giới, gọi tên được sự vật hiện tượng, phân biệt được sự vật hiện tượng này
với sự vật hiện tượng khác.
- Trừu tượng hóa và khái quát hóa
+ Trừu tượng hóa là dùng trí óc gạt bỏ đối tượng những bộ phận thuộc
tính, những mối liên hệ, quan hệ, … thứ yếu, không cần thiết và chỉ giữ lại
những yếu tố nào cần thiết để tư duy.
+ Khái quát hóa là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác
nhau thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những quan hệ, liên
hệ chung nhất định.
7
Câu 7: Tư duy là gì? Trình bày các thao tác cơ bản của tư duy. Từ đó
đưa ra các biện pháp cơ bản để phát triển tư duy.
Tư duy là một quá tình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng
trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
• Các thao tác của tư duy
Tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó nảy sinh trong
quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Qúa trình tư duy gồm
nhiều giai đoạn, nhiều khâu, từ khi gặp phải tình huống có vấn đề cho đến
khi vấn đề được giải quyết. Tuy nhiên, tính giai đoạn của tư duy chỉ phản ánh
được mặt bề ngoài, cấu trúc bên ngoài của tư duy, còn nội dung bên trong
của mỗi giai đoạn là một quá trình phức tạp, diễn ra trên cơ sở của những
thao tác trí tuệ. Có rất nhiều thao tác trí tuệ tham gia vào một quá trình tư duy

cụ thể, có thể khái quát các thao tác cơ bản của tư duy là:
- Phân tích – tổng hợp
+ Phân tích là quá trình dùng trí óc để phân chia đối tượng, hiện tượng
thành những bộ phận, những thuộc tính hay những mối liên hệ, quan hệ để
hiểu đối tượng sâu sắc hơn.
+ Tổng hợp là quá trình dùng trí óc để hợp nhất những bộ phận, những
thuộc tính, những thành phần đã được phân tích thành một chỉnh thể.
Phân tích và tổng hợp có quan hệ qua lại mật thiết với nhau, bổ sung cho
nhau tạo thành sự thống nhất không tách rời được. Phaant ích là cơ sở của
Tổng hợp – Phân tích thực hiện theo hướng tổng hợp còn tổng hợp được thực
hiện theo kết quả của phân tích.
- So sánh:
So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau hay khác nhau,
đồng nhất hay không đồng nhất, bằng nhau hay không bằng nhau giữa các
đối tượng nhận thức (sự vật hiện tượng)
Thao tác so sánh liên hệ chặt chẽ với thao tác phân tích – tổng hợp. Ở lứa
tuổi mẫu giáo, nhi đồng so sánh là con đường cơ bản để trẻ nhận thức thế
giới, gọi tên được sự vật hiện tượng, phân biệt được sự vật hiện tượng này
với sự vật hiện tượng khác.
- Trừu tượng hóa và khái quát hóa
+ Trừu tượng hóa là dùng trí óc gạt bỏ đối tượng những bộ phận thuộc
tính, những mối liên hệ, quan hệ, … thứ yếu, không cần thiết và chỉ giữ lại
những yếu tố nào cần thiết để tư duy.
+ Khái quát hóa là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác
nhau thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những quan hệ, liên
hệ chung nhất định.
7
Khái quả hóa là dạng tổng hợp mới, tổng hợp trên cơ sở đã trìu tượng
hóa. Khái quát hóa là thao tác đưa sự vật, hiện tượng vào một nhóm, một
chủng loại, một phạm trù, …

Trừu tượng hóa và khái quát hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau, chi
phối và bổ sung cho nhau giống như mối quan hệ giữa phân tích và tổng hợp
nhưng ở mức độ cao hơn.
Do vậy, tư duy là một quá trình nhận thức lý tính, xuất phát từ hoàn cảnh
có vấn đề, trong đó ta chú ý sử dụng ngôn ngữ và các thao tác so sánh, phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa nhằm chế biến các dữ kiện hiện
có thể tìm ra những thuộc tính bản chất, những quan hệ mới … giúp ta giải
quyết vấn đề. Vì vậy khi dạy học phải hướng dẫn học sinh thói quen so sánh,
phân tích, tổng hợp, so sánh theo một hướng nhất định đi đến kết quả cụ thể
để học sinh không lung mung.
* Biện pháp cơ bản để phát triển tư duy
- Phải xem trọng việc phát triển tư duy. Vì nếu không có khả năng tư duy
thì không thể học tập không hiểu biết không cải tạo được tự nhiên, xã hội và
rèn luyện bản thân.
- Phải đặt cá nhân vào tình huống có vấn đề để kích tích tính tích cực của
bản thân, độc lập sáng tạo khi giải quyết tình huống có vấn đề.
- Phải rèn luyện học tập nâng cao nhận thức để phát triển khả năng tư duy
tốt, chính xác.
- Phải tăng cường khả năng trừu tượng khái quát.
- Phải thường xuyên quan sát tìm hiểu thực tế, rèn luyện cảm giác, tính
nhạy cảm, năng lực trí nhớ nhằm nâng cao nhận thức, cảm tính để sau đó rút
ra nhận thức một cách lý tính, có khoa học.
- Phải trau dồi vốn ngôn ngữ, vì ngôn ngữ là cái vỏ thể hiện của tư duy và
thoogn qua đó mới biểu đạt tư duy của bản thân cũng như lĩnh hội tư duy của
người khác.
- Tích cự trong nhiều hoạt động và các mối quan hệ giao tiếp.
8
Khái quả hóa là dạng tổng hợp mới, tổng hợp trên cơ sở đã trìu tượng
hóa. Khái quát hóa là thao tác đưa sự vật, hiện tượng vào một nhóm, một
chủng loại, một phạm trù, …

Trừu tượng hóa và khái quát hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau, chi
phối và bổ sung cho nhau giống như mối quan hệ giữa phân tích và tổng hợp
nhưng ở mức độ cao hơn.
Do vậy, tư duy là một quá trình nhận thức lý tính, xuất phát từ hoàn cảnh
có vấn đề, trong đó ta chú ý sử dụng ngôn ngữ và các thao tác so sánh, phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa nhằm chế biến các dữ kiện hiện
có thể tìm ra những thuộc tính bản chất, những quan hệ mới … giúp ta giải
quyết vấn đề. Vì vậy khi dạy học phải hướng dẫn học sinh thói quen so sánh,
phân tích, tổng hợp, so sánh theo một hướng nhất định đi đến kết quả cụ thể
để học sinh không lung mung.
* Biện pháp cơ bản để phát triển tư duy
- Phải xem trọng việc phát triển tư duy. Vì nếu không có khả năng tư duy
thì không thể học tập không hiểu biết không cải tạo được tự nhiên, xã hội và
rèn luyện bản thân.
- Phải đặt cá nhân vào tình huống có vấn đề để kích tích tính tích cực của
bản thân, độc lập sáng tạo khi giải quyết tình huống có vấn đề.
- Phải rèn luyện học tập nâng cao nhận thức để phát triển khả năng tư duy
tốt, chính xác.
- Phải tăng cường khả năng trừu tượng khái quát.
- Phải thường xuyên quan sát tìm hiểu thực tế, rèn luyện cảm giác, tính
nhạy cảm, năng lực trí nhớ nhằm nâng cao nhận thức, cảm tính để sau đó rút
ra nhận thức một cách lý tính, có khoa học.
- Phải trau dồi vốn ngôn ngữ, vì ngôn ngữ là cái vỏ thể hiện của tư duy và
thoogn qua đó mới biểu đạt tư duy của bản thân cũng như lĩnh hội tư duy của
người khác.
- Tích cự trong nhiều hoạt động và các mối quan hệ giao tiếp.
8
Câu 8: Tưởng tượng là gì? Trình bày các cách sáng tạo hình ảnh mới
trong tưởng tượng, lấy ví dụ mình họa
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có

trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên
cơ sở những biểu tượng đã có.
* Cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng
Các hình ảnh của tưởng tượng được tạo ra bằng nhiều cách:
- Thay đổi kích thước, độ lớn, số lượng … làm tăng hay giảm hình dáng
của sự vật so với hiện thực. Đó là hình thức thu nhỏ hoặc phóng to kích
thước , thêm hoặc bớt số lượng bộ phận của sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Phật trăm tay nghìn mắt, người khổng lồ, người tí hon.
- Nhấn mạnh các chi tiết: Đó là hình thức nhấn mạnh hoặc cường điệu
một tính chất, một đặc điểm nào đó của sự vật.
Ví dụ: Diễu người tham ăn trong tranh biếm họa với cái mồn to gần hết
cả khuôn mặt, …
- Chắp ghép là ghép các bộ phận của nhiều sự vật hiện tượng khác nhau
thành một hình ảnh mới.
Ví dụ: Hình ảnh con rồng với cái đầu sư tử, mình rắn, hoặc người cá đầu
người, mình cá vừa sống dưới nước vừa sống trên cạn…
- Liên hợp: là sự chắp ghép sáng tạo, khi thực hiện cách liên hợp thì các
bộ phận ban đầu bị cải tổ, biến đổi và nằm trong những mối tương quan mới.
Nó được sử dụng trong sáng tác văn học, nghệ thuật, trong sáng chế kỹ thuạt:
Thiết kế ra loại xe điện bánh hơi, máy gặt lúa được cải tiến từ máy cắt cỏ …
- Điển hình hóa: Phương pháp tạo ra hình ảnh mới mà trong đó có thuộc
tính điển hình, các đặc điểm điển hình như là một đại diện cho một giai cấp,
một nhóm xã hội được biểu hiện trong hình ảnh mới này. Phương pháp này
được sử dụng nhiều trong sáng tạo văn học, nghệ thuật, trong điêu khắc …
Ví dụ: Nhân vật chị Dậu là điển hình của phụ nữ nông dân Việt Nam
trước cách mạng tháng Tám.
- Mô phỏng (loại suy): Là cách xây dựng hình ảnh mới dựa vào sự bắt
chước, sự mô phỏng lại những chi tiết, những bộ phận có thực trong thực
tiễn.
Ví dụ: Sản xuất ra cái kìm dựa trên sự tương tự của ngón tay, đó là ngón

cái và ngón trỏ, cái cào tương tự như năm ngón tay …
9
Câu 8: Tưởng tượng là gì? Trình bày các cách sáng tạo hình ảnh mới
trong tưởng tượng, lấy ví dụ mình họa
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có
trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên
cơ sở những biểu tượng đã có.
* Cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng
Các hình ảnh của tưởng tượng được tạo ra bằng nhiều cách:
- Thay đổi kích thước, độ lớn, số lượng … làm tăng hay giảm hình dáng
của sự vật so với hiện thực. Đó là hình thức thu nhỏ hoặc phóng to kích
thước , thêm hoặc bớt số lượng bộ phận của sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Phật trăm tay nghìn mắt, người khổng lồ, người tí hon.
- Nhấn mạnh các chi tiết: Đó là hình thức nhấn mạnh hoặc cường điệu
một tính chất, một đặc điểm nào đó của sự vật.
Ví dụ: Diễu người tham ăn trong tranh biếm họa với cái mồn to gần hết
cả khuôn mặt, …
- Chắp ghép là ghép các bộ phận của nhiều sự vật hiện tượng khác nhau
thành một hình ảnh mới.
Ví dụ: Hình ảnh con rồng với cái đầu sư tử, mình rắn, hoặc người cá đầu
người, mình cá vừa sống dưới nước vừa sống trên cạn…
- Liên hợp: là sự chắp ghép sáng tạo, khi thực hiện cách liên hợp thì các
bộ phận ban đầu bị cải tổ, biến đổi và nằm trong những mối tương quan mới.
Nó được sử dụng trong sáng tác văn học, nghệ thuật, trong sáng chế kỹ thuạt:
Thiết kế ra loại xe điện bánh hơi, máy gặt lúa được cải tiến từ máy cắt cỏ …
- Điển hình hóa: Phương pháp tạo ra hình ảnh mới mà trong đó có thuộc
tính điển hình, các đặc điểm điển hình như là một đại diện cho một giai cấp,
một nhóm xã hội được biểu hiện trong hình ảnh mới này. Phương pháp này
được sử dụng nhiều trong sáng tạo văn học, nghệ thuật, trong điêu khắc …
Ví dụ: Nhân vật chị Dậu là điển hình của phụ nữ nông dân Việt Nam

trước cách mạng tháng Tám.
- Mô phỏng (loại suy): Là cách xây dựng hình ảnh mới dựa vào sự bắt
chước, sự mô phỏng lại những chi tiết, những bộ phận có thực trong thực
tiễn.
Ví dụ: Sản xuất ra cái kìm dựa trên sự tương tự của ngón tay, đó là ngón
cái và ngón trỏ, cái cào tương tự như năm ngón tay …
9
Câu 9: Nêu sự khác nhau giữa kỹ xảo và thói quen. Lấy ví dụ
minh họa?
Kỹ xảo là hành động đã được củng cố và tự động hóa nhờ luyện tập.
Thói quen là hành động tự động hóa ổn định trở thành nhu cầu của
con người.
* Sự khác nhau giữa kỹ xảo và thói quen
Thói quen Kỹ xảo
Mang tính chất nhu cầu nếp sống
Được đánh giá về mặt đạo đức
(trong đó có cả thói quen tốt và
thói quen xấu)
Luôn gắn với tình huống cụ thể
(ví dụ như ngủ dậy sau khi ăn)
Bền vững ăn sâu vào nếp sống
Hình thành bằng nhiều con
đường (tự giác, bắt chước, ôn tập)
Mang tính chất kỹ thuật
Được đánh giá về mặt thao tác
9thao tác có nhuần nhuyễn hay
không, nhanh hay chậm)
Ít gắn với tình huống 9vis dụ như
đánh máy này quen cũng có thể
đánh máy khác tốt)

Ít bền vững nếu kh được luyện
tập
Hình thành chủ yếu do luyện tập
có mục đích.
Ví dụ: Trượt băng nghệ thuật, người nghệ sĩ phải trải qua quá trình
luyện tập lâu dài mới có thể trượt vững chắc trên băng và tạo những di
chuyển đẹp. Đây chính là kỹ xảo.
Ví dụ: Trẻ em sẽ bắt chước người lớn đánh răng, hay hút thuốc … có
những thói quen là tốt, nhưng có những thói quen xấu ảnh hưởng rất
nhiều đến trẻ nhỏ, vì vậy người lớn phải dần bỏ những thói quen xấu để
tạo hình ảnh tốt trước trẻ nhỏ.
10
Câu 9: Nêu sự khác nhau giữa kỹ xảo và thói quen. Lấy ví dụ
minh họa?
Kỹ xảo là hành động đã được củng cố và tự động hóa nhờ luyện tập.
Thói quen là hành động tự động hóa ổn định trở thành nhu cầu của
con người.
* Sự khác nhau giữa kỹ xảo và thói quen
Thói quen Kỹ xảo
Mang tính chất nhu cầu nếp sống
Được đánh giá về mặt đạo đức
(trong đó có cả thói quen tốt và
thói quen xấu)
Luôn gắn với tình huống cụ thể
(ví dụ như ngủ dậy sau khi ăn)
Bền vững ăn sâu vào nếp sống
Hình thành bằng nhiều con
đường (tự giác, bắt chước, ôn tập)
Mang tính chất kỹ thuật
Được đánh giá về mặt thao tác

9thao tác có nhuần nhuyễn hay
không, nhanh hay chậm)
Ít gắn với tình huống 9vis dụ như
đánh máy này quen cũng có thể
đánh máy khác tốt)
Ít bền vững nếu kh được luyện
tập
Hình thành chủ yếu do luyện tập
có mục đích.
Ví dụ: Trượt băng nghệ thuật, người nghệ sĩ phải trải qua quá trình
luyện tập lâu dài mới có thể trượt vững chắc trên băng và tạo những di
chuyển đẹp. Đây chính là kỹ xảo.
Ví dụ: Trẻ em sẽ bắt chước người lớn đánh răng, hay hút thuốc … có
những thói quen là tốt, nhưng có những thói quen xấu ảnh hưởng rất
nhiều đến trẻ nhỏ, vì vậy người lớn phải dần bỏ những thói quen xấu để
tạo hình ảnh tốt trước trẻ nhỏ.
10
Câu 10: Tình cảm là gì? Trình bày sự khác nhau cơ bản giữa
phản ánh tình cảm và phản ánh nhận thức/ Lấy ví dụ minh họa?
Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối
với những sự vật, hiện tượng có liên quan đến nhu cầu và động cơ của
họ.
Ví dụ: Tình yêu thương con người, tình bạn bè hữu nghị, hạnh phúc
khi bắt gặp tình yêu, buồn bã, thất vọng gặp thất bại …
* Sự khác nhau giữa phản ánh nhận thức và phản ánh tình cảm:
Mặt so sánh Phản ánh nhận thức Phản ánh tình cảm
Về nội dung phản ánh Phản ánh những thuộc
tính và các mối liên hệ
của bản thân thế giới
Phản ánh mối quan hệ

giữa các sự vật hiện
tượng với nhu cầu và
động cơ của con người
Về phạm vi phản ánh Phản ánh tất cả các sự
vật hiện tượng tác
động vào con người
Phản ánh những sự vật
hiện tượng liên quan
đến sự thỏa mãn nhu
cầu động cơ của con
người
Về phương thức phản
ánh
Phản ánh thế giới bằng
hình ảnh, biểu tượng,
khái niệm
Phản ánh dưới các
hình thức rung cảm,
trải nghiệm
Về tính chủ thể Đã xuất hiện nhưng
chưa rõ ràng, đạm nét
Có chủ thể rõ ràng,
đậm nét, sâu sắc.
Quá trình hifnht hành Tương đối nhanh, theo
quy luật riêng và ít
phức tạp
Lâu dài, phức tạp theo
các quy luật riêng
11
Câu 10: Tình cảm là gì? Trình bày sự khác nhau cơ bản giữa

phản ánh tình cảm và phản ánh nhận thức/ Lấy ví dụ minh họa?
Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối
với những sự vật, hiện tượng có liên quan đến nhu cầu và động cơ của
họ.
Ví dụ: Tình yêu thương con người, tình bạn bè hữu nghị, hạnh phúc
khi bắt gặp tình yêu, buồn bã, thất vọng gặp thất bại …
* Sự khác nhau giữa phản ánh nhận thức và phản ánh tình cảm:
Mặt so sánh Phản ánh nhận thức Phản ánh tình cảm
Về nội dung phản ánh Phản ánh những thuộc
tính và các mối liên hệ
của bản thân thế giới
Phản ánh mối quan hệ
giữa các sự vật hiện
tượng với nhu cầu và
động cơ của con người
Về phạm vi phản ánh Phản ánh tất cả các sự
vật hiện tượng tác
động vào con người
Phản ánh những sự vật
hiện tượng liên quan
đến sự thỏa mãn nhu
cầu động cơ của con
người
Về phương thức phản
ánh
Phản ánh thế giới bằng
hình ảnh, biểu tượng,
khái niệm
Phản ánh dưới các
hình thức rung cảm,

trải nghiệm
Về tính chủ thể Đã xuất hiện nhưng
chưa rõ ràng, đạm nét
Có chủ thể rõ ràng,
đậm nét, sâu sắc.
Quá trình hifnht hành Tương đối nhanh, theo
quy luật riêng và ít
phức tạp
Lâu dài, phức tạp theo
các quy luật riêng
11
Câu 11: Sau khi đứng 1 lúc trên xe bus thì cảm giác khó chịu từ các
mùi nồng nặc trên xe giảm dần, hiện tượng này biểu hiện quy luật gì
của cảm giác. Nêu nội dung của quy luật đó.
Quy luật thích ứng của cảm giác
Nội dung: Để phản ánh tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của
con người có khả năng thích ứng với kích thích. Thích ứng là khả năng
thay đổi độ nhạu cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường
độ kích thích. Sự thích ứng diễn ra theo quy luật: Khi cường độ kích thích
tăng thì độ nhạy cảm giảm, khi cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm
tăng.
Ở ví dụ trên:
+ Khi chưa lên xe bus: Cường độ kích thích yếu, độ nhạy cảm cao.
Dẫn đến cảm giác khó chịu.
+ Khi vừa lên xe bus cường độ kích thích cao với nhiều mùi khác
nhau. Và lúc đấy độ nhạy cảm cao, dẫn đến hiện tượng khó chịu.
+ Sau một thời gain thì quen với các mùi trên xe và cảm giác khó
chịu giảm dần, khi đó cường độ kích thích cao nhưng độ nhạy cảm giảm.
Câu 12: Trong một thực nghiệm người ta đọc một câu chuyện cho hai
nhóm học sinh của lớp. Trong đó nhóm 1 trước khi nghe câu chuyện

thì được giao nhiệm vụ là nghe xong thì kể lại câu chuyện, còn nhóm 2
thì không được giao nhiệm vụ gì. Hãy đưa ra kết quả nhóm nào sẽ kể
lại câu chuyện đầy đủ? Vì sao?
Nhóm 1 sẽ kể lại câu chuyện đầy đủ hơn. Vì:
- Nhóm 1 được giao nhiệm vụ trước khi nghe câu chuyện, hình thành
quá trình ghi nhớ có chủ định, có mục đích, và do vậy nhóm 1 sẽ tìm ra
các biện pháp và thủ thuật để ghi nhớ câu chuyện hơn.
- Nhóm 2 không được giao nhiệm vụ do vậy không có chủ định và
mục đích gì và nhóm 2 không cần tìm ra các biện pháp để ghi nhớ nên tình
tiết của câu chuyện sẽ không được đầy đủ và chi tiết như nhóm 1.
12
Câu 11: Sau khi đứng 1 lúc trên xe bus thì cảm giác khó chịu từ các
mùi nồng nặc trên xe giảm dần, hiện tượng này biểu hiện quy luật gì
của cảm giác. Nêu nội dung của quy luật đó.
Quy luật thích ứng của cảm giác
Nội dung: Để phản ánh tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của
con người có khả năng thích ứng với kích thích. Thích ứng là khả năng
thay đổi độ nhạu cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường
độ kích thích. Sự thích ứng diễn ra theo quy luật: Khi cường độ kích thích
tăng thì độ nhạy cảm giảm, khi cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm
tăng.
Ở ví dụ trên:
+ Khi chưa lên xe bus: Cường độ kích thích yếu, độ nhạy cảm cao.
Dẫn đến cảm giác khó chịu.
+ Khi vừa lên xe bus cường độ kích thích cao với nhiều mùi khác
nhau. Và lúc đấy độ nhạy cảm cao, dẫn đến hiện tượng khó chịu.
+ Sau một thời gain thì quen với các mùi trên xe và cảm giác khó
chịu giảm dần, khi đó cường độ kích thích cao nhưng độ nhạy cảm giảm.
Câu 12: Trong một thực nghiệm người ta đọc một câu chuyện cho hai
nhóm học sinh của lớp. Trong đó nhóm 1 trước khi nghe câu chuyện

thì được giao nhiệm vụ là nghe xong thì kể lại câu chuyện, còn nhóm 2
thì không được giao nhiệm vụ gì. Hãy đưa ra kết quả nhóm nào sẽ kể
lại câu chuyện đầy đủ? Vì sao?
Nhóm 1 sẽ kể lại câu chuyện đầy đủ hơn. Vì:
- Nhóm 1 được giao nhiệm vụ trước khi nghe câu chuyện, hình thành
quá trình ghi nhớ có chủ định, có mục đích, và do vậy nhóm 1 sẽ tìm ra
các biện pháp và thủ thuật để ghi nhớ câu chuyện hơn.
- Nhóm 2 không được giao nhiệm vụ do vậy không có chủ định và
mục đích gì và nhóm 2 không cần tìm ra các biện pháp để ghi nhớ nên tình
tiết của câu chuyện sẽ không được đầy đủ và chi tiết như nhóm 1.
12
Câu 13: Hiện tượng “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” nói lên quy luật
nào của đời sống tình cảm. Trình bày nội dung và ứng dụng của quy
luật đó trong hoạt động giáo dục
Hiện tượng “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” là thuộc quy luật lây
lan của tình cảm
Nội dung: Tình cảm, cảm xúc của con người có thể lan truyền từ
người này sang người khác.
Ứng dụng: Tình cảm tích cực thì chúng ta cũng nên khuyến khích,
khích lệ người ta bày tỏ tình cảm để lan truyền từ người này sang người
khác làm cho người khác cũng có tình cảm tích cực, và dẫn đến những
hành động tích cực. Hoặc khi người khác có nỗi buồn thì nên lắng nghe để
thấu hiểu, đặt mình vào tâm trạng của người đó để cùng buồn với người ta.
- Trong hoạt động giáo dục:
+ Xây dựng tập thể hòa đồng, đoàn kết, thân ái niềm vui nhân đôi,
còn nổi buồn chia nửa.
+ Giáo viên cần xây dựng tấm gương điển hình để học sinh học tập
và noi theo
+ Giáo viên luôn giữ phong thái vui vẻ tạo bầu không khí thoải mái,
học tập tốt.

+ Giáo viên phải có sự khen thưởng, trách phạt để các em phấn đấu
noi theo.
+ Hạn chế lây lan cái xấu phát triển lây lan những cái tốt.
Câu 14: Hiện tượng “yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả
tông chi họ hàng” nói lên quy luật nào của đời sống tình cảm. Trình
bày nội dung và ứng dụng của quy luật đó?
Hiện tượng “yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ
hàng” thuộc quy luật di chuyển của tình cảm.
Nội dung: Tình cảm có thể di chuyển từ đối tượng này sang đối
tượng khác.
Ứng dụng: Quy luật này ảnh hưởng không tốt đến hoạt động thực
tiễn của con người. Vì vậy quy luật này nhắc nhỡ chúng ta phải chú ý kiểm
soát thái độ cảm xúc của mình, làm cho nó mang tính chọn lọc Đừng để
cho cảm xúc chi phối quá đến các lĩnh vực hoạt động khác của con người
gây hậu quả không đúng.
- Trong dạy học: Cô cần dạy trẻ kỹ năng làm chủ cảm xúc của mình
13

1.1. Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể

Tâm lý người không phải do thượng đế, do trời sinh ra, cũng không phải là do não tiết ra như gan tiết ra mật. tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não con người thông qua,"lăng kính chủ quan".

Thế giới khách quan tồn tại bằngcác thuốộ tính không gian, thời gian và luông vận động. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật, hiện tượng đang vận động. Nói một cách chung nhất, phản ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống khác, kết quả là để lại dấu vết (hình ảnh) tác động ở cả hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác động, chẳng hạn:

+ Viên phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại vết phấn trên bảng và ngược lại bảng đen làm mòn (để lại vết) trên viên phấn (phản ánh cơ học).

+ Hệ thống khí hyđrô tác động qua lại với hệ thống khí ôxi, đó là phản ánh (phản ứng) hoá học để lại một vết chung của hai hệ thống là nước (2H2 + o2 = 2H2o).

Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá lẫn nhau, từ phản ánh cơ vật lí, hoá học đến phản ánh sinh vật và phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lý.

- Phản ánh tâm lý là một loại phản ánh đặc biệt:

+ Đó là sự tác động của hiện tượng khách quan vào con người, vào hệ thần kinh, bộ não người -tổ chức cao nhất của vật chất, Chỉ có hệ thần kinh và bộ não người mới có khả năng nhận tác động của hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinh thần (tâm lý) chứa đựng trong vết vật chất, đó là các quá trình sinh lí, sinh hoá ở trong hệ thần kinh và não bộ. C. Mác nói: Tinh thần, tư tưởng, tâm lý... chẳng qua là vật chất được chuyển vào trong đầu óc, biến đổi trong đó mà có.

Điều đó có nghĩa là, về mặt cơ chế hình thành và diễn biến của tâm lý có thể coi tâm lý diễn ra theo cơ chế một phản xạ có điều kiện với ba khâu chủ yếu sau:

Khâu thứ nhất là khâu tiếp nhận các kích thích từ thế giới bên ngoài tạo nên hưng phấn dẫn truyền vào não theo đường hướng tâm.

Khâu thứ hai, diễn ra ở trung ương thần kinh của bộ não, tạo nên các hình ảnh tâm lý.

Khâu thứ ba - khâu trả lời, dẫn truyền hưng phấn từ trung ương thần kinh theo đường li tâm gây nên các phản ứng của cơ thể. Người ta coi tất cả các hiện tượng tâm lý đều có cơ sở sinh lí là các phản xạ có điều kiện.

+ Phản ánh tâm lý lí tạo ra "hình ảnh tâm lý" (bản "sao chép", "bản chụp") về thế giới, hình ảnh tâm lý là kết quả của quá trình phản ánh thế giới quan vào não. Song hình ảnh tâm lý khác về chất so với các hình ảnh cơ, vật lí, sinh vật ở chỗ:

Hình ảnh tâm lý mang tính Sinh động, sáng tao, thí dụ: hình ảnh tâm lý về cuốn sách trong đầu một con người biết chữ, khác xa về vật chất với hình ảnh vật lí có tính chất "chét cứng", hình ảnh vật chất của chính cuốn sách đó có ở trong gương.

Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân (hay nhóm người) mang hình ành tâm lý đó, hay nói cách khác hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lý thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (về nhu cầu, xu hướng, tính khí, năng lực)... vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan.

Hay nói cách khác, con người phản ánh thế giới bằng hình ảnh tâm lý, thông qua "lăng kính chủ quang của mình.

- Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiện ở chỗ:

+ Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan nhưng ở những chủ thể khác nhau xuất hiện những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái khác nhau.

+ Cũng có khi cùng một hiện thực khách quan tác động đến một chủ thể duy nhất nhưng vào những thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh thần khác nhau, có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và các sắc thái tâm lý khác nhau ở chủ thể ấy.

+ Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể hiện nó rõ nhất.

+ Cuối cùng thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác nhau đối với hiện thực.

Do đâu mà tâm lý người này khác tâm lý người kia về thế giới khách quan?

Điều đó do nhiều yếu tố chi phối. trước hết, do mỗi con người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não bộ. Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục không như nhau và đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong cuộc sống. Vì thế, tâm lý người này khác tâm lý người kia.

Từ luận điểm nói trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận thực tiễn sau:

- Tâm lý có nguồn gốc là thế giới khách quan, vì thế khi nghiên cứu, cũng như khi hình thành, cải tạo tâm lý người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt động.

- Tâm lý người mang tính chủ thể, vì thế trong dạy học, giáo dục cũng như trong quan hệ ứng xử phải chú ý nguyên tắc sát đối tượng (chú ý đến cái riêng trong tâm lý mỗi người).

- Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt động và các quan hệ giao tiếp đế nghiên cứu, hình thành và phát triển tâm lý con người.

1. Câu trả lời về tâm lý người là gì?

1.1. Khái niệm tâm lý người là gì?

Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý được thể hiện như thế nào
Tâm lý người là gì?

Tâm lý người là một hiện tượng về tâm lý của con người xảy ra khi họ phản ứng lại với các hiện tượng xã hội. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiện tượng tâm lý con người. Mỗi một nhà nghiên cứu xã hội, và một nhà tâm lý học đều có những quan điểm riêng của mình về tâm lý con người trong sự phát triển của xã hội.

Theo quan điểm duy tâm của các nhà nghiên cứu theo trường phái duy tâm cho rằng: Tâm lý con người không phải do bản thân người đó tạo ra, mà tâm lý của một người được thượng đế xác tạo ra và nhập vào con người. Qua đó các nhà nghiên cứu cho rằng tâm lý người không bị phụ thuộc bởi các yếu tố khách quan bên ngoài, đặc biệt là điều kiện sống, môi trường sống của họ không ảnh hưởng đến tâm lý của họ.

Theo quan điểm duy vật tầm thường của các nhà khoa học, và tâm lý học theo trường phái này lại định nghĩa rằng: Tâm lý con người, hay tâm hồn con người được cấu thành từ vật chất, một thực thể hiện hữu, và do một vật chất cụ thể tạo ra. Từ đó họ đồng nhất và đưa ra quan điểm về tâm lý người là sự đồng nhất của vật lý, sinh lý và tâm lý với nhau. Và họ phủ nhận bản chất xã hội của tâm lý, họ cho rằng tâm lý người mang bản chất cá nhân chứ không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội bên ngoài, họ phủ nhận đi tích tích cực và năng động của tâm lý, ý thức con người.

Theo quan điểm của các nhà duy vật biện chứng thì các nhà tâm lý học cho rằng tâm lý con người là sự phản ánh khách quan các yếu tố bên ngoài vào não bộ con người, qua đó con người thể hiện các hoạt động cá nhân của mình. Và họ cho rằng tâm lý người mang bản chất của xã hội thông qua các hoạt động và sự biến đổi của xã hội ảnh hưởng đến tâm lý và thể hiện tính lịch sử của xã hội ảnh hưởng đến tâm lý người.

Từ các quan điểm trên bạn có thể thấy được rằng quan điểm của các nhà tâm lý theo chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đưa ra được quan điểm chính xác nhất cho tâm lý người. Và bản chất trong tâm lý con người, điểm xuất phát của hiện tượng tâm lý trong mỗi con người trong xã hội là sự biểu hiện tâm lý cá nhân chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài xã hội và mang tính lịch sử.

1.2. Bản chất của hiện tượng tâm lý người là gì?

Bản chất của hiện tượng tâm lý người được thể hiện cụ thể như sau:

+ Tâm lý người là sự phản ánh khách quan của thế giới bên ngoài vào não bộ, và thông qua xử lý của não bộ con người có những hoạt động tác động lại xã hội với các phản ứng của mình. Hiện thực khách quan có ảnh hưởng đến não bộ con người vào tạo ra tâm lý của họ. Tất cả các hoạt động trong quá trình tâm lý lý con người từ đơn giản đến phức tạp đều dựa trên cơ sở hoạt động của não bộ, não bộ chính là nơi để tạo và hình thành nên hiện tượng tâm lý con người. Hiện tượng tâm lý con người có nguồn gốc là thế giới khác quan bên ngoài nên khi nghiên cứu về hiện tượng tâm lý con người cần nghiên cứu đến hoàn cảnh sống và hoạt động trong xã hội của người đó.

+ Tâm lý người mang tính chủ thể, với mỗi một hiện tượng trong xã hội con người sẽ hình thành nên các hình ảnh tâm lý khác nhau. Từ đó cho thấy với mỗi vấn đề gặp phải thì mỗi cá nhân đều phản ánh khác nhau thông qua lăng kính riêng của mình. Bởi hoàn cảnh sống, và điều kiện sống, cùng với cấu tạo não của mỗi người là khác nhau nên khi gặp cùng vấn đề thì mỗi người sẽ có những phản ứng khác nhau về tâm lý.

+ Tâm lý người thể hiện bản chất xã hội và tính lịch sử: 1, Tâm lý người thể hiện bản chất xã hội bởi tâm lý người có nguồn gốc từ xã hội, với môi trường sống và điều kiện sống của mình sẽ hình thành nên tâm lý của cá nhân bạn. Tâm lý người còn là sự thể hiện các mối quan hệ của bạn trong xã hội và thể hiện mối quan hệ giai cấp, đạo đức trong xã hội; 2, Tâm lý người mang bản chất lịch sử xã hội, xã hội là sự vận động không ngừng nên khi thay đổi, hay có những biến đổi trong xã hội sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý con người của mỗi cá nhân, và tâm lý người là kết quả của hoạt động giao tiếp và sản xuất trong việc phát triển xã hội và sự vận động phát triển xã hội không ngừng.

Qua đó ta thấy được bản chất hiện tượng tâm lý con người thể hiện 3 khía cạnh đó là: Là sự phản ánh hiện thực khác quan, mang tính chủ thể, phản ánh bản chất xã hội và mang tính lịch sử phát triển xã hội con người.

1.3. Các loại của phản ảnh trong tâm lý con người là gì?

Phản ánh tâm lý con người thể hiện như sau:

+ Phản ánh cơ học được hình thành các hiện tượng cơ học trong cuộc sống và phản ảnh lại bộ não của con người giúp con người có những nhận thức cụ thể về các hiện tượng xã hội và thu hình ảnh vào bộ não về các hoạt động cơ học trong xã hội.

+ Phản ánh vật lý của não bộ giống như việc bản thân nhìn mình trong gương và nhận lại hình ảnh của mình. Nó thể hiện việc bản thân thường có hiện tượng mô phỏng lại các hoạt động mà mình nhìn thấy, hoặc tiếp xúc với nó.

+ Phản ánh xã hội, hiện tượng tâm lý con người là sự phản ánh của các mối quan hệ và các hiện tượng biến chuyển trong xã hội và thể hiện ra bên ngoài tâm lý con người.

+ Phản ánh tâm lý là phản ánh của não bộ với các tác động từ môi trường khác quan bên ngoài với mỗi cá nhân.

PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÍ

Hiện tượng tâm lí.

Khi ta nhìn, quan sát thấy một sự vật hiện tượng, biểu tượng đó xuất hiện trong đầu của chúng ta. Đó chính là biểu tượng tâm lí.

Khi chúng ta vui hoặc buồn, trạng thái vui hay buồn đó cũng là tâm lí.

Khi chúng ta suy nghĩ và đưa ra một nhận định, đánh giá nào đó, những nhận định đánh giá của chúng ta cũng là các hiện tượng tâm lí.

Có những sự việc không diễn ra tức thời như quá trình suy nghĩ hay như trạng thái vui, buồn mà nó chỉ là những khái quát từ các hiện tượng tâm lí khác.

Ví dụ: khi ta nói yêu lao động thì chúng ta đã đề cập đến một nét tính cách của con người. Đối với một con người như vậy họ rất trân trọng, quý trọng sản phẩm của lao động.

Trong ngôn ngữ Việt, bên cạnh thuật ngữ tâm lí còn có thuật ngữ tâm hồn. Đôi khi người ta tách chữ tâm riêng, chữ hồn riêng. Trong Từ điển tiếng Việt (1988), tâm hồn được định nghĩa là ý nghĩ và tình cảm, làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của mỗi con người.

Các hiện tượng tâm lí, tâm hồn của con người đều có nguồn gốc từ bên ngoài, là sự phản ánh thế giới khách quan. Thế giới vật chất được chuyển vào não, dưới các dạng biểu tượng, hình ảnh đó không dừng lại ở mức độ xơ cứng, bất biến. Nhờ có các giác quan, chúng ta có được những biểu tượng về các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Từ vô số các hình ảnh, biểu tượng về những ngôi nhà có thực, trong óc con người dần khái quát hoá, thu gọn tất cả những biểu tượng đó vào một khái niệm: nhà. Chính ngôn ngữ đã giúp cho khả năng nhận biết của con người về thế giới bên ngoài tăng lên một cách đột phá.

Cũng nhờ có ngôn ngữ, tư duy của con người đã chuyển sang một bước ngoặt vĩ đại: từ tư duy bằng tay con người chuyển sang tư duy bằng khái niệm. Nhờ có tư duy bằng khái niệm, con người đã có khả năng “nhìn” sâu vào những cái mà bằng mắt thường không thể nhìn thấy. Bằng mắt, con người không thể nào nhìn thấy đường đi của hạt ánh sáng song bằng tư duy thì có thể.

Như vậy có thể nhận thấy các hiện tượng tâm lí - thế giới nội tâm của con người, mặc dù là sự phản ánh thế giới bên ngoài song nó là các hiện tượng tinh thần. Thế giới tinh thần này cũng có những cơ chế, quy luật hoạt động cho riêng mình. Bản thân nó có cấu trúc phức tạp. Để có thể nghiên cứu sâu hơn các hiện tượng tâm lí, người ta phân chia chúng thành các lớp hiện tượng khác nhau.

Phân loại các hiện tượng tâm lí.

Có rất nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm lí khác nhau. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một số cách phân loại thường thấy.

Ý thức và vô thức:

Ý thức:

Khái niệm: có nhiều lĩnh vực quan tâm đến ý thức: Triết học, Giáo dục học, Tâm thần học, Tâm lí học…

Với Tâm thần học, ý thức chủ yếu giới hạn ở khả năng định hướng của con người: định hướng thời gian, định hướng không gian và định hướng bản thân. Khái niệm ý thức trong Tâm lí học được hiểu rộng hơn so với Tâm thần học. Như trên đã đề cập, những hình ảnh mà chúng ta quan sát được, những ý nghĩ và nhận định mà chúng ta có được trong quá trình tư duy… đều là những hiện tượng tâm lí. Khi những hiện tượng tâm lí đó lại là đối tượng để chúng ta suy nghĩ: tại làm sao chúng ta quan sát được? Liệu những suy nghĩ và quyết định của chúng ta có đúng hay không?…Khi đó các hiện tượng tâm lí đã được nâng cấp lên bình diện mới: bình diện ý thức. Nói một cách khác, ý thức chính là năng lực hiểu được các hiểu biết. Nói một cách khác, nếu các hiện tượng tâm lí là sự phản ánh thế giới khách quan thì sự phản ánh đó lại một lần nữa được phản ánh lại trong ta - đó chính là ý thức.

Ở động vật cũng có sự phản ánh tâm lí. Tuy nhiên sự phản ánh này chỉ dừng lại ở đó mà không có sự phản ánh lại một lần nữa. Con vật cũng có những khả năng nhận biết song chúng không nhận biết được rằng chúng đang nhận biết. Chúng không có ý thức.

Trong ý thức của con người có một bộ phận đóng vai trò quan trọng: tự ý thức. Tự ý thức là năng lực hiểu được chính mình, hiểu được những mong muốn, những xu hướng của mình. Tự ý thức được xem là “bộ máy chỉ huy” cao nhất trong toàn bộ ý thức của con người.

Cấu trúc: theo quan niệm chung, ý thức bao gồm 3 tầng bậc chính: nhận thức cảm tính, nhận thức lí tính và hoạt động.

Nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình chính gắn bó mật thiết với nhau là cảm giác và tri giác. Các biểu tượng của nhận thức cảm tính giúp chúng ta nhận biết được sự tồn tại của thế giới bên ngoài, làm ranh giới giữa thức và ngủ, giữa tỉnh và say.

Nhận thức lí tính cung cấp cho chúng ta những hiểu biết một cách khái quát, những mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.

Trong tầng bậc hoạt động, các hành động có ý thức đóng vai trò là những đơn vị cơ bản. Hành động có ý thức là quá trình con người sử dụng những hiểu biết, kinh nghiệm của mình tác động vào thế giới hiện thực nhằm thoả mãn những nhu cầu của bản thân và xã hội.

Vô thức:

Vô thức là những hiện tượng tâm lí không được ý thức. Nó bao gồm:

Những hành động hoặc những cảm giác diễn ra nhưng người ta không nhận biết được nguyên nhân.

Thành phần tự động hóa trong các kĩ năng, kĩ xảo.

Trạng thái mất ý thức do nguyên nhân sinh lí tự nhiên (mơ ngủ) hoặc do bệnh lí (chấn thương sọ não, sốt cao) hay nhân tạo (gây mê).

Trực giác.

Mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu tập trung vào vô thức song vẫn còn nhiều điều chưa được sáng tỏ trong lĩnh vực này.

Tâm lí bao gồm các quá trình, trạng thái và thuộc tính:

Đây là cách chia dựa vào thời gian tồn tại và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách.

Các quá trình tâm lý: là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn, có mở đầu, diễn biến và kết thúc tương đối rõ ràng. Các quá trình đều có sản phẩm của mình. Đó có thể là các biểu tượng của nhận thức cảm tính, là khái niệm, nhận định của tư duy, là rung cảm của cảm xúc…

Các trạng thái tâm lí: là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong khoảng thời gian dài, mở đầu và kết thúc không rõ ràng và luôn luôn đi kèm theo, làm nền cho các quá trình tâm lí. Ví dụ như chú ý, tâm trạng…

Các thuộc tính tâm lí: là những hiện tượng tâm lí tương đối ổn định, hình thành chậm song cũng khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Thuộc tính tâm lí chính là sự khái quát phối hợp giữa một số quá trình tâm lí với trạng thái tâm lí. Nét nhân cách có thể được xem xét một cách riêng biệt, ví dụ, tính cẩn thận, song chúng cũng có thể kết hợp tạo thành nhóm. Ví dụ như xu hướng, tính cách, năng lực, khí chất.

Tâm lí bao gồm ba mặt:

Nhận thức: là các quá trình tâm lí giúp cho con người nhận biết được sự vật, hiện tượng, các mối quan hệ của những sự vật hiện tượng đó. Nhận thức gồm 2 nhóm chính là nhận thức cảm tính (cảm giác và tri giác) và nhận thức lí tính (chủ yếu là tư duy).

Đời sống tình cảm: nếu như các quá trình nhận thức đem lại cho con người hiểu biết về thế giới khách quan thì đời sống tình cảm lại thể hiện mối quan hệ của chủ thể đối với các sự vật hiện tượng. Tuy nhiên không phải đối với mọi sự vật hiện tượng mà chỉ là đối với những sự vật hiện tượng có liên quan đến sự thoả mãn nhu cầu của chủ thể mà thôi. Gọi nó là đời sống hay lĩnh vực bởi nó mang tính tổng thể (một cách tương đối) và bởi vì trong thành phần của nó có nhiều các thành tố khác nhau, trải dài từ những màu sắc cảm xúc của cảm giác cho đến tình cảm. Ngay trong lĩnh vực này, sự tách biệt đâu là quá trình, đâu là trạng thái, thuộc tính cũng chỉ mang tính tương đối.

Ý chí: là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn. Ý chí là hình thức tâm lí điều chỉnh hành vi tích cực nhất ở con người. Nhờ có ý chí, con người chuyển được từ nhận thức và rung động sang hoạt động thực tiễn. Ý chí luôn đi kèm với hành động do vậy lĩnh vực này còn được gọi là hành động ý chí.

Thế giới các hiện tượng tâm lí của con người là một chỉnh thể trọn vẹn, thống nhất, không thể chia cắt được. Sự phân chia thành các lớp, loại, lĩnh vực trước hết nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu sâu hơn thế giới trừu tượng này. Mỗi cách phân loại đều có ưu điểm và nhược điểm nhất định. Ngay trong từng cách phân loại cũng đã mang tính tương đối bởi lẽ không thể xác định được một cách chính xác ranh giới của các hiện tượng, ví dụ giữa ý thức và vô thức hoặc không thể tách biệt một cách máy móc đâu là trạng thái cảm xúc và đâu là quá trình cảm xúc.