Top 10 nước xuất khẩu hang may mặc năm 2023 năm 2024
Trong quý I/2024, xuất khẩu dệt may đạt khoảng 9,5 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2023. Điều đó cho thấy, sức mua tại các thị trường xuất khẩu chính đã phục hồi trở lại sau đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế. Các thị trường xuất khẩu lớn của dệt may Việt Nam đều tăng trưởng tốt Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), trong quý I/2024, xuất khẩu dệt may đạt khoảng 9,5 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2023. Đây là tín hiệu vui bởi so với năm ngoái, các doanh nghiệp dệt may có đơn hàng nhiều hơn. Lũy kế hết quý I/2024, tất cả các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam đều tăng trưởng tốt. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đi Mỹ đạt 3,42 tỷ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ và tăng 271 triệu USD về mặt trị giá; xuất khẩu đi EU tháng 3 giảm 4,8% so với cùng kỳ, tuy nhiên lũy kế 3 tháng vẫn tăng 3,2%, đạt 855 triệu USD; xuất khẩu đi thị trường Nhật Bản vẫn duy trì đà tăng trưởng tốt với kim ngạch đạt 1,02 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ. Trung Quốc cũng là thị trường xuất khẩu khởi sắc, khi kim ngạch đạt 0,82 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ, tăng 133 triệu USD về mặt trị giá. Kết quả đạt được về xuất khẩu của ngành dệt may trong quý I/2024 được ghi nhận tích cực, là khởi đầu tốt cho ngành tăng tốc trong quý II/2024 và thành công “vượt dốc” 44 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu trong năm nay. Nhìn chung, sức mua hàng may mặc trên thị trường thế giới tăng lên, phần lớn doanh nghiệp dệt may trong nước đã ký được đơn hàng đến hết quý II/2024, thậm chí một số đã có đơn hàng đến quý III/2024. Bên cạnh triển vọng, các doanh nghiệp dệt may cũng phải đối mặt với thách thức mới. Đó là giá đơn hàng không tăng, trong khi đó chi phí logistics, cụ thể là chi phí vận tải biển đã tăng liên tục trong thời gian qua. Điều này dẫn tới việc khách hàng yêu cầu doanh nghiệp Việt phải chia sẻ một phần chi phí vận chuyển, ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Xuất khẩu dệt may Việt Nam đang đứng top 3 trên thế giới, sau Trung Quốc và Bangladesh, song ngành dệt may lại đang phải chịu áp lực cạnh tranh vô cùng lớn. Đối với Bangladesh – quốc gia đứng top 2 thế giới về xuất khẩu dệt may – thì ưu thế của quốc gia này là nhân công và các chính sách về thuế của Bangladesh cũng ưu đãi cho doanh nghiệp dệt may. Còn vị trí thứ nhất là Trung Quốc. Mỗi năm quốc gia này xuất khẩu trên dưới 300 tỷ USD (gấp 8 lần Việt Nam khi chúng ta chỉ vào khoảng 40,3 tỷ USD). Như vậy, Việt Nam khó có thể cạnh tranh với doanh nghiệp Bangladesh, bởi chi phí nhân công tại nước này hiện thấp hơn Việt Nam. Cần nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm dệt may Để tăng cạnh tranh cho sản phẩm dệt may Việt Nam, cũng như gia tăng xuất khẩu, cách duy nhất là phải tạo ra giá trị cao hơn cho sản phẩm. Để làm được điều này, doanh nghiệp Việt Nam không thể làm những mặt hàng mà các quốc gia khác họ làm được. Ví dụ như Bangladesh đang làm mặt hàng đơn giản vì chi phí lao động của họ thấp, thì Việt Nam không nên cạnh tranh theo cách này. Cách mà ngành dệt may Việt Nam cần làm là tăng giá trị sản phẩm thông qua đầu tư máy móc thiết bị, con người và nguyên liệu. Một điểm cần lưu ý là xu hướng xanh hóa sản phẩm dệt may. Theo đó, hiện nay ở nhiều thị trường, đặc biệt là thị trường châu Âu, Nhật Bản đã đưa ra yêu cầu mới cho sản phẩm dệt may - đó là tiêu chuẩn xanh. Theo đó, để có sản phẩm xanh, thì nhà máy phải đạt tiêu chuẩn ESG, phải dùng điện năng lượng mặt trời, phải giảm nước thải và đạt các chứng chỉ carbon… Yêu cầu xanh hóa ngành dệt may có thể nói là “luật chơi” toàn cầu và doanh nghiệp chỉ còn cách phải tự thay đổi để thích ứng theo yêu cầu mới. Đã là cuộc chơi chung toàn cầu, thì doanh nghiệp phải tự đầu tư năng lượng mặt trời, giảm chi phí xử lý hệ thống nước thải dệt nhuộm, dùng nguyên liệu tuần hoàn, tái chế mới có cơ hội xuất đi các thị trường, cụ thể là châu Âu. Trong xu thế chung, doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang từng bước thích ứng nhưng để bước vào sân chơi lớn rất cần có sự hỗ trợ của Chính phủ, đặc biệt là tổ chức tài chính. Vì thực tế doanh nghiệp dù nhận thức nên làm sản phẩm xanh, nhưng do biên lợi nhuận thấp, nên việc đầu tư cho công nghệ mới còn khó khăn. Để hỗ trợ doanh nghiệp, về mặt tài chính, Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho rằng, cần có gói tín dụng xanh cho các doanh nghiệp đầu tư xanh. Bên cạnh đó, ngành thuế cũng cần có chính sách giảm thuế thu nhập cho những doanh nghiệp đầu tư xanh để họ thấy có động lực và tiếp tục làm tốt hơn./. Tình hình xuất khẩu dệt may hiện không mấy khả quan, các doanh nghiệp vẫn đang nỗ lực tìm kiếm đơn hàng cho những tháng cuối năm và quý đầu năm 2024, đồng thời, hy vọng có thể đón được tín hiệu “ấm” hơn của thị trường thời gian tới. Linh hoạt các giải pháp Năm 2023, xuất khẩu hàng dệt may đối diện nhiều khó khăn bởi những yếu tố bất ổn kinh tế, chính trị kéo theo lạm phát, làm kìm hãm các chỉ tiêu tiêu dùng từ các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, đặc biệt đối với hàng dệt may do không phải nhóm hàng thiết yếu cho nên tỷ lệ sụt giảm rất cao. Tính đến hết tháng 10, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam chỉ đạt hơn 33 tỷ USD, giảm 12,45% so với cùng kỳ năm 2022 (sang tháng 10, tình hình đã khả quan hơn với kim ngạch đạt hơn 3,2 tỷ USD, tăng 5,28% so với tháng 9 và tăng 2,96% so với cùng kỳ năm trước). Hiện Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất, chiếm hơn 40% thị phần của ngành dệt may Việt Nam, tiếp đến là Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, Trung Quốc,... Nhìn chung, các thị trường xuất khẩu chủ lực của hàng dệt may đều có xu hướng giảm trong thời gian qua, đơn cử như thị trường EU, lượng đơn hàng giảm do các đối tác lớn như Decathlon, Nike, Adidas,… đã giảm mạnh. Ðối với thị trường Mỹ, trong nửa đầu năm 2023, dệt may Việt Nam đã đánh mất 1,3% thị phần tại thị trường này; xuất khẩu dệt may sang Trung Quốc trong 8 tháng năm nay cũng chỉ đạt 7,5 tỷ USD, giảm 11,6% so với |cùng kỳ. Ðánh giá chung về thị trường xuất khẩu, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty May Hưng Yên Nguyễn Xuân Dương cho rằng, tình hình thế giới hiện nay đang rất khó khăn, giá dầu, chất đốt, lương thực đều tăng làm suy giảm nhu cầu tiêu dùng, trong đó có hàng dệt may. Ðể vượt khó, đơn vị không chỉ linh hoạt trong điều hành sản xuất mà còn chủ động chuyển đổi các đơn hàng, tăng cường sự hỗ trợ giữa các đơn vị trong tổng công ty nhằm bảo đảm công ăn việc làm, thu nhập ổn định cho người lao động. May Hưng Yên cũng bắt đầu định hướng, nghiên cứu tiếp tục nâng cao năng suất, nhận làm cả đơn hàng chất lượng cao và đơn hàng gia công, bảo hộ lao động, đồng thời, tăng cường đầu tư tự động hóa cao, nâng cao năng lực của người lao động, giảm một số chi phí quản lý vốn,… Tương tự, Tổng Giám đốc công ty cổ phần Dệt may Huế Nguyễn Văn Phong khẳng định: Trước tình hình khó khăn của thị trường, các doanh nghiệp cần đoàn kết, chia sẻ, tránh tình trạng phá giá sản phẩm. Hiện khách hàng rất quan tâm tới chất lượng sản phẩm, giao hàng nhanh, đơn hàng ít, độ phức tạp cao,... nên doanh nghiệp cần quan tâm tới năng suất lao động nhằm đáp ứng yêu cầu. “Muốn nâng cao năng suất lao động, bắt buộc doanh nghiệp phải đầu tư thiết bị tự động hóa cao, sâu và kịp thời hơn, đồng thời, cần quan tâm tới cách thức quản trị, nâng cao tay nghề lao động để tăng sức cạnh tranh trên thị trường” - ông Nguyễn Văn Phong nhấn mạnh. Theo đại diện của Công ty cổ phần Ðầu tư và thương mại TNG, nhờ chủ động áp dụng các giải pháp ứng phó thị trường đã giúp tổng doanh thu của đơn vị trong 10 tháng đạt 6.007 tỷ đồng, hoàn thành 88% kế hoạch năm (riêng tháng 10, doanh thu đạt 570 tỷ đồng, bằng 100% so với cùng kỳ tháng 10/2022). Thời gian tới, đơn vị sẽ tiếp tục đầu tư trang thiết bị hiện đại, chủ động nguồn nguyên liệu để gia tăng sản xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Sản xuất hàng dệt may xuất khẩu tại Tổng công ty cổ phần Dệt may Nam Ðịnh. Tăng lợi thế cạnh tranh Chủ tịch Hội Dệt may thêu đan Thành phố Hồ Chí Minh Phạm Xuân Hồng thông tin thêm, các đơn hàng hiện có chỉ đủ đáp ứng được từ 85% đến 90% năng lực sản xuất của các nhà máy trên địa bàn. Các đơn hàng trở lại chủ yếu thuộc nhóm nhỏ lẻ, yêu cầu kiểu dáng, thời trang và đơn giá rất cạnh tranh. Ðiều này ngược lại so với thông lệ, bởi thường vào thời điểm cuối năm, các nhà máy đều có đơn hàng và bố trí lịch sản xuất đến giữa năm hoặc hết quý III năm sau. “Mặc dù không đạt được như kỳ vọng, nhưng trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, việc đơn hàng hồi phục cũng là tín hiệu đáng mừng, qua đó, giúp doanh nghiệp giảm bớt áp lực, duy trì lao động chờ thị trường phục hồi hoàn toàn”, ông Phạm Xuân Hồng khẳng định. Trong bức tranh “màu xám” của thị trường 10 tháng qua, điểm sáng duy nhất là sự tăng trưởng cao của khối các nước tham gia hiệp định Ðối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) như Nhật Bản, Canada, Australia, New Zealand. Bên cạnh đó, nước ta đã mở thêm được một số thị trường mới tại châu Phi và Trung Ðông, góp phần giúp kim ngạch xuất khẩu của ngành không bị giảm sâu trong bối cảnh sức cầu các thị trường giảm mạnh. Ðánh giá về tín hiệu thị trường, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) Cao Hữu Hiếu nhận định, những tháng đầu năm, doanh nghiệp hết sức căng thẳng khi phải đối diện nhiều khó khăn khách quan. Phần lớn các đơn vị đều ở tình trạng non tải, thậm chí, có đơn vị phải “ăn đong” đơn hàng từng tháng. Giá gia công vẫn ở mức thấp hơn khoảng 30% so với trước đây; sự cạnh tranh về giá giữa các quốc gia xuất khẩu dệt may càng trở nên khốc liệt. Bước sang quý IV, tín hiệu thị trường bắt đầu tích cực hơn khi tần suất khách hàng tới tìm hiểu nguồn hàng và năng lực sản xuất, mặc dù chưa chốt đơn chính thức nhưng là động lực thôi thúc các đơn vị may đẩy mạnh làm mẫu, báo giá cho khách hàng với cơ cấu giá được “tối ưu hóa”, hy vọng sẽ nhận được các đơn hàng cho giai đoạn tới. Ðối với ngành sợi, dấu hiệu cho thấy có thể đã qua giai đoạn “đáy”, một số thị trường có dấu hiệu phục hồi tuy cầu vẫn ở mức thấp, tháng 8 đã có một số đơn vị xấp xỉ hòa vốn, thậm chí đã có đơn vị có lợi nhuận dương. Theo các dự báo, tỷ lệ lạm phát của EU trong tháng 9 mới công bố giảm còn 4,3% (trước đó ở mức 5,2%-5,3%), là mức thấp nhất kể từ tháng 10/2021. Thị trường Trung Quốc cũng có dấu hiệu khởi sắc từ tháng 8, khi chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) của Trung Quốc tăng lên mức 50,2 điểm trong tháng 9 (cao hơn dự báo) từ mức 49,7 điểm trong tháng trước đó. Ðối với thị trường Mỹ, Cục Dự trữ liên bang (FED) cũng có quyết định chưa tăng lãi suất thời điểm này mà lùi xuống cuối năm 2023,... là những yếu tố tích cực giúp kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam có thể tăng lên trong thời gian tới. Do vậy, nhiệm vụ trọng tâm trong những tháng cuối năm 2023 của doanh nghiệp phải tận dụng hết các cơ hội thị trường; tổ chức sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động, đáp ứng các đơn hàng nhỏ lẻ, yêu cầu chất lượng cao; xây dựng kế hoạch sản xuất linh hoạt và bố trí nguồn nhân lực phù hợp để tối ưu hóa chi phí lao động. “Phải hành động nhanh chóng và quyết liệt, dựa trên cơ sở suy nghĩ, cân nhắc từ các thông tin đầu vào được cung cấp liên tục, kịp thời. Hành động mới là thứ quyết định, chứ không phải suy nghĩ. Các doanh nghiệp không được lựa chọn bối cảnh thị trường, nhưng hoàn toàn có thể quyết định tâm thế, cách thức sẽ vượt qua năm 2023 và đón nhận năm 2024 thế nào. Với sự chủ động, tự tin dựa trên những thông tin được kiểm soát một cách hiệu quả, chúng ta hoàn toàn có thể đặt niềm tin để đón đầu sự phát triển trở lại với tâm thế mới, năng lực mới và hiệu suất mới” - ông Cao Hữu Hiếu nhấn mạnh. Sự suy giảm về kim ngạch xuất khẩu và thị phần dệt may của Việt Nam, ngoài lý do khách quan về sự sụt giảm của cầu thế giới, xu hướng chuyển dịch đơn hàng sang các nước có lợi thế về địa lý, còn do năng lực cạnh tranh của dệt may Việt Nam bị suy giảm. Các doanh nghiệp gặp khó trước những đòi hỏi khắt khe từ các nhãn hàng về tiêu chuẩn chất lượng, tuân thủ các chính sách về phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn cũng như các tiêu chuẩn về lao động, minh bạch sản xuất,... Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), Vũ Ðức Giang Vì vậy, doanh nghiệp phải nhanh chóng thay đổi, thích ứng với biến động thị trường, trong đó, cần tổ chức các lớp đào tạo kỹ năng nghề, đào tạo nhân lực cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, qua đó nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, phải giữ chân khách hàng bằng cách chấp nhận các đơn hàng nhỏ lẻ, có lợi thế chuyên biệt cũng như đẩy mạnh khai thác thị trường mới, đồng thời, tiết giảm các khoản chi phí nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng. |