Ví dụ chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

Ví dụ chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

Chuyển giao công nghệ là một khái niệm xuất hiện trong mấy thập niên gần đây và là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế trên toàn cầu, đặc biệt là đối với những nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá như Việt Nam. Việc nghiên cứu, hoạch định chính sách, chiến lược để nâng cao hiệu quả trong tiếp nhận và ứng dụng công nghệ tiên tiến nước ngoài vào sản xuất trong nước; cũng như đưa công nghệ trong nước vào thực tiễn sản xuất ở từng ngành, từng lĩnh vực được coi là khâu then chốt, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

Tình hình chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

– Chuyển giao công nghệ (CGCN) thông qua dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Phần lớn các nhà đầu tư đồng thời là bên giao công nghệ và đặc biệt phát triển dưới hình thức công ty mẹ CGCN cho công ty con thông qua các dự án 100% vốn FDI.

– CGCN thông qua hoạt động đầu tư trong nước: Để có công nghệ, các chủ đầu tư Việt Nam thường thông qua việc mua công nghệ, hoặc mua thiết bị kèm theo công nghệ từ nước ngoài. Việc CGCN được xác lập theo nguyên tắc các bên tự thỏa thuận, đàm phán, và ký kết hợp đồng.

– CGCN thông qua hoạt động đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Chuyển giao công nghệ trong nước

Ở nước ta hiện nay, nhìn chung hoạt động CGCN giữa các viện, trường và cơ sở nghiên cứu cho doanh nghiệp (DN) còn hạn chế, mang tính cục bộ, phạm vi hẹp, tự phát, thiếu các cơ quan dịch vụ trung gian môi giới hợp đồng triển khai công nghệ, liên kết giữa người mua và người bán công nghệ. Việc CGCN giữa các DN trong nước còn ít, quy mô nhỏ, nội dung CGCN thường không đầy đủ và hình thức chuyển giao còn đơn giản.

Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) các hợp đồng CGCN đã được phê duyệt, số hợp đồng thuộc lĩnh vực công nghiệp hiện chiếm tới 63%, chế biến nông sản, thực phẩm chiếm 26% và y dược, mỹ phẩm chiếm 11%. Thông qua hoạt động FDI, nhiều công nghệ mới đã được thực hiện CGCN và nhiều sản phẩm mới đã được sản xuất trong các xí nghiệp FDI; nhiều cán bộ, công nhân đã được đào tạo mới và đào tạo lại để cập nhật kiến thức phù hợp với yêu cầu mới. Hoạt động FDI cũng có tác động thúc đẩy phát triển công nghệ trong nước trong bối cảnh có sự canh tranh của cơ chế thị trường.

Chuyển giao công nghệ thông qua nhập khẩu thiết bị, máy móc

Nhờ có những điều chỉnh trong cơ chế và chính sách kinh tế mà quan hệ thương mại được mở rộng, tạo ra những cơ hội cho các DN tiếp cận được những thành tựu mới của KHCN, từ đó đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao khả năng canh tranh của sản phẩm, trình độ tay nghề của người lao động và năng suất lao động được nâng lên.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động CGCN còn tồn tại một số hạn chế như: Số lượng và quy mô các dự án FDI vào Việt Nam là chưa nhiều, các luồng và đối tượng không đa dạng; Tính cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường quốc tế còn yếu, do hầu hết công nghệ sử dụng trong dự án FDI là công nghệ đã và đang được sử dụng phổ biến ở chính quốc; Ý thức thực hiện luật pháp trong CGCN là thấp, các quy định về điều kiện ràng buộc chưa tạo thành rào cản…

Nguyên nhân có nhiều nhưng tựu chung là do cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động CGCN; Đầu tư phát triển KHCN còn hạn hẹp; CGCN trong điều kiện đổi mới công nghệ còn lẻ tẻ, thiếu quy hoạch và chiến lược; Năng lực tiếp nhận công nghệ của DN Việt Nam còn yếu; Trình độ thẩm định công nghệ còn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng nâng giá công nghệ quá mức, gây thiệt hại trước mắt và lâu dài cho phía Việt Nam.

Để phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ nhất quán, đồng bộ

Bối cảnh trên đặt ra yêu cầu, Việt Nam phải thực sự chú ý đến vấn đề cải thiện môi trường vĩ mô, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, đổi mới, cải tiến thủ tục hành chính liên quan đến CGCN; Có chính sách đầu tư phát triển công nghiệp; Tăng cường các hoạt động đánh giá, thẩm định công nghệ; Tạo sự gắn kết giữa DN, nhà nước và tổ chức nghiên cứu KHCN. Cụ thể:

– Thực hiện đa dạng các hoạt động CGCN (bao gồm cả đối tượng, luồng chuyển giao, nội dung lẫn hình thức) từ nước ngoài vào Việt Nam.

– Phát huy năng lực nội sinh để nâng cao hiệu quả CGCN. Muốn vậy, ngoài chú trọng đến năng lực nội sinh của các địa phương và các vùng miền trong cả nước, cần phải chú trọng cả việc nhập công nghệ và phát triển công nghệ nội sinh, từng bước nâng cao tiềm lực nghiên cứu và phát triển của các DN Việt Nam.

– CGCN phải được đặt trong một quy hoạch, chiến lược gắn với chính sách đổi mới. Một mặt, các DN phải tự mình xây dụng các chiến lược kinh doanh, mặt khác, Nhà nước cần lấy các chiến lược và việc thực hiện chiến lược của DN làm cơ sở để xem xét các vi phạm về CGCN.

– Phải “lựa chọn công nghệ phù hợp” trong hoạt động CGCN. Công nghệ thích hợp có nghĩa là phải tính đến nhiều nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh trong nước như: yếu tố dân số, tài nguyên, môi trường văn hóa – xã hội và các hệ thống pháp lý – chính trị. Như vậy, vấn đề không chỉ nằm trong tiêu chuẩn về khoa học, mà còn nằm trong tiêu chuẩn hành vi, về đặc điểm văn hóa – xã hội của công nghệ.

– Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương với nhau trong việc tiếp nhận CGCN. Việc phối hợp này nhằm khắc phục những cản trở trong quá trình nhập công nghệ như: vốn ít, thông tin ít, lực lượng tư vấn ít, sự độc quyền của bên ngoài.

– CGCN phải đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội. Nghĩa là, việc CGCN một mặt phải đảm bảo mục tiêu trước mắt, mặt khác phải đảm bảo thực hiện mục tiêu lâu dài.

– Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động CGCN theo hướng hình thành cơ chế mới phù hợp với cơ chế thị trường với đặc thù của hoạt động CGCN và yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân hoạt động CGCN.

– Cần đẩy mạnh đổi mới cơ chế và chính sách kinh tế – xã hội, tạo nhu cầu ứng dụng thành tựu KHCN vào sản xuất và đời sống; Tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động của thị trường công nghệ; Cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ mới; Phát triển các tổ chức trung gian, môi giới trên thị trường công nghệ.

– Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về các hoạt động CGCN. Nhà nước cần tăng cường đầu tư, nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở thông tin về hoạt động CGCN và các thành tựu ứng dụng KHCN hiện có; Xây dựng và phát triển các hệ thống thông tin KHCN quốc gia liên thông quốc tế; Xây dựng cơ chế, chính sách đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho hoạt động CGCN, khuyến khích các DN đầu tư đổi mới công nghệ; Thu hút nguồn vốn FDI, sử dụng viện trợ phát triển chính thức đầu tư cho phát triển KHCN; Khuyến khích thành lập quỹ phát triển KHCN và quỹ đầu tư mạo hiểm có vốn ngân sách nhà nước.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Vân Anh, Lê Vũ Toàn, Đàm Quang (2012). Bàn về thuật ngữ “Thị trường khoa học”, “thị trường công nghệ” và “thị trường KH&CN”. Tạp chí Hoạt động Khoa học, Bộ KH&CN, ISSN 1859 – 4794, số 641, tr. 50 – 54;

2. TS. Nguyễn Thị Vân Anh “Bàn về sửa đổi Luật CGCN tiếp cận từ so sánh với Luật KH&CN”;

3. Nghị định 133/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật CGCN.

Nguồn tin:http://tapchitaichinh.vn

Phương thức chuyển giao công nghệ là gì? Đặc điểm và phân loại?

Hiện nay, cùng với xu hướng cũng như sự phát triển của công nghệ, hội nhập toàn cầu thì việc chuyển giao công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những người có khả năng tận dụng kiến ​​thức chuyên môn và nghiên cứu bên ngoài để phát triển và tạo ra những cải tiến mới sẵn sàng cho thị trường. 

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Phương thức chuyển giao công nghệ là gì?

– Phương thức chuyển giao công nghệ là một quá trình phức tạp và nhạy cảm, nếu không được tiến hành thông qua nhận thức và nghiên cứu sẽ dẫn đến những chi phí và tổn thất rất lớn. Do đối tượng của quá trình này chủ yếu ở các nước đang phát triển, có thể nói rằng việc nghiên cứu và điều tra xu hướng của hầu hết các công nghệ được chuyển giao cho các nước đang phát triển thường chỉ ra những điểm yếu do không nhận thức được các điều kiện và nhu cầu hiện có cũng như các chính sách và mục tiêu.

– Chuyển giao công nghệ  được hiểu là việc di chuyển dữ liệu, thiết kế, sáng chế, vật liệu, phần mềm, kiến ​​thức kỹ thuật hoặc bí mật kinh doanh từ tổ chức này sang tổ chức khác hoặc từ mục đích này sang mục đích khác. Quá trình chuyển giao công nghệ được hướng dẫn bởi các chính sách, thủ tục và giá trị của từng tổ chức tham gia vào quá trình.

– Người chuyển giao công nghệ làm theo có thể dẫn đến những hỏng hóc không thể sửa chữa được, do đó ngăn cản người nộp đơn tiếp cận với công nghệ đó. Tầm quan trọng của chuyển giao công nghệ và vai trò của nó đối với sự phát triển công nghiệp của các nước và lấp đầy khoảng cách về công nghệ giữa các nước đang phát triển và phát triển là tất yếu. Chuyển giao công nghệ được thực hiện theo nhiều cách khác nhau dựa trên điều kiện của người tiếp nhận và nhà tài trợ công nghệ. Trong bài báo này, quy trình chuyển giao công nghệ và các loại phương pháp liên quan sẽ dẫn đến chuyển giao công nghệ hiệu quả sẽ được trình bày chi tiết. Ngoài ra, các mô hình liên quan đến chuyển giao công nghệ sẽ được kiểm tra

– Còn được gọi là chuyển giao công nghệ (ToT), chuyển giao công nghệ có thể diễn ra giữa các trường đại học, doanh nghiệp và chính phủ, chính thức hoặc không chính thức, để chia sẻ kỹ năng, kiến ​​thức, công nghệ, phương pháp sản xuất, v.v. Hình thức chuyển giao kiến ​​thức này giúp đảm bảo rằng các phát triển khoa học và công nghệ có sẵn cho nhiều người dùng hơn, những người sau đó có thể giúp phát triển hoặc khai thác nó. Sự chuyển giao này có thể diễn ra theo chiều ngang qua các khu vực khác nhau hoặc theo chiều dọc bằng cách di chuyển công nghệ, ví dụ, từ các trung tâm nghiên cứu đến các nhóm nghiên cứu và phát triển.

– Chuyển giao công nghệ được thúc đẩy tại các hội nghị do các nhóm như Hiệp hội các nhà quản lý công nghệ đại học tổ chức, để các nhà đầu tư có thể đánh giá triển vọng thương mại hóa đối với một sản phẩm hoặc dịch vụ mới mang tính đột phá.

2. Đặc điểm và phân loại:

* Đặc điểm của chuyển giao công nghệ:

– Việc chuyển giao công nghệ này có thể liên quan đến việc tạo ra các liên doanh, các thỏa thuận cấp phép và quan hệ đối tác để chia sẻ rủi ro và phần thưởng. Điều này cũng có thể đi đôi với việc huy động vốn đầu tư mạo hiểm, ví dụ như ở Hoa Kỳ phổ biến hơn ở Châu Âu. Các cơ quan nghiên cứu, chính phủ và doanh nghiệp cũng có thể sử dụng dịch vụ của các văn phòng chuyển giao công nghệ để trợ giúp quá trình này. Các văn phòng này có thể bao gồm các nhà kinh tế, kỹ sư, luật sư, chuyên gia tiếp thị và nhà khoa học.

– Một phần quan trọng của chuyển giao công nghệ là bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) gắn với các đổi mới được phát triển tại các cơ quan nghiên cứu. Điều này có thể có nghĩa là cấp phép sở hữu trí tuệ đã được cấp bằng sáng chế cho các doanh nghiệp bên ngoài hoặc thành lập các công ty mới thành lập để cấp phép sở hữu trí tuệ.

– Tuy nhiên, trước khi các đổi mới có thể được đưa ra thị trường, chúng cần được phát triển thông qua các cấp độ sẵn sàng về công nghệ (TRL) . TRL 1-3 tập trung vào nghiên cứu trong khi cấp 6-7 trở lên cho thấy một sản phẩm đang chuyển sang sản xuất. Việc thu hẹp khoảng cách giữa các cấp độ khác nhau này có thể phức tạp và tốn thời gian, vì nó đòi hỏi sự phát triển của nghiên cứu thành các nguyên mẫu và sau đó là các sản phẩm hoàn chỉnh được kiểm tra đầy đủ và đáng tin cậy.

– Các giai đoạn chuyển giao công nghệ:  Hoạt động chuyển giao công nghệ có thể được chia thành ba giai đoạn; chuẩn bị, cài đặt và sử dụng. Ba giai đoạn này lần lượt bị ảnh hưởng bởi các yếu tố công nghệ, tổ chức và môi trường. Tuy nhiên, một số người chỉ ra sáu bước trong quy trình chuyển giao công nghệ, đó là:

+ Tiết lộ sáng chế

+ Đánh giá

+ Đơn xin cấp bằng sáng chế

+ Đánh giá và tiếp thị

+ Cấp bằng sáng chế

+ Thương mại hóa

Các bước này tiến tới một sự đổi mới đối với một sản phẩm thương mại thông qua đánh giá thị trường, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và cấp phép, cũng như xúc tiến và thương mại hóa cho thị trường.

– Phân loại phương thức chuyển giao công nghệ: chuyển giao công nghệ bao gồm những phương thức sau:

+ Phương thức mua bán giấy phép: Bên xuất khẩu công nghệ chuyển nhượng quyền sử dụng công nghệ cho bên nhập. Nội dung bao gồm chuyển nhượng độc quyền, công nghệ riêng và quyền sử dụng nhãn hiệu.

+  Chuyển giao công nghệ có kèm đầu tư tư bản: Đây là hình thức chuyển giao công nghệ giữa các nước phát triển với nhau, giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển.

+ Hợp tác sản xuất: Các bên đối tác cùng khai thác công nghệ phát triển sản phẩm mới, cung cấp linh kiện, chi tiết sản phẩm cho nhau, cùng nhau tiêu thụ sản phẩm.

+ Dịch vụ tư vấn: Mời các tổ chức tư vấn nước ngoài phục vụ về các phương tiện nhằm đề xuất tư vấn công nghệ, tư vấn công trình, tư vấn quản lí, bồi dưỡng, đào tạo nhân viên kĩ thuật.

+ Mậu dịch bù trừ: Đây là một phương thức kết hợp giữa nhập công nghệ và vay tiền vốn, mở rộng quan hệ mậu dịch quốc tế.

+ Nhập nhân tài công nghệ: Thông qua việc mỗi chuyên gia nước ngoài đảm nhận công tác nhằm nghiên cứu, khai thác phát triển, lắp đặt, điều khiển thí nghiệm, sản xuất của các hạng mục.

– Vai trò của chuyển giao công nghệ:

+ Chuyển giao công nghệ là một phần quan trọng của quá trình đổi mới công nghệ, thúc đẩy nghiên cứu khoa học và công nghệ, các kỹ năng và thủ tục liên quan đến xã hội và thị trường rộng lớn hơn.

+ Chuyển giao công nghệ cho phép nghiên cứu phát triển từ việc phát hiện ra các công nghệ mới dọc theo chuỗi giá trị đến công bố, đánh giá và bảo vệ những đột phá này. Từ đây, tiếp thị, cấp phép và phát triển thêm các sản phẩm cho phép nghiên cứu trở thành một sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ có tác động cho xã hội. Ngoài ra, lợi nhuận tài chính thu được từ một sản phẩm thành công có thể được tái đầu tư vào nghiên cứu sâu hơn để bắt đầu lại chu kỳ.

+ Kết quả là, chuyển giao công nghệ tạo ra nguồn thu cho các trường đại học để sử dụng cho việc tuyển dụng giảng viên, tài trợ và nghiên cứu thêm. Các công ty có thể tận dụng những tiến bộ do nghiên cứu hàn lâm này mang lại mà không cần phải chi cho R&D nội bộ để tạo ra các sản phẩm mới nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển.

+ Lợi thế của việc chuyển giao công nghệ thành công có thể được cảm nhận thông qua các nền kinh tế quốc gia và khu vực thông qua tăng trưởng thông qua đổi mới, liên doanh mới và ngành công nghiệp mạnh mẽ hơn để thúc đẩy việc làm. Cuối cùng, có những lợi ích cho toàn xã hội, cho dù đó là cứu sống, sức khỏe tốt hơn, môi trường sạch hơn và tiến bộ kỹ thuật để cung cấp các năng lực, sản phẩm và dịch vụ mới.

+ Chuyển giao công nghệ rất quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), những doanh nghiệp có thể sử dụng quy trình để giúp họ cạnh tranh với các đối thủ lớn hơn. Thay vì phải trả tiền cho R&D nội bộ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể liên minh với các công ty và viện nghiên cứu để tạo ra những đổi mới, giảm thiểu rủi ro tài chính hoặc chia sẻ công nghệ.

+ Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thích ứng chuyển giao công nghệ để hỗ trợ nhu cầu của họ, giải quyết các trở ngại và thách thức, tiếp thu và phát triển công nghệ cũng như tiếp cận các nghiên cứu mới mà họ có thể thực hiện. Sử dụng các phương pháp chuyển giao công nghệ cho phép các DNVVN phản ứng với những thách thức và đóng góp tích cực vào các tiến bộ công nghệ, tăng trưởng kinh tế và khả năng đổi mới của chính họ.

– Các ví dụ:

+ Ví dụ về chuyển giao công nghệ có thể được tìm thấy trên hầu hết mọi lĩnh vực khoa học và công nghiệp, từ dược phẩm và thiết bị y tế đến các giải pháp năng lượng thay thế, máy tính, giao thông, trí tuệ nhân tạo, robot, nông nghiệp, hàng không vũ trụ, cải thiện môi trường và nhiều lĩnh vực khác.

+ Nhiều sản phẩm và tiến bộ công nghệ mà chúng ta coi là đương nhiên trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta đến từ nghiên cứu của trường đại học hoặc viện trước khi được chuyển giao ra thị trường thông qua các thủ tục chuyển giao công nghệ.

– Chuyển giao công nghệ phục vụ cho việc tham gia nghiên cứu với các sản phẩm thực tế có thể cung cấp lợi ích cho xã hội, giải pháp cho các vấn đề và đồng thời tạo ra lợi nhuận có thể được sử dụng để tài trợ cho nghiên cứu và phát triển tiếp theo.