Tuyên bổ chủ quan là gì

Triết họcSửa đổi

Sự nổi lên của khái niệm chủ quan có nguồn gốc triết học trong suy nghĩ của Descartes và Kant, và sự phát biểu của nó trong suốt thời kỳ hiện đại phụ thuộc vào sự hiểu biết về những gì tạo nên một cá nhân. Đã có nhiều cách giải thích khác nhau về các khái niệm như bản ngã và linh hồn, và bản sắc hoặc tự ý thức nằm ở gốc rễ của khái niệm chủ quan.[3]

Chủ quan, ví dụ, thường là chủ đề ngầm của chủ nghĩa hiện sinh, Sartre là một trong những người đề xuất chính của nó nhấn mạnh tính chủ quan trong hiện tượng học của ông.[4] Không giống như đồng nghiệp Merleau-Ponty, Sartre tin rằng, ngay cả trong lực lượng vật chất của xã hội loài người, bản ngã là một thực thể siêu việt, ví dụ, trong opus Tồn tại và hư vô của Sartre thông qua những lập luận của ông về 'sự tồn tại của người khác' và 'cho chính mình'(nghĩa là một con người khách quan và chủ quan).

Cốt lõi bên trong nhất của tính chủ quan nằm trong một hành động duy nhất của Fichte gọi là tự đặt ra, trong đó mỗi đối tượng là một điểm tự chủ tuyệt đối, có nghĩa là nó không thể hạ mức xuống còn một khoảnh khắc trong mạng lưới các nguyên nhân và hậu quả.[5]

Tìm hiểu về khách quan

Khách quan là gì?

Khách quan là một khái niệm trừu tượng, có tính tương đối nên không thể nào định nghĩa một cách chính xác khái niệm khách quan là gì? Nguyên nhân khách quan là gì? Bạn có thể tham khảo khái niệm về phạm trù khách quan theo quan niệm triết học như sau:

Tuyên bổ chủ quan là gì
Nguyên nhân khách quan là gì?

Phạm trù khách quan là phạm trù được dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại mà không phụ thuộc vào một chủ thể xác định, hợp thành một hiện thực; thường xuyên tác động đến việc xác định các mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng. Nói đến khách quan là nói đến những gì tồn tại một cách độc lập, bên ngoài, không phụ thuộc vào bất kỳ chủ thể hoạt động.

Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản, khách quan là sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống không phụ thuộc vào con người.

Nhận thức phải tôn trọng hoàn cảnh thực tế, nếu không tôn trọng thực tế thì khách quan sẽ bị mất đi. Khách quan còn là cụm từ đòi hỏi việc nhận thức của con người dựa vào thực tế của khách quan, nghĩa là luôn luôn tôn trọng sự thật, không thể nhận định sai sự thật, phủ nhận sự thật.

Tính khách quan là gì?

Tính khách quan có ý nghĩa là nó dựa trên một sự thật, hiện thực đã được chứng minh trước đó là đúng đắn, độc lập và không xuất phát từ ý thức của bất kỳ chủ thể. Một đánh giá được coi là có tính khách quan là đánh giá dựa trên sự thật, nó có thể quan sát, định lượng và chứng minh được. Đánh giá đó dựa trên sự thật và không chịu ảnh hưởng từ cá nhân. Tính khách quan lúc nào cũng giúp bạn đưa ra quyết định đúng đắn, kết quả chính xác.

Tuyên bổ chủ quan là gì
Chủ nghĩa duy tâm khách quan.

Yếu tố khách quan là gì?

Yếu tố khách quan là khái niệm dùng để chỉ các bộ phận, các hợp phần cấu thành nên phạm trù khách quan của mỗi chủ thể.

Ví dụ như: Yếu tố khách quan của mỗi người có thể lựa chọn dựa vào sự tồn tại của các yếu tố thời tiết bên ngoài cá nhân không thể thay đổi làm chủ như như nhiệt độ, gió, nắng mưa,…Nó không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể, hoạt động nhưng nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến hành động của chúng ta. Khi gặp lũ lụt bắt buộc con người phải có những biện pháp ứng phó nhưng chúng ta không thể khiến đến hạn hán, lũ lụt không xảy ra được. Hạn hán, lũ lụt là các yếu tố khách quan của chủ thể con người.

Nguyên tắc khách quan là gì, như thế nào?

Nguyên tắc khách quan là thừa nhận vai trò quyết định của hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan và phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.

Các tính chất của tính khách quan là gì?

Tính khách quan có thể dễ dàng nhận thấy nhất vì đó chính là sự độc lập, phát triển. Tính khách quan có tính độc lập vì nó không chịu sự tác động của bất kỳ điều gì. Bất kỳ sự vật, hiện tượng phát triển cũng đều được coi là khách quan.

Tính khách quan chỉ mang tính chất tương đối vì khách quan được đánh giá dựa trên một quan điểm của người nào đó khi nhìn nhận về sự vật hiện tượng bất kỳ. Sự khách quan này không dựa trên một thước đo cụ thể nào, nên tính khách quan chỉ mang tính tương đối.

Tuyên bổ chủ quan là gì
Quan điểm khách quan là gì?

Tính khách quan của sự vật, thiên nhiên luôn thay đổi phát triển không ngừng và chúng ta không thể tác động đến nó được. Tùy vào sự nhìn nhận, cách đánh giá khác nhau của mỗi người khi đưa ra quan điểm của mình sẽ dẫn đến sự khách quan khác nhau nên chúng vô cùng đa dạng.

Từ các thông tin về tính khách quan trên đây chúng ta dễ dàng hiểu được tính chất khách quan từ đó nhìn nhận, đánh giá sự vật, sự việc đúng với suy nghĩ của chính bản thân ta.

Tác dụng của tính khách quan đối với cuộc sống

Tính khách quan trong cuộc sống hàng ngày nó có tác dụng vô cùng quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến mọi sự vật hiện tượng. Như chúng ta đã được biết sự vật hiện tượng trong cuộc sống vừa tồn tại ưu điểm vừa có nhược điểm. Tính khách quan giúp con người đưa ra đánh giá về các sự vật, hiện tượng, sự việc, nhìn nhận được mọi việc xung quanh một cách tổng thể, trung thực và đúng với quy luật tự nhiên. Chúng giúp cho cuộc sống thoải mái, dễ dàng hơn, không bị ràng buộc bởi những suy nghĩ, đánh giá của người khác.

Khi bạn nhận xét về một sự vật hiện tượng nào đó có tính khách quan thì quan điểm của bạn- người nhận xét sẽ tổng quan hơn, mang tính khách quan của hiện tượng và sự vật, giúp người nghe nhận thức đúng hơn về sự vật hiện tượng mà bớt ảo tưởng, cá nhân hóa về mọi việc.

Tuy nhiên cuộc sống là muôn vàn sắc thái với biểu hiện hoàn cảnh khác nhau, vậy nên nếu đề cao tính khách quan quá cũng khiến cho tình cảm mối quan hệ giữa người với người sẽ không được gắn bó và thân thiết với nhau, tạo nên những khoảng cách trong tình cảm, đôi khi tính khách quan còn làm người khác bị tổn thương, tạo nên những mối quan hệ giữa người với người không có sự gắn bó và thân thiết. Mọi thứ trở nên rạch ròi, rõ ràng hơn rất nhiều.

CHỦ QUAN LÀ GÌ

admin-24/10/2021194

Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan theo các chủ nghĩa như: chủ nghĩa duy vật, duy tâm biện chứng… cho thấy chủ quan và khách quan có ý nghĩa rất to lớn đối với mỗi cá nhân và cuộc sống nói chung. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu được quan điểm khách quan là gì, chủ quan là gì và sự khác nhau giữa chúng được thể hiện ra sao. Hãy cùng khám phá ngay bài viết dưới đây để tìm ra lời giải đáp nhé.

Bạn đang xem: Chủ quan là gì

Bạn đang xem: Nguyên nhân khách quan và chủ quan là gì

NộI Dung:

  • Biểu đồ so sánh
  • Định nghĩa Mục tiêu
  • Định nghĩa chủ quan
  • Sự khác biệt chính Khách quan và Chủ quan
  • Phần kết luận

Tuyên bổ chủ quan là gì
Có một số vấn đề triết học, liên quan đến các câu hỏi về tính khách quan và chủ quan của một tuyên bố, phán đoán, thông tin, quan điểm hoặc bất cứ điều gì khác. Một tuyên bố được cho là mục tiêu khi nó dựa trên sự thật, và nó có thể được chứng minh một cách dễ dàng và không thể phủ nhận.

Mặc dù trong trường hợp không có dữ kiện về một vấn đề, sau đó tuyên bố trở thành chủ quan, khi người nói trình bày ý kiến ​​của anh ấy / cô ấy, điều này luôn luôn thiên vị. Quan điểm chủ quan dựa trên cảm nhận cá nhân, thích, thích, không thích và những thứ tương tự. Vì vậy, sự khác biệt thực tế giữa phần thông tin khách quan và chủ quan nằm ở sự kiện và ý kiến.

Chủ quan là gì:

Chủ quan được nói về một nhận thức, ý kiến ​​hoặc lập luận tương ứng với cách suy nghĩ riêng của một chủ đề. Người ta cũng nói về tất cả mọi thứ liên quan đến chủ đề khác biệt với phần còn lại của thế giới.

Xuất phát từ chủ quan từ Latin subiectivus , mà có nghĩa là "phụ thuộc vào cái gì khác. Do đó, người ta cho rằng chủ quan được tập trung vào chủ đề. Theo cách này, nó tương phản với khái niệm về mục tiêu, trong đó quan điểm tập trung vào đối tượng.

Do đó, từ chủ quan đôi khi được sử dụng để làm mất bình luận hoặc ý kiến. Ví dụ: "Những gì bạn nói là rất chủ quan."

Chủ quan là một tính từ không đề cập đến chính đối tượng, mà liên quan đến nhận thức của một người về nó, được thể hiện thông qua ngôn ngữ. Kết luận là tương đối, nghĩa là nó bị ảnh hưởng bởi bối cảnh của người phiên dịch và vũ trụ lợi ích của anh ta.

Nhìn theo cách này, khi nói về một cái gì đó chủ quan , tham chiếu được đưa ra cho một ý kiến ​​không thể được áp dụng phổ biến , vì sự vật / thực tế được phân tích dễ bị ảnh hưởng bởi nhiều cách hiểu khác nhau.

Tuy nhiên, không nên kết luận rằng đặc tính số nhiều hoặc tương đối của tính chủ quan làm mất hiệu lực nội dung của các tuyên bố chủ quan. Trái lại, chủ quan đã được xác nhận là một ví dụ cần thiết cho sự phát triển tư tưởng của chính mình và một bước trước đó cho các thỏa thuận xã hội ủng hộ sự cùng tồn tại.

Hỏi Đáp về Kinh doanh, Phân biệt đối xử và Bình đẳng

Tài liệu dự án | Ngày 23 tháng 10 năm 2018

Phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp: mô tả chung và cơ sở phân biệt đối xử

Câu hỏi: Thuật ngữ “đối xử trong việc làm và nghề nghiệp” có nghĩa là gì?

Trả lời: "Phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp" là những thông lệ dẫn tới hệ quả là một số cá nhân bị đặt ở vị trí phụ thuộc hoặc kém thuận lợi trên thị trường lao động hoặc ở nơi làm việc vì lý do chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, quan điểm chính trị, dòng dõi dân tộc, nguồn gốc xã hội hay bất cứ lý do nào không liên quan tới công việc sẽ làm.

Phân biệt đối xử có thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp. Phân biệt đối xử trực tiếp xảy ra khi có sự phân biệt, loại trừ hoặc ưu đãi rõ ràng dựa trên một hoặc nhiều nguyên nhân. Ví dụ, quảng cáo tuyển dụng chỉ “dành cho nam giới” sẽ bị coi là phân biệt đối xử trực tiếp.

Phân biệt đối xử gián tiếp là những tình huống, biện pháp hoặc thực hành có vẻ trung lập nhưng thực tế lại tác động tiêu cực đến những người thuộc một nhóm nhất định. Về bản chất phân biệt đối xử gián tiếp rất khó nhận biết do tính chất ẩn giấu của nó, vì thế giải quyết loại này là nhiệm vụ khó khăn nhất.

Bình đẳng về cơ hội và đối xử cho phép tất cả các cá nhân phát triển đầy đủ tài năng và kỹ năng của họ theo nguyện vọng và sở thích của họ, và được hưởng quyền tiếp cận bình đẳng với việc làm cũng như các điều kiện làm việc bình đẳng.

Để đảm bảo mục tiêu hoàn toàn không có phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp, nếu chỉ đơn thuần loại bỏ các thực hành có tính phân biệt đối xử thì điều đó vẫn không đủ. Bên cạnh đó, còn cần phải thúc đẩy bình đẳng về cơ hội và đối xử tại nơi làm việc và ở mọi giai đoạn của mối quan hệ lao động, bao gồm tuyển dụng, giữ chân, phát triển và chấm dứt việc làm, thù lao, tiếp cận đào tạo nghề và phát triển kỹ năng.

Câu hỏi: Các cơ sở phân biệt đối xử bị cấm trong việc làm?

Trả lời: Các tiêu chuẩn lao động quốc tế[1]đã xác định và nghiêm cấm các yếu tố làm cơ sở phân biệt đối xử sau đây:

Những phân biệt dựa trên chủng tộc và/hoặc màu da, phần lớn bắt nguồn từ các yếu tố xã hội và kinh tế không có bất cứ cơ sở khách quan nào. Chúng thường liên quan tới những phân biệt đối xử đối với một nhóm người thiểu số hoặc người bản địa hoặc bộ tộc.

Phân biệt đối xử giới tính bao gồm sự phân biệt dựa trên đặc điểm sinh học và các chức năng phân biệt nam giới và nữ giới; và dựa trên sự khác biệt trong xã hội giữa nam và nữ. Sự phân biệt về vật lý bao gồm những mô tả đặc điểm công việc không cần thiết đối với việc hiện các chức năng nhiệm vụ đã được quy định, ví dụ: yêu cầu về chiều cao hoặc trọng lượng tối thiểu không ảnh hưởng đến hiệu suất công việc. Sự phân biệt về xã hội bao gồm tình trạng dân sự, tình trạng hôn nhân, tình trạng gia đình và thai sản [2]. Phụ nữ thường xuyên bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính, đặc biệt là trong trường hợp phân biệt đối xử gián tiếp.

Phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo bao gồm sự phân biệt vì có những biểu hiện niềm tin tôn giáo hoặc là thành viên của một nhóm tôn giáo. Sự phân biệt đối xử này cũng bao gồm cả sự phân biệt đối với những người không gắn với một tôn giáo cụ thể nào hoặc là người vô thần. Mặc dù không được phép phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng tôn giáo, song pháp luật có thể cho phép áp đặt các yêu cầu tại nơi làm việc để hạn chế quyền tự do tôn giáo của người lao động. Ví dụ, một tôn giáo có thể cấm làm việc vào một ngày không phải là ngày nghỉ thông thường hoặc theo quy định của pháp luật; một tôn giáo có thể yêu cầu những người theo tôn giáo đó phải mặc một loại quần áo đặc biệt có thể không phù hợp với các trang thiết bị an toàn; một tôn giáo có thể hạn chế chế độ ăn uống hoặc các thói quen hàng ngày trong giờ làm việc mà doanh nghiệp khó có thể đáp ứng; hoặc một vị trí việc làm có thể đòi hỏi người lao động phải có những tuyên thệ không tương thích với tín ngưỡng hoặc tôn giáo của người đó. Trong những trường hợp này, quyền thực hành tín ngưỡng/tôn giáo của người lao động tại nơi làm việc phải được xem xét trên cơ sở sự cần thiết phải đáp ứng các yêu cầu chính đáng vốn có của công việc hoặc trong yêu cầu hoạt động.

Phân biệt đối xử dựa trên quan điểm chính trị gồm việc tham gia vào một đảng phái chính trị; bày tỏ quan điểm chính trị, kinh tế xã hội hoặc đạo đức; hoặc cam kết dân sự. Người lao động cần được bảo vệ khỏi bị phân biệt đối xử vì những hoạt động bày tỏ quan điểm chính trị của mình, song biện pháp bảo vệ này không áp dụng đối với những hành vi bạo lực có động cơ chính trị.

Sự phân biệt về dòng dõi dân tộc dựa trên nơi sinh, tổ tiên hoặc nguồn gốc nước ngoài của một người; ví dụ, người dân tộc thiểu số, người nói tiếng dân tộc, người có quốc tịch nhờ nhập tịch, và/hoặc con cháu của những người nhập cư nước ngoài.

Nguồn gốc xã hội bao gồm tầng lớp xã hội, nhóm nghề nghiệp trong xã hội và đẳng cấp. Nguồn gốc xã hội có thể được sử dụng làm lý do từ chối một số nhóm đối tượng nhất định không được thực hiện một số công việc khác nhau hoặc hạn chế không cho họ thực hiện một số loại hoạt động nhất định. Phân biệt đối xử dựa trên nguồn gốc xã hội khiến nạn nhân không thể chuyển từ một tầng lớp hoặc một nhóm xã hội này sang tầng lớp khác hay nhóm khác. Ví dụ, ở một số nơi trên thế giới, khái niệm "đẳng cấp" được coi là thấp kém và do đó chỉ được làm những công việc hầu hạ thấp kém.

Tuổi tác cũng là cơ sở đối xử phân biệt bị cấm sử dụng. Người lao động lớn tuổi thường gặp khó khăn trong việc làm và nghề nghiệp do những định kiến ​​về năng lực và khả năng học hỏi của họ; xu hướng coi thường kinh nghiệm của họ; và áp lực thị trường phải thuê người lao động trẻ vì chi phí rẻ hơn[3].

Công nhân trẻ dưới 25 tuổi cũng có thể bị phân biệt đối xử. Việc đối xử thiên vị đối với người lao động trẻ tuổi có thể diễn ra dưới nhiều hình thức: phải làm những công việc bình thường với phúc lợi thấp hơn, ít có cơ hội đào tạo và triển vọng nghề nghiệp hơn; được trả lương thấp hơn ngay cả đối với những công việc đòi hỏi tay nghề thấp khi mà không thể dựa vào lý do hiệu suất để biện hộ cho chênh lệch tiền lương; thời gian thử việc dài hơn và phải áp dụng nhiều hình thức hợp đồng linh hoạt hơn[4].

Tình trạng HIV/AIDS: Người có HIV/AIDS cũng thường bị phân biệt đối xử ở nơi làm việc và ở cộng đồng. Người lao động không nên bị phân biệt đối xử hoặc kỳ thị vì họ bị nhiễm hoặc bị cho là nhiễm HIV. Không nên yêu cầu sàng lọc HIV/AIDS đối với người xin việc hoặc người lao động. Không được lấy việc nhiễm HIV làm cơ sở để chấm dứt việc tuyển dụng. Những người bị bệnh liên quan đến HIV phải có cơ hội làm việc chừng nào điều kiện y tế cho phép [5].

Khuyết tật: Trên thế giới, có khoảng 470 triệu người trong độ tuổi lao động bị khuyết tật. Mặc dù nhiều người khuyết tật được tuyển dụng và hòa nhập hoàn toàn với xã hội như một nhóm đối tượng, thì người khuyết tật nói chung thường vẫn phải đối mặt với tình trạng đói nghèo và thất nghiệp không cân xứng. Trong bối cảnh này, không phân biệt đối xử cũng bao gồm cả việc thực hiện các biện pháp tích cực nếu khả thi để đáp ứng nhu cầu cụ thể về nơi làm việc của người lao động khuyết tật nếu có[6].

Thiên hướng tình dục: Người lao động nam và nữ có thể bị phân biệt đối xử nếu mọi người biết rằng hoặc cho rằng họ là đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng tính hoặc chuyển giới; và họ có thể bị đe dọa bằng lời nói, tâm lý và thể chất hoặc bạo lực từ phía người sử dụng lao động, cấp trên trực tiếp hoặc người lao động khác[7].

Người lao động có trách nhiệm gia đình: Xu thế chung về thời gian làm việc hiện tại ở các kinh tế công nghiệp hóa, đang phát triển và trong quá trình chuyển đổi đang tạo áp lực gia tăng đối với những người lao động có trách nhiệm gia đình. “Trách nhiệm gia đình” bao gồm chăm sóc trẻ em và bất kỳ người phụ thuộc nào khác[8]. Định nghĩa về những người tạo thành khái niệm "gia đình" có thể rộng và có thể được quy định trên cơ sở tham khảo ý kiến ​​người lao động có liên quan hoặc đại diện của họ. Người lao động có trách nhiệm gia đình thường bị phân biệt đối xử trong tuyển dụng, phân công công việc, tiếp cận đào tạo và thăng tiến. Các doanh nghiệp nên tránh không nên phân biệt đối xử với những người lao động có trách nhiệm gia đình. Có tính tới nhu cầu hoạt động, song các doanh nghiệp cũng được khuyến khích hạn chế việc làm ngoài giờ quá lâu và không có kế hoạch khiên cho người lao động khó có thể lập kế hoạch chăm sóc gia đình và lên kế hoạch cho những ngày nghỉ theo quy định.

Thành viên hoặc hoạt động công đoàn: Mọi người lao động đều có quyền thành lập và gia nhập công đoàn cũng như tham gia làm thành viên hoặc lãnh đạo trong các hoạt động công đoàn [9]và không nên bị phân biệt đối xử vì việc thực thi hợp pháp quyền này.

Các cơ sở khác: Nói chung, phân biệt đối xử tại nơi làm việc bao gồm "Mọi sự phân biệt, loại trừ hoặc ưu đãi …. có tác động triệt bỏ hoặc làm phương hại sự bình đẳng về cơ may hoặc về đối xử trong việc làm hoặc nghề nghiệp." [10]

Việc tuyển chọn người lao động chỉ nên dựa vào khả năng làm việc của họ. Khuyến khích doanh nghiệp xem xét lại các thông lệ tuyển dụng hoặc sử dụng lao động của mình để kiểm tra các căn cứ có thể phát sinh tình trạng phân biệt đối xử và có thể khiến cho người tìm việc hoặc người lao động bị đối xử kém thuận lợi hơn những người khác chỉ vì những đặc điểm không liên quan tới khả năng của người đó hoặc những yêu cầu vốn có của công việc.

[1]Công ước về Phân biệt Đối xử (trong Việc làm và Nghề nghiệp), 1958 (No. 111), Điều 1(a).
[2]Để biết thêm chi tiết, xem trong Công ước Bảo vệ Thai sản, 2000 (Số 183)Khuyến nghị (Số 191); và Công ước về Người lao động với trách nhiệm gia đình, 1981 (Số 156)Khuyến nghị (Số 165).
[3]Khuyến nghị về Người lao động lớn tuổi, 1980 (Số 162).
[4]Bình đẳng việc làm: giải quyết thách thức. Báo cáo toàn cầu để thực hiện Tuyên bố ILO về các Nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm việc, ILO, Geneva, 2007. Xem trang 38.
[5] Bộ quy tắc Thực hành của ILO đối với HIV/AIDS và thế giới lao động
[6]Công ước về Tái thích ứng Nghề nghiệp và việc làm (của người khuyết tật) (Số 159); và Khuyến nghị (Số 168); Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền của người khuyết tật
[7]Bình đẳng việc làm: giải quyết thách thức, trang 42-43.
[8]Bình đẳng việc làm: giải quyết thách thức, trang 77.
[9]Công ước về Quyền tự do lập hội và bảo vệ quyền tổ chức, 1948 (Số 87), Điều 2;Công ước về Quyền tổ chức và Thương lượng tập thể, 1949 (Số 98), Điều 1
[10]Công ước về Phân biệt Đối xử (trong Việc làm và Nghề nghiệp), 1958 (Số 111), Điều 1(b)

Câu hỏi: Có sự phân biệt nào không bị coi là phân biệt đối xử không?

Trả lời: Sự phân biệt dựa trên kỹ năng và nỗ lực của người lao động là hợp lệ.

Có thể chấp nhận những chênh lệch về thù lao thể hiện sự khác biệt về số năm đào tạo hoặc số giờ làm việc.

Việc doanh nghiệp tuân thủ các chính sách của nhà nước được thiết kế để khắc phục những mô hình phân biệt đối xử trong lịch sử và do đó mở rộng sự bình đẳng về cơ hội và đối xử trong việc làm không bị coi là đối xử phân biệt.

Các biện pháp bảo vệ hoặc trợ giúp đặc biệt được quy định trong luật pháp quốc gia, chẳng hạn những biện pháp liên quan đến sức khỏe và thai sản là những điều khoản quan trọng không bị coi là phân biệt đối xử.

Để hiện thực hóa nguyên tắc đối xử bình đẳng, có thể cần phải áp dụng các biện pháp đặc biệt và để bù đắp sự khác biệt, ví dụ liên quan đến người khuyết tật.

Câu hỏi: Một công ty muốn tuyển dụng một người để làm một công việc đòi hỏi phải có sức khỏe về thể chất. Vì đây là công việc cố định, nên công ty không muốn nhận đơn xin việc của những người lớn tuổi, những người có vóc dáng nhỏ, phụ nữ hoặc người khuyết tật. Quy định tuyển dụng này có thể coi là vi phạm các Công ước của ILO liên quan về phân xử đối xử ở mức độ nào? Làm thế nào để công ty vẫn tuân thủ các nguyên tắc ILO liên quan đến phân xử đối xử mà vẫn không gây nguy hiểm cho sức khỏe và sự an toàn của người lao động?

Trả lời:Mọi sự phân biệt, loại trừ hoặc ưu đãi đối với một công việc cụ thể dựa trên yêu cầu vốn có của công việc sẽ không bị coi là phân biệt đối xử”[1] Tuy nhiên, cần diễn giải ngoại lệ này một cách hạn chế.

Hội đồng Chuyên gia về Áp dụng các Công ước và Khuyến nghị của ILO giải thích rằng: “Khi một công việc cụ thể đòi hỏi phải có những trình độ nhất định, không phải đơn giản để có thể phân biệt được khi nào thì bị coi là phân biệt đối xử và khi nào không. Ranh giới giữa một bên là những đòi hỏi thực sự của công việc và một bên là những tiêu chí cụ thể được áp dụng để loại trừ một nhóm đối tượng nào đó thường rất khó xác định.”[2]

Bất kỳ sự phân biệt nào cũng cần được xác định trên cơ sở khách quan và nên tính đến năng lực cá nhân, thay vì dựa vào cảm nhận về năng lực của một nhóm đối tượng nào đó. Tiến bộ công nghệ đã làm cho nhiều công việc hoàn toàn khả thi đối với những người có vóc dáng nhỏ hơn kể cả phụ nữ. Nhờ có trợ lực, phụ nữ đã có thể lái xe tải; các thiết bị tự động, xe nâng hàng v.v… đã giúp cho cả phụ nữ và nam giới có tầm vóc nhỏ đều có thể sử dụng.

Vì vậy, trong nhiều trường hợp, vấn đề liên quan nhiều hơn tới thành kiến ​​cố hữu chứ không phải yêu cầu công việc; và người lao động cho dù khổ người hoặc giới tính là gì cũng đều cần có các quy định an toàn. Điều này được phản ánh, ví dụ, trong dự thảo mới của Bộ quy tắc về An toàn và Sức khỏe trong Nông nghiệp, trong đó không có sự phân biệt dựa trên giới tính hoặc tầm vóc cơ thể của người lao động.

[1]Công ước về Phân biệt đối xử (trong Việc làm và Nghề nghiệp), 1958 (Số 111), Điều 1.2.
[2] Tổng khảo sát của ILO về Bình đẳng trong Việc làm và Nghề nghiệp, 1996, ILO Geneva, khoản 118.

Câu hỏi: Việc các công ty sử dụng máy phát hiện nói dối cho mục đích tuyển dụng có bị coi là vi phạm các chuẩn mực lao động quốc tế và chuẩn mực quốc tế về quyền con người không?

Trả lời:Theo quy định của Bộ quy tắc của ILO về bảo vệ các dữ liệu cá nhân của người lao động “máy phát hiện nói dối, các thiết bị thẩm tra sự thật hay bất cứ quy trình kiểm tra nào khác tương tự đều không được sử dụng.”
[1]

[1]Bộ quy tắc của ILO về bảo vệ các dữ liệu cá nhân của người lao động

Câu hỏi: Việc ưu tiên tuyển dụng người bản xứ ở cộng đồng mà công ty hoạt động có bị coi là phân biệt đối xử không?

Trả lời:phân biệt đối xử tại nơi làm việc bao gồm "Mọi sự phân biệt, loại trừ hoặc ưu đãi …. có tác động triệt bỏ hoặc làm phương hại sự bình đẳng về cơ may hoặc về đối xử trong việc làm hoặc nghề nghiệp.”[1]Phân biệt đối xử xảy ra khi một người bị đối xử kém thuận lợi hơn những người khác chỉ vì những đặc điểm không liên quan tới khả năng của người đó hoặc những yêu cầu vốn có của công việc.

Các doanh nghiệp nên tôn trọng nguyên tắc không phân biệt đối xử trong suốt quá trình hoạt động của mình. Các doanh nghiệp nên quy định các yếu tố trình độ, kỹ năng và kinh nghiệm làm cơ sở tuyển dụng, sắp xếp, đào tạo và thăng tiến nhân viên của họ ở mọi cấp độ[2] và khuyến khích và hỗ trợ các nhà cung cấp của mình làm như vậy.

Việc doanh nghiệp thực hiện các chính sách của chính phủ được thiết kế để mở rộng sự bình đẳng về cơ hội và đối xử trong việc làm sẽ không bị coi là phân biệt đối xử.

Công ước bản địa và dân tộc, 1989 (số 169) khuyến khích các chính phủ đảm bảo rằng người dân bản địa hưởng lợi từ các quyền và cơ hội mà luật và quy định quốc gia cấp cho các thành viên khác và giúp họ loại bỏ kinh tế xã hội những khoảng trống có thể tồn tại giữa người bản địa và các thành viên khác của cộng đồng quốc gia. (Điều 2.2)

Công ước về các Dân tộc bản địa và bộ tộc, 1989 (Số 169) khuyến khích các chính phủ đảm bảo rằng người bản địa được hưởng thụ trên cơ sở bình đẳng các quyền và cơ hội mà luật pháp và quy định của quốc gia trao cho các thành của các cộng đồng khác để giúp họ xóa bỏ những khoảng cách về kinh tế xã hội có thể đang hiện hữu giữa người bản địa và những thành viên khác của cộng đồng quốc gia. (Điều 2.2)

[1]Công ước về Phân biệt Đối xử (trong Việc làm và Nghề nghiệp), 1958(Số 111), Điều 1(b).
[2]Tuyên bố ba bên của ILO về các Nguyên tắc liên quan tới các Doanh nghiệp Đa quốc gia và Chính sách xã hội(sửa đổi năm 2006), Đoạn 22

Câu hỏi: Phân biệt đối xử có thể xảy ra ở đâu tại nơi làm việc?

Trả lời: Phân biệt đối xử có thể xảy ra trước khi tuyển dụng, trong quá trình làm việc và ngay cả khi đã rời công ty. Ở doanh nghiệp, nó có thể xảy ra trong những lĩnh vực sau:

  • tuyển dụng
  • tiền công
  • quyền lợi
  • thời gian làm việc và nghỉ ngơi
  • ngày nghỉ được hưởng lương
  • thai sản
  • đảm bảo thời hạn tuyển dụng
  • phân bổ công việc
  • đánh giá hiệu quả hoạt động và thăng tiến
  • các cơ hội đào tạo
  • triển vọng nghề nghiệp
  • an toàn và sức khỏe lao động
  • chấm dứt việc làm.[1]

Việc phân biệt đối xử không phải là chủ ý, thường thì quản lý và người lao động trong một công ty thường ngạc nhiên khi phát hiện ra những thông lệ phân biệt đối xử trong công ty khi họ phát hiện ra và bắt đầu điều tra.

Phân biệt đối xử có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Trường hợp gián tiếp là những thông lệ có vẻ như trung hòa nhưng thực tế lại tạo ra sự đối xử không công bằng với những người có những đặc điểm nhất định [2]. Chẳng hạn, việc tổ chức các khóa tập huấn vào cuối ngày làm việc có thể sẽ tước mất cơ hội tham dự của những người có quan tâm nhưng không thể tham gia do vướng bận trách nhiệm gia đình. Người lao động ít được tập huấn có khả năng sẽ bị thiệt thòi hơn trong những lần phân công công việc sau đó cũng như trong triển vọng thăng tiến.

[1] Khuyến nghị đối với Công ước Số 111 về Phân biệt đối xử (trong Việc làm và Nghề nghiệp), 1958
[2]ILO, Nhập môn về Quyền của lao động nữ và bình đẳng giới, Tái bản lần thứ 2, Geneva 2007

Khách quan là gì?

Khách quan là khái niệm trừu tượng, có tính tương đối nên không thể định nghĩa chính xác khái niệm nguyên nhân khách quan là gì. Bạn có thể tham khảo khái niệm phạm trù “khách quan” trong triết học như sau:

Phạm trù khách quan được dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại không phụ thuộc vào một chủ thể xác định, hợp thành một hiện thực; thường xuyên tác động đến việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng. Nói đến khách quan là nói đến những gì tồn tại độc lập, bên ngoài, không phụ thuộc vào chủ thể hoạt động.

Hiểu một cách đơn giản, khách quạ là sự vật động, phát triển của mọi sự vật/hiện tượng không phụ thuộc vào con người. Nhận thức phải tôn trọng đến thực tế, nếu không tôn trọng thực tế thì khách quan sẽ mất đi. Khách quan còn là cụm từ đòi hỏi việc nhận thức của con người phải dựa vào thực tế của khách quan, nghĩa là luôn tôn trọng sự thật và không thể nhận định sai sự thật.

Tính khách quan là gì?

Tính khách quan có nghĩa là nó dựa trên một sự thật đã được chứng minh trước đó là đúng, độc lập và không xuất phát từ ý thức của chủ thể. Một đánh giá khách quan là đánh giá dựa trên sự thật, nó có thể quan sát, định lượng và chứng minh được. Đánh giá đó dựa trên sự thật và không ảnh hưởng tới cá nhân. Tính khách quan lúc nào cũng đưa ra quyết định, kết quả chính xác giúp bạn đưa ra các quyết định đúng đắn.

Yếu tố khách quan là gì?

Yếu tố khách quan là khái niệm chỉ các bộ phận, các hợp phần cấu thành nên phạm trù khách quan của chủ thể.

Ví dụ: Yếu tố khách quan của một người có thể lựa dựa vào sự tồn tại của các yếu tố thời tiết bên ngoài như nhiệt độ, gió, mưa,…Nó không phụ thuộc vào ý chí, hoạt động nhưng nó lại ảnh hưởng đến hành động của chúng ta. Lũ lụt bắt buộc con người phải có các biện pháp ứng phó nhưng chúng không thể tác động đến hạn hán, lũ lụt không xảy ra được. Hạn hán, lũ lụt là yếu tố khách quan của chủ thể con người.

Nguyên tắc khách quan là gì?

Nguyên tắc khách quan thừa nhận vai trò quyết định của hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan và phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình.

Các tính chất của tính khách quan

Tính khách quan dễ dàng nhận thấy nhất vì đó chính là sự độc lập, phát triển. Tính khách quan không có tính độc lập vì nó không sự tác động của bất kỳ điều gì. Mọi sự vật, hiện tượng phát triển đều được coi là khách quan.

Tính khách quan chỉ mang tính chất tương đối vì khách quan được đáng giá dựa trên một quan điểm của người nào đó khi nhìn nhận sự vật hiện tượng. Sự khách quan này không dựa trên thước đó, nên tính khách quan mang tính tương đối.

Tính khách quan của sự vật, thiên nhiên luôn phát triển không ngừng và chúng ta không thể tác động được đến nó. Tùy vào sự nhìn nhận, đánh giá khác nhau của mỗi người khi đưa ra quan điểm của mình sẽ có sự khách quan khác nhau nên chúng cực kỳ đa dạng.

Từ các thông tin về tính khách quan trên dây chúng ta dễ dàng hiểu được tính chất khách quan từ đó nhìn nhận, đánh giá sự vật, sự việc đúng với suy nghĩ của bản thân.

>>> Bài viết tham khảo: Thế giới quan là gì, Phân loại và vai trò của các thế giới quan