Việt bắc nằm ở đâu

Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, cách đây 69 năm, ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ và tuyên bố chính thức thành lập Khu giải phóng Việt Bắc bao gồm hai căn cứ lớn trên địa bàn 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc ngoại vi tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái.

Trên cơ sở những căn cứ địa cách mạng đã lần lượt thành lập ở Việt Bắc và căn cứ vào những báo cáo nghị quyết của Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ (15/4/1945) , Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị “Nay vùng giải phóng ở miền ngược đã bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, đại thể nối liền nhau, nên thành lập một căn cứ lấy tên là Khu giải phóng”. Khu giải phóng Việt Bắc lấy Tuyên Quang làm trung tâm, làm nơi ATK Trung ương, nơi đặt các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến.

Trong khu giải phóng các ủy ban do dân cử được hình thành, tổ chức thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Với 1 triệu người gồm nhiều dân tộc khác nhau, khu giải phóng đã thực sự là “hình ảnh nước Việt Nam mới”, cùng với hệ thống các chiến khu trong cả nước tạo thành hậu phương và bàn đạp cho thế trận Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945.

Việt bắc nằm ở đâu

Tháng 12/1953, tại chiến khu Việt Bắc (Thái Nguyên), Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở mặt trận có tính chất chiến lược: tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân viễn chinh tinh nhuệ Pháp ở Điện Biên Phủ. Ảnh:  TTXVN

Khu giải phóng được xây dựng trên một vùng rộng lớn, địa hình chủ yếu là núi rừng. Phía Bắc giáp Trung Quốc. Vùng biên giới Việt – Trung là nơi cách mạng hoạt động rất thuận lợi và qua đây có thể liên lạc với phong trào Cộng sản quốc tế. Phía Nam là vùng trung du, đồng bằng. Do đó, gặp thời cơ thuận lợi, lực lượng vũ trang cách mạng có thể tiến nhanh phát huy thắng lợi và nếu gặp khó khăn có thể lui về để bảo toàn lực lượng. Theo các triền núi phía Đông, Khu giải phóng có thể liên lạc với biển và Hải Phòng. Theo các triền núi phía Tây, có thể liên lạc với khu Tây Bắc và các tỉnh miền núi Trung bộ. Tóm lại, Khu giải phóng có vị trí rất cơ động, “tiến có thể đánh”, “lui có thể giữ”.

Trong khi đó, nhân dân các dân tộc Việt Bắc có truyền thống lâu đời và rất vẻ vang, cùng đoàn kết chặt chẽ bên nhau để đấu tranh dựng nước và giữ nước. Nhân dân các dân tộc Việt Bắc cũng như nhân dân cả nước khát khao độc lập tự do, khát khao một cuộc sống hạnh phúc. Cho nên, khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng thì nhân dân các dân tộc Việt Bắc nhanh chóng tiếp thu đường lối cách mạng của Đảng, kiên quyết đi theo con đường cách mạng mà Đảng đã vạch ra. Do vậy, Khu giải phóng được nằm trong sự bảo bọc, che chở của nhân dân. Đây là một trong những yếu tố quyết định đảm bảo cho Khu giải phóng được an toàn trong suốt thời kỳ lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa.

Trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân địch liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân lớn vào chiến khu Việt Bắc. Với quyết tâm và trọng trách được giao, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã chung sức, chung lòng cùng các đơn vị bộ đội chủ lực làm tròn trách nhiệm nặng nề trước lịch sử và dân tộc là bảo vệ an toàn lãnh tụ và các cơ quan đầu não của ta. Vừa phá tan các cuộc tiến công truy quét với quy mô lớn của kẻ thù, các địa phương trong tỉnh còn thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững chắc phục vụ kháng chiến.

Cũng từ chiến khu Việt Bắc, nhiều chính sách quan trọng của Đảng đã đi vào lịch sử. Tại đây, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã hoạch định, bổ sung đường lối cách mạng để dân tộc Việt Nam lập nên kỳ tích: Giữ vững thành quả của Cách mạng Tháng Tám-1945, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi.

Việt bắc nằm ở đâu

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (thứ nhất từ phải) và đồng chí Nguyễn Chí Thanh (thứ hai từ phải) tại chiến khu Việt Bắc năm 1951. Ảnh: TTXVN

Trong thư gửi đồng bào Việt Bắc năm 1947, Hồ Chí Minh đã đánh giá vai trò to lớn của Việt Bắc trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Cách mạng đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi”.

Tiếp nối truyền thống cách mạng trong kháng chiến, trong những tháng năm của thời kỳ đổi mới, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ và nhân dân các tỉnh thuộc Chiến khu Việt bắc luôn thực hiện thắng lợi và toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng đề ra, bộ mặt đô thị, nông thôn từng bước được khởi sắc; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày một cải thiện và nâng cao.

Việt Bắc, nơi mà lòng yêu nước của đồng bào hòa nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch, đã được lịch sử chứng minh là hậu cứ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trung tâm Thông tin Tư liệu/TTXVN.

Chiến khu Việt Bắc, còn được gọi là Khu giải phóng Việt Bắc, từng là căn cứ địa lớn nhất của cách mạng Việt Nam thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước và chuẩn bị Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.

Cuối tháng 5 năm 1945, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập trên cơ sở hợp nhất, mở rộng Chiến khu Cao - Bắc - Lạng và Chiến khu Thái - Hà - Tuyên, với trung tâm là Tân Trào (huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang); bao gồm vùng giải phóng 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một phần các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Phúc.

Chiến khu Việt Bắc có diện tích khoảng 40.000 km2, dân số hơn 1 triệu người, gồm hơn 20 dân tộc sinh sống, chủ yếu là người Tày, Nùng, Kinh, Dao, Mông… Địa hình nối liền với phía nam Trung Quốc. Rừng núi Việt Bắc chiếm 2/3 diện tích tự nhiên. Địa hình cao về phía bắc, thấp dần về phía nam và tây nam. Hệ thống núi đá xen lẫn núi đất, điển hình là cánh cung Bắc Sơn, cánh cung Ngân Sơn và cánh cung Sông Gâm. Các sông lớn: Sông Thao, Sông Lô, Sông Cầu, Sông Thương, sông Lục Nam; các sông đều có giá trị về giao thông đường thủy. Giao thông đường bộ có Quốc lộ 3 nối Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên với Hà Nội, Quốc lộ 2 nối Hà Giang, Tuyên Quang qua Việt Trì đến Hà Nội; Quốc lộ 1 từ Hà Nội đi Lạng Sơn. Đường biên giới dài trên 300 km có hàng chục cửa khẩu với Trung Quốc. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, khá khắc nghiệt, mùa đông giá lạnh, mùa hè ẩm ướt; lượng mưa trung bình trong năm 1.400-1.600 mm; nhiệt độ trung bình khoảng 20-23C ở vùng có độ cao dưới 500 m và dưới 20C ở vùng có độ cao từ 500 m trở lên. Độ ẩm trung bình khoảng 81-83%. Địa hình Việt Bắc hiểm trở, với nhiều nơi xung yếu, hệ thống giao thông thủy, bộ đa dạng liên hệ khá thuận lợi với các vùng khác cũng như việc tổ chức phòng thủ, xây dựng lực lượng kháng chiến, phát triển chiến tranh du kích và xây dựng kinh tế địa phương, phục vụ cách mạng. Các dân tộc ở đây có truyền thống yêu nước, đoàn kết kiên cường chống ngoại xâm, sớm theo cách mạng, theo Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Chiến khu Việt Bắc được xây dựng thành một căn cứ địa vững chắc về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, làm bàn đạp Nam tiến, giải phóng toàn quốc. Về chính trị, Ban chấp hành Việt Minh từ cấp xã đến tỉnh được hoàn thiện. Ủy ban chỉ huy lâm thời Chiến khu Việt Bắc thành lập chính quyền cách mạng tại các địa phương. Chính quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh, lấn át chính quyền tay sai của phát xít nhật. Về quân sự, ủy ban quân sự các cấp được thành lập và đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng, có nhiệm vụ chỉ huy các trận chiến đấu chống Nhật, tiễu phỉ, trừ gian, mở rộng căn cứ địa; đồng thời xây dựng và phát triển lực lượng; chuẩn bị mọi mặt về quân sự cho khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa. Sau thắng lợi của trận Tam Đảo (16.7.1945), Chiến khu Việt Bắc không ngừng được mở rộng. Từ đây, các đơn vị giải phóng tiến sang các vùng lân cận. Từ Tân Trào liên lạc với an toàn khu của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ở ngoại thành Hà Nội và vùng giáp ranh; liên lạc với Chiến khu Quang Trung, Chiến khu Trần Hưng Đạo. Tại Chiến khu Việt Bắc còn diễn ra một số hoạt động của quân Đồng minh (Mỹ), liên kết với Việt Minh đánh Nhật. Về kinh tế, chính quyền cách mạng vận động nhân dân tích cực sản xuất, thực hành tiết kiệm, ổn định đời sống. Tại các huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang); Chợ Đồn, Chợ Rã (Bắc Kạn); Định Hóa (Thái Nguyên)... tổ chức hợp tác xã mua bán, vận chuyển hàng hóa về xuôi và đưa muối, diêm lên phục vụ đồng bào. Về văn hóa xã hội, thực hiện chủ trương của Ủy ban chỉ huy lâm thời, Trường Cứu quốc sơ cấp và Trường Sư phạm được mở ở huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn). Các trường, lớp được mở ở xã cho con em các dân tộc đến học tập, xóa nạn mù chữ. Nếp sống mới được tuyên truyền, tổ chức rộng rãi. Toàn khu có các báo: Nước Nam mới, Quân giải phóng; các tỉnh Cao - Bắc - Lạng có tờ Việt Nam độc lập. Đồng thời, Ủy ban chỉ huy lâm thời chỉ đạo các đơn vị Việt Nam giải phóng quân cùng tự vệ, du kích tiến công địch ở nhiều nơi, mở rộng khu giải phóng. Ngày 13-15.8.1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngay đêm 13.8, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập, Tổng bí thư Trường Chinh, trực tiếp phụ trách ra Quân lệnh số 1, phát lệnh khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Ngày 16.8, Quốc dân đại hội diễn ra ở Tân Trào, thống nhất chủ trương tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, thông qua lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh và 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đại hội quy định quốc kỳ, quốc ca và cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa), do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Chiến khu Việt Bắc là nơi nhận được mệnh lệnh tổng khởi nghĩa sớm nhất trong toàn quốc. Các đơn vị bộ đội chủ lực giải phóng quân và lực lượng du kích, tự vệ địa phương cùng với nhân dân nổi dậy, giải phóng các châu lị, thị trấn, thị xã trên địa bàn Việt Bắc và vùng ven Chiến khu Việt Bắc. Cùng với cả nước, tổng khởi nghĩa ở Chiến khu Việt Bắc đã giành thắng lợi.

Chiến khu Việt Bắc giữ vai trò quan trọng bảo đảm bí mật, an toàn nơi làm việc và chỉ đạo cách mạng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Mặt trận Việt Minh. Mặc dù tồn tại trong thời gian ngắn, Chiến khu Việt Bắc cho thấy hình ảnh một nước Việt Nam mới, những hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa thể hiện chức năng xây dựng chế độ xã hội ưu việt. Hiện nay, Chiến khu Việt Bắc vẫn còn các di tích: ATK Định Hóa, đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào, lán Nà Lừa, hang Pắc Bó… là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử và giáo dục truyền thống cách mạng cho mọi thế hệ.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  • Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.
  • Bộ Quốc phòng, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
  • Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
  • Hoàng Ngọc La, Căn cứ địa Việt Bắc (1940-1945), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
  • Việt Bắc - 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990.