Phân biệt truyện cổ tích thần kì và thế sựBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.79 KB, 20 trang ) Show Phân biệt truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích thế sự? 4. Nhân vật - Cổ tích thần kì: đa số nhân vật chính diện là người thụ động , bất lực trước hoàn cảnh. Truyện cổ tích thần kì lí tưởng hóa các nhân vật chính diện bằng cách làm lại cuộc đời của họ 1 cách không tưởng và khẳng định phẩm chất của học 1 cách tuyệt đối. - Cổ tích thế sự: nhân vật có tính chủ động, tích cực hơn. Truyện cổ tích thế sự cũng lí tưởng hóa nhân vật của mình nhưng theo 1 cách khác: để cho họ tự lo liệu lấy số phận mình, khẳng định phẩm chất của họ thông qua ứng xử cụ thể của bản thân họ. Sự bế tắc của họ là sự bế tắc của con người tích cực. 5. Không gian, thời gian. - Cổ tích thần kì: Thời gian, không gian trong truyện đa dạng: có thời gian kéo dài, thời gian đứng yên, phi thực…Không gian rộng lớn của bốn cõi: trời , đất, trần gian, hoàng cung, địa ngục. Nhân vật có thể di chuyển tức thời và dễ dàng. Cuộc đời nhân vật cũng được miêu tả kéo dài trong thời gian, không gian mở rộng, kéo dai với nhiều sự kiện, tình huống khác nhau => mang tính phi thực cao hơn. - Cổ tích thế sự: Không gian, thời gian gần giống với không gian, thời gian thực tại, trần Trang 2 thế trong quan niệm thông thường của nhân dân. Cuộc đời nhân vật được miêu tả tập trung, hạn chế. . Truyện cổ tích sinh hoạt à "gần đời thiết thực"; những câu chuyện vẫn xảy ra trong cuộc sống đa dạng của xã hội loài người. - Truyện cổ tích là loại truyện tự sự dân gian có tâm thế hư cấu, xuất hiện từ rất xưa, chủ yếu do các tầng lớp bình dân sáng tác, trong đó óc tưởng tượng (bao gồm cả huyễn tưởng) chiếm phần quan trọng . Có thể có yếu tố hoang đường, kì diệu hoặc không - Phong cách truyện cổ tích thường kết hợp hiện thực với lãng mạn Trang 3 - Khái quát hiện thực xã hội ,con người với tư cách “tổng hòa những quan hệ xã hội”. - Trình bày cuộc sống trong trạng thái động của nó, phù hợp với quy luật phát triển nội tại của nó, và phù hợp với nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân về cuộc sống đó. - Trình bày cuộc sống trong trạng thái động của nó, phù hợp với quy luật phát triển nội tại của nó, và phù hợp với nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân về cuộc sống đó. Truyện cổ tích thần kỳ:giai đoạn đầu thường gắn với thần thoại và có ý nghĩa ma thuật như dũng sĩ diệt trăn tinh (rắn, rồng v.v.) cứu người đẹp; quan hệ dì ghẻ và con riêng; đoạt báu vật thần thông; người con gái đội lốt thú kỳ dị bí mật giúp đỡ chồng; v.v. II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KÌ 1. Nhân vật chính của truyện cổ tích thần kì Người dũng sĩ (Thạch Sanh – người mồ côi cũng là dũng sĩ diệt chằn tinh và đại bàng, Chàng Hai trong truyện Giết thuồng luồng,…) Nhóm người có tài lạ (Ba chàng thiện nghệ, Bốn anh tài, Anh em sinh năm,…) - Người em út (Lang Liêu trong Sự tích bánh chưng, bánh Dầy, người em trong Hai anh em và Cây khế,…) Người mồ côi (Chử Đồng Tử trong truyện Chử Đồng Tử, Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh,…) Người con riêng (Tấm trong Tấm Cám, cậu bé trong Sự tích chim đa đa …) Người đi ở (anh trai cày trong Cây tre trăm đốt, cô gái đi ở trong Sự tích con khỉ,…) Người mang lốt vật (Sọ Dừa trong truyện Sọ Dừa, Cóc trong Lấy vợ cóc,…), èMỗi nhân vật trong số những nhân vật trên là tên gọi chung của những nhân vật đồng dạng –có những nét tương đồng căn bản về tính cách, hành động và số phận và thường xuất hiện trong những truyện cổ tích thần kì có cốt truyện đại thể giống nhau. Người ta gọi là kiểu nhân vật. à Phân loại nhân vật chính: Loại nhân vật bất hạnh gồm người em út, người con riêng, người mồ côi, người mang lốt vật, người đi ở,… Loại nhân vật kì tài gồm người dũng sĩ và những người có tài lạ. 1. Nhân vật chính của truyện cổ tích sinh hoạt: Trang 4 - Nhân vật xấu xa: đứa con bất hiếu (Đứa con trời đánh,…), người vợ, người chồng bất nghĩa (Đồng tiền Vạn Lịch,…), người bạn bất lương (Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông,…), kẻ lừa đảo để lấy vợ giàu (Dì phải thằng chết trôi, tôi phải đôi sấu sành,…). - Nhân vật đức hạnh: người mẹ hiền, người con thảo (Mẹ hiền, con thảo), người vợ, người chồng tình nghĩa (Nghĩa cũ tình nay, Mài dao dạy vợ,…), người dân lương thiện (Người ăn mía và người chủ vườn,…). - Nhân vật mưu trí (trí xảo): (Trạng Quỳnh, Nói dối như Cuội, Em bé thông minh, Phân xử tài tình,…) Nhân vật khờ khạo (ngốc): (Đặt lờ trên ngọn cây, Thằng chồng khờ, Chàng ngốc được kiện, Trạng Lợn,…) 2. Xung đột trong truyện cổ tích thần kì * Truyện cổ tích thần kì nổi lên hai loại xung đột: xung đột xã hội và xung đột giữa con người với những trở lực của thiên nhiên. - Đề tài về sự xung đột của con người với những trở lực của thiên nhiên à nhằm tìm hiểu và chế ngự những sức mạnh tự nhiên trong thần thoại và sử thi. - Hai xung đột: xung đột xã hội và xung đột của con người với thiên nhiên làm nảy sinh một số truyện kết hợp cả hai đề tài ấy. (Truyện Thạch Sanh với hai tình tiết Thạch SanhChằn Tinh, Đại Bàng và Thạch Sanh- Lí Thông, là một ví dụ tiêu biểu). ** Truyện cổ tích thần kì luôn luôn được giải quyết nhờ sự can thiệp của các lực lượng thần kì. Nhân vật chính ít nhiều có tính chất thụ động Lực lượng thần kì gắn với tín ngưỡng: những nhân vật thần kì (Thần, Bụt, Tiên,…); những vật có phép màu ( cung tên thần, gươm thần, đàn thần, bút thần, sách ước,…); sự biến hóa siêu tự nhiên ( người hóa thành vật, vật hóa thành người, vật này hóa thành vật khác, người thế này hóa thành người thế khác,…)… Trang 5 Lực lượng thần kì cũng có thể chia thành hai loại: lực lượng thần kì trợ thủ của nhân vật chính ( phía thiện chính nghĩa) và lực lượng thần kì đối thủ của nhân vật chính hay đối thủ thần kì (phía ác, phi nghĩa). 2. Xung đột trong truyện cổ tích sinh hoạt Hai đề tài lớn: đề tài đạo đức và đề tài trí khôn - Thường chỉ đơn giản là những câu chuyện kể mang tính chất minh họa về những tấm gương kiểu mẫu về phẩm hạnh (hiếu, đễ, tiết, nghĩa,…) hoặc những “tấm gương phản diện” cùng loại à giới hạn ở sự giáo dục đạo đức - Xung đột là xung đột xã hội. Nói đúng hơn, đó là những câu chuyện kể về cuộc tả xung hữu đột của nhân vật mưu trí với đám cường hào, quan lại, thậm chí với cả vua chúa, cả thần thánh va cả sứ của “thiên triều”. Xung đột giữa ngay và gian trong đời thường nhưng là xung đột ở ngay đỉnh điểm, căng thẳng àcách giải quyết những xung đột à ước mơ lãng mạn về một nền công lý sáng suốt, công bằng. è xung đột làm nền cho truyện cổ tích sinh hoạt vẫn là xung đột xã hội. - Đã vượt ra ngoài khuôn khổ của những quan hệ gia đình. Ví dụ: cuộc tả xung hữu đột của Trạng Quỳnh ngay giữa xã hội lớp trên rõ ràng là một biểu hiện sinh động của cuộc đấu tranh của nhân dân chống ách chuyên chế phong kiến. 3. Kết cấu của truyện cổ tích thần kì. Phần đầu: nhân vật chính xuất hiện. - Mô típ a: sự xuất thân thấp hèn ( loại nhân vật bất hạnh) - Mô típ b: sự ra đời thần kì ( loại nhân vật kì tài Phần giữa: cuộc phiêu lưu của nhân vật chính trong “ thế giới cổ tích”. +Ra đi -Mô típ a: rời nhà đi nơi xa. Trang 6 - Mô típ b: bước vào tình huống, hoàn cảnh khác thường. + Gặp thử thách, lực lượng thù địch. - Mô típ a: gặp nhiều (thường là ba ) thử thách, địch thủ. - Mô típ b: gặp một thử thách, địch thủ. +Chiến thắng thử thách, lực lượng thù địch. - Mô típ a: nhờ trợ thủ thần kì. - Mô típ b: bằng tài trí, lòng tốt. Phần kết: Đổi đời hay là sự thay đổi số phận trong “thế giới cổ tích”. - Mô típ a: thưởng (cho nhân vật chính) và phạt ( đối với kẻ ác, lực lượng thù địch). - Mô típ b: nhân vật chính được đền bù, được giải thoát khỏi sự bất hạnh,…nhờ sự biến hóa siêu nhiên è Tính chất trọn vẹn của câu chuyện kể về số phận, cuộc đời nhân vật chính; tính chất phiêu lưu của cuộc đời nhân vật chính, vai trò không thể thiếu của yếu tố thần kì,… 3. Kết cấu của truyện cổ tích sinh hoạt Không được xây dựng theo một hoặc một vài sơ đồ kết cấu chung nào. Câu chuyện kể thường linh động, vì những môtip xã hội và sinh hoạt không bền vững. - Kiểu kết cấu “kể sự việc” + Sử dụng rộng rãi trong nhóm truyện về đề tài đạo đức + Kiểu kết cấu này hết sức đơn giản,nhân vật thì không có diện mạo, cuộc đời thì chỉ kết ở một sự việc và trong sự việc ấy hầu như không có xung đột trực diện (Ví dụ: “Mài dao dạy vợ, Giết chó khuyên chồng, Cờ gian bạc lận, Đứa con trời đánh,…) + Được sử dụng phổ biến ở những truyện cổ tích sinh hoạt về đề tài “Phân xử tài tình”:chỉ kể việc, không tả người; nhân vật chính cũng không có số phận à chính sự việc được kể đã vẽ ra tính cách của nó. - Kiểu kết cấu “xâu chuỗi”: àđề tài trí khôn,nhóm truyện “Trạng”. “Trạng Quỳnh” 40 truyện; “Trạng Lợn” 20truyện.) Trang 7 + Đó là những câu chuyện kể về những cuộc phiêu lưu của nhân vật mưu trí và của nhân vật khờ khạo. Cuộc phiêu lưu của nhân vật mưu trí thì chủ động>< của nhân vật khờ khạo thì chỉ là nhắm mắt, đưa chân. Kết quả thành bại ra sao thì hoàn toàn bất ngờ không đoán được Như vậy, “Xâu chuỗi” là một biện pháp nghệ thuật kết cấu nằm khắc họa rõ nét thêm tính cách nhân vật, nâng cao “tầm vóc” của tính cách ấy 4. Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kì. - Trực tiếp liên hệ đến nhân vật chính à nói về cuộc đời nhân vật chính. Nhân vật đã qua những không gian rộng lớn, từ xứ sở này đến xứ sở khác, đến tận nơi cuối đất cùng trời thậm chí xuống cõi âm, xuống thủy phủ, lên cõi tiên,…nhưng thời gian, với nó, như ngưng đọng – nó không già đi, không thay đổi. Liên quan đến những lực lượng thù địch của nhân vật chính và những trợ thủ thần kì của nó. àKhác : thời gian mau lẹ đối với những yêu quái, ma ác, quỷ thần và những trợ thủ thần kì. Con đường nhân vật đi từ vương quốc của yêu quái đến thế giới người xa lắc xa lơ. Nhưng yêu quái truy đuổi nhân vật chính cũng đuổi kịp rất nhanh. Mâu thuẫn về không gian – thời gian ấy được “điều chỉnh” bởi những trợ thủ thần kì, bởi vì những vai này cũng sống trong cùng thời gian như lực lượng thù địch của nhân vật chính. Hư cấu nảy sinh từ đầu mối ấy. - Thời gian truyện cổ tích gắn với tri giác về tiết tấu câu chuyện kể. Hệ thống trùng lặp từ, câu… là chỉ báo về tính “một hồi” hay “nhiều hồi” của chuỗi hành động. Chính chúng tạo ra tiết tấu của thời gian truyện cổ tích. à Như vậy, thời gian của truyện cổ tích là dòng chảy của chuỗi hành động của nhân vật chính – nó chậm chạp hay gấp gáp là do động thái của nhân vật chính 5. Những công thức cố định trong truyện cổ tích thần kì. Có ba loại công thức cố định: những công thức mở đầu, những công thức kết thúc và những công thức trần thuật Trang 8 * Công thức mở đầu: - “Ngày xửa ngày xưa, ở một làng kia, có một,…”. - Truyện các dân tộc thiểu số mở đầu bằng những công thức như “Ngày xưa, vào cái thời chim chích nuốt con sóc, con sóc nuốt con cầy…có một…” (Thái) - “Ngày xưa, lúc chiếc bánh giầy còn biết thổi kèn, đánh trống, người Hmông còn chưa biết may quần áo, chưa có vàng bạc, chưa có nhẫn đeo tay…” (Hmông) èNhững công thức ấy đều có chung một đặc điểm hình thức, biểu thị tính chất đặc biệt cổ xưa, ám chỉ tính chất “dường như có thể có” của câu chuyện kể. - Chức năng cơ bản của công thức mở đầu là đưa người nghe từ dòng thời gian của cuộc đời hàng ngày vào thời gian của câu chuyện kể, tách rời sinh hoạt hiện tại và, sau đó, như theo một phép màu, nhập thân vào “thế giới cổ tích”. Công thức kết thúc Truyện cổ tích người Việt thường kết thúc: “Từ đó, dân Việt mới có tục ăn trầu…” (Sự tích trầu, cau, vôi); “Ngày nay, những con sam thường đi cặp đôi, lúc nào con sam đực cũng ôm lấy con sam cái ở dưới nước, như khi chồng ôm vợ để bay qua biển” (Sự tích con sam),…Công thức này đưa ra một “dấu vết xưa còn lại” – một tục lệ, một sự vật,... – làm bằng chứng cho “tính chất có thật” của câu chuyện kể. *** Những công thức trần thuật Đó là những công thức về thời gian, những công thức miêu tả đặc điểm nhân vật, những công thức miêu tả hoàn cảnh tình huống,… * Các kiểu nhân vật của truyện cổ tích gồm hai cặp nhân vật đối nghịch:đức hạnh và xấu xa, mưu trí và khờ khạo. - Xuất hiện loại nhân vật “tiêu cực” - Đối với nhóm truyện về đề tài đạo đức: “nhân vật tích cực”, “nhân vật tiêu cực” được xác định bằng tiêu chuẩn đạo đức Trang 9 - Đối với nhóm truyện về đề tài trí khôn, “nhân vật tích cực”, “nhân vật tiêu cực” được xác định theo tiêu chuẩn trí khôn. Ví dụ: Trạng Quỳnh - “Trạng Quỳnh”, Cuội - “Nói dối như Cuội”,…là những nhân vật mưu trí, trí xảo, do đó đều là “nhân vật tích cực”. - “Nhân vật tiêu cực” về đề tài trí khôn là nhân vật khờ khạo. Dù nó không có biểu hiện xấu xa về mặt đạo đức nhưng vì do nó ngốc và do ngốc nghếch mà luôn gặp thất bại nên nó được coi là “nhân vật tiêu cực”. 4. Không gian và thời gian nghệ thuật của truyện cổ tích sinh hoạt Không gian và thời gian “cổ tích” trong truyện cổ tích sinh hoạt rất gần gũi với người kể và người nghe truyện. - Bối cảnh sinh hoạt của câu chuyện kể quen thuộc với họ: khung cảnh nông thôn và gia đình nông dân; - Những chuyện áp bức bóc lột và đời sống xã hội trong làng xã; - Kẻ buôn bán và chuyện lừa đảo; - Người học trò và chuyện thi cử; chốn cửa quan và chuyện kiện tụng;… àCâu chuyện như xảy ra không xa, mà cũng chưa lâu, trong cuộc đời hàng ngày. 5. Thực tại và hư cấu trong truyện cổ tích sinh hoạt - Thực tế thực tại đã trở thành cái nền của câu chuyện kể. Có những truyện được kể như những câu chuyện mắt thấy tai nghe. - Hư cấu không mang tính chất hư cấu kì ảo như ở truyện cổ tích thần kì. +Sử dụng yếu tố kì dị nhằm thể hiện tư tưởng quả báo, thiên mệnh (“Đứa con trời đánh”, “Chum vàng bắt được”,…) +Sự miêu tả phi lí: Câu chuyện kể cho đến một lúc nào đó, hoàn toàn giống như thật; + Sự miêu tả phóng đại một nét tính cách nào đó của nhân vật (thường là ở loại nhân vật “tiêu cực”) hoặc một tình huống khác thường àTính chất gây cười của nhiều truyện cổ tích sinh hoạt bắt nguồn từ chỗ đó. Trang 10 Thi pháp truyền thuyết và truyện cổ tích thần kỳ từ góc nhìn so sánh? Truyền Thuyết và truyên cổ tích là hai loại truyện dân gian hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau.Do đó đặc điểm thi pháp cũng không giống nhau.Tuy nhiên bên cạnh sự khác nhau, giữa hai loại truyện này cũng có những mối quan hệ và sự tương đồng nhất định I.Về quan hệ giữa hai thể loại: - Xét thời điểm ra đời, truyền thuyết xuất hiện sớm và trước cổ tích rất lâu. Truyền thuyết tiếp ngay sau thần thoại, . Truyền thuyết được xem là phương cách lý giải lịch sử; cách tưởng nhớ nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử theo quan điểm của nhân dân. - Truyền thuyết luôn gắn liền vận mệnh dân tộc. Nó là sự hòa quyện giữa “niềm tin” và “cái thiêng”; là sự kết hợp giữa “lịch sử” và “hư cấu”. - Trong khi đó, cổ tích ra đời muộn hơn. Cổ tích tiếp sau truyền thuyết - Cổ tích chỉ ra đời trong lòng một xã hội đã phân chia giai cấp và nảy sinh mâu thuẫn giai cấp về quyền lợi, địa vị. - Cổ tích gắn liền số phận những người bất hạnh trong cuộc đời thường. Nó là phương cách mà nhân dân gởi gắm ước mơ, khát vọng về một cuộc đời tốt đẹp, công bằng, hạnh phúc. Nó là sự hòa quyện giữa “vẻ đẹp hồn nhiên, ngây thơ” và “chất thần kỳ, huyền ảo”; là sự kết hợp giữa “hiện thực” và “hư cấu”. ->Như vậy, quan hệ giữa truyền thuyết và cổ tích là quan hệ tiếp nối và song hành. Cổ tích tiếp nối truyền thuyết,. Cổ tích song hành cùng truyền thuyết, cùng vận động và phát triển. Có điều, khi cổ tích hết vai trò tạo ra một “thế giới kỳ ảo chỉ có trong mơ ước” thì truyền thuyết vẫn còn nhận lãnh sứ mệnh là bộ sử dân gian II. Những điểm giống và khác nhau giữa cổ tích và truyền thuyết a. Điểm giống nhau: CỔ TÍCH THẦN TRUYỀN THUYẾT KỲ LỊCH SỬ Tự sự dân gian (có nhân vật, cốt truyện, tình tiết, lời Dạng thức kể…) ĐIỂM Phương Cùng có sự hiện diện của yếu tố kỳ ảo, hoang GIỐNG pháp đường. NHAU phản ánh TIÊU CHÍ SO SÁNH Trang 11 CỔ TÍCH THẦN TRUYỀN THUYẾT KỲ LỊCH SỬ Mọi truyền thuyết đều gắn với nhân vật lịch sử và Nội dung sự kiện lịch sử. Một số truyện cổ tích thần kỳ cũng lịch sử có nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử. TIÊU CHÍ SO SÁNH Chứng tích văn hóa Truyền thuyết thường gắn liền chứng tích văn hóa (địa danh, núi sông, gò bãi, lăng mộ, lễ hội…). Một số truyện cổ tích thần kỳ cũng gắn liền với chứng tích văn hóa. - Có thể tin hoặc không tin vào điều Thái độ được kể tiếp nhận - Không có nhu cầu gắn tác phẩm với chứng tích văn hóa - Luôn có niềm tinvào điều được kể - Luôn có nhu cầu gắn tác phẩm với chứng tích văn hóa 2. Điểm khác nhau: Tuy nhiên, truyền thuyết và cổ tích là hai thể loại khác biệt nhau cả về chức năng lẫn thi pháp. 1. Kết cấu văn bản - Kết cấu một văn bản cổ tích nhìn chung ổn định và theo công thức: giới thiệu lai lịch, cảnh ngộ nhân vật → nhân vật gặp thử thách → vượt thử thách → kết thúc hạnh phúc. - Đặc biệt, trong cổ tích, kết thúc tác phẩm thường bao giờ cũng có “hậu”. Nhân vật bao giờ cũng được đền bù xứng đáng cho những bất hạnh, những thử thách nghiệt ngã mà mình phải gánh chịu, phải vượt qua., khiến người nghe (đọc) đều thỏa mãn, không chờ đợi gì thêm nữa. - Còn ở truyền thuyết, kết cấu văn bản hầu như không theo một công thức nào. Đặc biệt, kết thúc tác phẩm luôn theo hướng “mở”. Nhân vật, nếu lập chiến công sẽ bay về trời hoặc theo môtíp “đi đâu không biết”. Nhân vật, nếu phải chịu tuẫn tiết, hy sinh thì hiển linh, thành phò trợ nhân dân. Cách kết thúc này khiến nhân vật truyền thuyết không thể trở lại sống cuộc đời thường nhưng cũng không thể chết. Bởi nhân vật đã bất tử trong lòng nhân dân. Trang 12 - Về lời kết, cổ tích thần kỳ và truyền thuyết lịch sử hay nhắc đến những chứng tích văn hóa còn lưu lại (một phong tục của làng xã, một tập tính của loài vật, một hình thể của núi non...). Tuy nhiên, mục đích kết thúc của hai thể loại khác nhau rõ rệt. - Ở cổ tích, “những chi tiết đó không phải là những bằng chứng chứng tỏ câu chuyện kể là có thật như những “cổ tích” trong truyền thuyết lịch sử. Đó là những chi tiết nghệ thuật nhằm đem lại cho câu chuyện kể có tính chất tưởng tượng, tính chất hư cấu kỳ ảo (tức là truyện cổ tích) một màu sắc có vẻ như thật. - Trong khi đó, ở truyền thuyết, những chứng tích văn hóa được nêu ở cuối tác phẩm lại là thành tố không thể thiếu của thể loại.(Núi Sóc Sơn khi Gióng bau về trời) Nó là yếu tố giữ gìn sức sống của truyền thuyết 2. Nhân vật: - Nhân vật chính trong cổ tích, đặc biệt ở cổ tích thần kỳ, là con người của đời thường, trong một xã hội phân chia giai cấp với đầy bất công, ngang trái. Đó là những nhân vật bất hạnh: đứa con mồ côi, đứa con riêng, người con út, người đi ở, nhân vật xấu xí... Diễn biến số phận của nhân vật trong cổ tích là một chuỗi dài bị thử thách, vượt qua thử thách, để rồi kết thúc có hậu, nhân vật được đền bù, được hưởng hạnh phúc dài lâu trong đời thường. - Trái lại, nhân vật chính trong truyền thuyết luôn là nhân vật lịch sử, là những anh hùng làm nên lịch sử. - Một số đã được chính sử lưu danh, như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung, Trương Định... Nhưng phần nhiều là những anh hùng được nhân dân tôn vinh, tưởng nhớ. Họ là những nhân vật quần chúng hướng theo cờ đại nghĩa. - Họ hiện diện trên khắp nẻo đường đánh giặc. Vì một dạ trung thành, dám xả thân phò tá, chở che chủ tướng, hoặc mưu trí lập công..., họ được nhân dân ngợi ca, tưởng nhớ bằng cách đưa vào truyền thuyết, trở thành nhân vật truyền thuyết. - Có điều, kết cuộc của nhân vật trong truyền thuyết luôn mang tính chất “mở”. Nhân vật không như ở cổ tích, luôn gặp kết thúc có hậu, được hưởng hạnh phúc trong đời thường, mà phần nhiều, họ phải chịu tuẫn tiết, hy sinh, hóa thân vào hồn thiêng sông núi. - Về nghệ thuật thể hiện, mỗi nhân vật trong cổ tích thần kỳ luôn thuộc về một kiểu nhân vật nào đó (người mồ côi, người em út, người xấu xí mà tài ba...). Nhân vật cổ tích được xây dựng theo nguyên tắc: mỗi nhân vật chỉ xuất hiện trong một câu chuyện và chuỗi dị bản của truyện đó mà thôi. - Ví dụ, cô Tấm chỉ có trong cổ tích Tấm Cám; Thạch Sanh chỉ có trong truyện cổ tích cùng tên; rồi Sọ Dừa, anh Khoai... cũng không ngoại lệ. Ngay cả trong nhiều câu chuyện khác nhau, dù người kể chỉ dùng một từ phiếm chỉ: “chàng trai nghèo Trang 13 nọ, cô gái kia” nhưng cũng không ai nghĩ rằng đó là một nhân vật được xuất hiện trong nhiều câu chuyện. Bởi lẽ, trong cổ tích, mỗi tác phẩm là câu chuyện trọn vẹn về cuộc đời một nhân vật. Một khi cổ tích đã kết thúc rồi thì xem như không còn gì kể thêm về nhân vật nữa. - Như cổ tích, trong truyền thuyết, nhân vật cũng luôn thuộc về một kiểu nhân vật nào đó (nhân vật có biệt tài, nhân vật được giúp sức, nhân vật bị hành quyết...). Nhưng khác cổ tích, nhân vật trong truyền thuyết còn xuất hiện theo nhóm truyện, hệ thống truyện. Ví dụ, nhóm truyền thuyết về anh hùng Lê Lợi, nhóm truyền thuyết về anh hùng Nguyễn Trung Trực, nhóm truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Thiên Hộ Dương... Sở dĩ có hiện tượng này là vì truyền thuyết không bao giờ xuất hiện riêng lẻ. Chính sự hiện diện của nhân vật lịch sử trong tác phẩm đã giúp các truyền thuyết rời rạc kết dính với nhau thành từng mảng, nhóm truyện. Nhờ đó, truyền thuyết luôn có số lượng phong phú và tồn tại theo hệ thống. - Tình tiết Là tự sự dân gian nên truyền thuyết và cổ tích đều có cốt truyện. Cốt truyện được hình thành từ hệ thống các tình tiết. Ở cổ tích, tình tiết chính trong những truyện có cùng kiểu nhân vật thường giống nhau. Ví dụ, ở chuỗi tình tiết nhân vật đi cứu công chúa (tìm người yêu, tìm thuốc quý, tìm kho báu...), trên đường đi, hễ gặp giống vật nào mắc nạn thì chàng trai (cô gái, người em) sẵn lòng dừng lại cứu giúp. Sau này, khi gặp thử thách, nhân vật sẽ lập tức được chính các giống vật ấy lần lượt giúp đỡ lại. Hay ở chuỗi tình tiết thử thách, thử thách sau bao giờ cũng cam go hơn thử thách trước, nhưng lúc nào nhân vật chính cũng vượt qua, để rồi được nhận phần thưởng cao quý hơn lần trước. Sự giống nhau này có thể xem là dạng “đại đồng tiểu dị”. -Còn truyền thuyết không như vậy. Mỗi truyền thuyết đều có những tình tiết riêng biệt của mình, kể cả trong những truyện có cùng kiểu nhân vật. Tuy truyền thuyết cũng sử dụng môtíp nhưng những môtíp này không theo công thức định sẵn như ở cổ tích. Ví dụ: nhân vật lịch sử, trên bước đường khởi nghĩa, không phải hễ mình giúp được ai (giống vật gì) thì ắt sau này sẽ được người ấy (giống vật ấy) giúp đỡ lại. Phần nhiều, họ thành công là do bất ngờ có lực lượng phù trợ (trời, thần nhân, quần chúng mộ nghĩa). Và nhân vật lịch sử bao giờ cũng gặp thử thách. Nhưng không phải thử thách nào họ cũng vượt qua được. Thậm chí, họ còn bất ngờ gặp rủi ro, để rồi chiến bại. - Có thể nói, nếu tình tiết trong cổ tích thường ở dạng “đại đồng tiểu dị” thì tình tiết trong truyền thuyết lại mang tính cụ thể, không trùng lặp. 3.Thời gian và không gian nghệ thuật: Trang 14 a.Thời gian: - Trong cổ tích thần kỳ, thời gian luôn mang tính ước lệ, tượng trưng. Chuyện thường bắt đầu bằng lời dẫn quen thuộc: “ngày xưa, thuở xưa, ngày xưa xưa lắm, không biết thời nào, một ngày nọ, bỗng hôm kia, vào một đêm trăng…”. - Kiểu thời gian mơ hồ này khiến câu chuyện luôn được bao bọc trong màn sương huyền ảo. - Nó gợi ra một quá khứ thật xa xăm, đồng thời toát lên vẻ đẹp một đi không trở lại. Chính sự mơ hồ của thời gian khiến câu chuyện thêm phần hấp dẫn. - Trái lại, thời gian trong truyền thuyết lịch sử bao giờ cũng mang tính xác định. Có điều, tính xác định của thời gian trong truyền thuyết không hoàn toàn đồng nhất với thời gian thực tế. : “Chẳng hạn như giặc Ân trong truyền thuyết Thánh Gióng. Niên đại trong truyền thuyết này và truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh không ăn khớp gì với sự thật lịch sử. Vậy mà, qua hàng bao thế kỷ, nhân dân vẫn hiểu được: giặc Ân phi lịch sử đó là tượng trưng cho một thứ giặc ngoại xâm, niên đại phi lý đó là ước lệ cho một khoảng thời gian rất xa xưa - Thời gian xác định khiến truyền thuyết luôn gắn với một triều đại cụ thể, thậm chí gắn với từng phút giây lịch sử. Trong truyền thuyết, chiến công và số phận của nhân vật lịch sử, nội dung sự kiện lịch sử chỉ có ý nghĩa, chỉ đáng tin khi được gắn kết với những thời điểm lịch sử cụ thể, xác định. - Ví dụ, Thánh Gióng gắn liền thời Hùng Vương giữ nước, Hai Bà Trưng phất cờ - thời chống xâm lược Hán, Bà Triệu cưỡi voi ra trận - thời chống giặc Ngô, Lê Lợi tập hợp hào kiệt - thời chống quân Minh, Trương Định lãnh chức Bình Tây nguyên soái - buổi đầu chống Pháp... - Và hiển nhiên, niềm tin của người nghe (người đọc) truyền thuyết sẽ bị phá vỡ khi nhân vật và sự kiện lịch sử bị ghép sai với thời điểm lịch sử. Có thể nói,cụ thể, chính xác là yêu cầu đặt ra đối với thời gian truyền thuyết. Khác cổ tích, trong truyền thuyết, thời gian càng cụ thể, xác định, tính đáng tin của câu chuyện càng tăng dần. Về cách thể hiện thời gian, truyện cổ tích không quan tâm đến thời gian thực, thời gian vật lý. Nó không có thời gian tâm lý. Trong cổ tích, thời gian giữ vai trò tạo không khí, dẫn dắt, liên kết các tình tiết chứ không nhằm khắc họa tính cách, số phận nhân vật. Nó được xem là một yếu tố nghệ thuật quan trọng trong tác phẩm. Trái lại, truyền thuyết gắn chặt với thời gian thực, thời gian vật lý, đôi khi có cả sự hiện diện của thời gian tâm lý (trong một số truyền thuyết đời sau). Theo từng mốc thời gian, nhân vật lịch sử sẽ lớn lên, gặp biến cố, lập chiến công và đến hồi kết cuộc (hy sinh hoặc hóa thân). -Thời gian trong truyền thuyết không có chức năng tạo nên tính hấp dẫn, lôi cuốn cho câu chuyện như ở cổ tích. Điều quan trọng mà thời gian trong truyền thuyết có thể mang đến cho người nghe (người đọc) chính là tính đáng tin của câu chuyện kể. Trang 15 - Nói chung, nếu thời gian trong cổ tích chỉ tạo nên tính hấp dẫn cho câu chuyện chứ không nhằm khẳng định tính xác thực cho nội dung thì ngược lại, thời gian trong truyền thuyết chỉ giúp khẳng định tính xác thực cho nội dung chứ không nhằm tạo nên tính hấp dẫn cho câu chuyện. b. Không gian: Không gian tức là địa điểm, là nơi chốn mà câu chuyện diễn ra, nơi gắn liền với cuộc đời nhân vật và sự kiện trong tác phẩm. Trong cổ tích thần kỳ, không gian là tất cả cảnh vật, cuộc sống nơi trần thế: một làng quê thân thuộc, với ruộng lúa, đồng cỏ, giếng nước, bờ ao... (Tấm Cám, Sọ Dừa...); hay một gốc đa to, một khu rừng vắng (Thạch Sanh, Cây tre trăm đốt...); hoặc một bãi sông xa, một vùng biển rộng (Chử Đồng Tử, Sự tích núi Ngũ Hành, Sự tích con dã tràng...). Ngoài ra, còn một dạng không gian khác, đó là thế giới siêu nhiên, kỳ ảo: cõi thiên đình (Cóc kiện trời), cõi tiên (Từ Thức), âm phủ (Sự tích chùa Thủ Huồng), chốn thủy cung (Sự tích con dã tràng, Thạch Sanh...). Một số truyện cổ tích hội đủ cả không gian đời thường lẫn thế giới siêu nhiên, kỳ ảo. Không gian trong cổ tích thường được kết hợp với những từ ngữ mang tính phiếm chỉ: ngôi làng nọ, khu rừng kia, bến sông ấy... -Nó cũng không có sự kết nối với một mốc thời gian cụ thể nào trong quá khứ. Nói chung, không gian trong cổ tích không mang tính cụ thể, xác định. Đặc điểm này khiến không gian cổ tích càng mơ hồ, sự chuyển cảnh càng đa dạng thì câu chuyện càng thêm phần hấp dẫn. Nó kéo theo một nét tâm lý tiếp nhận cổ tích là: người nghe (người đọc) không có nhu cầu tìm hiểu ngôi làng ấy, khu rừng ấy... hiện ở địa phương nào, hay người ta phải làm cách gì để lên được thiên đình, xuống tận thủy cung... Tất cả điều ấy làm cho cổ tích mãi mãi là những câu chuyện về một thế giới kỳ ảo, chỉ có trong mơ ước. - Khác cổ tích, truyền thuyết không có không gian đời thường, cũng không có thế giới siêu nhiên, kỳ ảo. Không gian trong truyền thuyết luôn mang tính cụ thể, xác định. - Nó phải là những địa danh có thực, là không gian lịch sử, gắn liền với nhân vật và sự kiện lịch sử; gắn liền với thời gian lịch sử xác định. Nó đồng thời là những không gian thiêng, trường tồn cùng với sự bất tử của nhân vật lịch sử. Đơn cử, núi Tản Viên hóa chốn non thiêng vì gắn liền tên tuổi Sơn Tinh - vị anh hùng trị thuỷ, cũng là một trong Tứ bất tử trên thần điện Việt Nam. Sông Bạch Đằng trở thành địa danh lịch sử khi gắn với tên tuổi Ngô Quyền buổi đánh quân Nam Hán; gắn với thời đại Đông A, khi Trần Hưng Đạo cùng vua tôi nhà Trần đuổi giặc Nguyên – Mông. Trang 16 - Cần nói thêm, không gian trong cổ tích, do không mang tính cụ thể, xác định nên không chịu sự gán ghép, đặt để, kết dính với bất cứ một địa phương nào. Nói cách khác, truyện cổ tích là thể loại không mang tính địa phương, không thuộc sở hữu riêng của bất cứ bộ phận văn học dân gian địa phương nào. Tuy nhiên, nó lại là thể loại mang tầm quốc tế. Nói theo - Trái lại, không gian trong truyền thuyết do mang tính cụ thể, xác định nên luôn gắn liền với những địa phương, vùng miền cụ thể. Truyền thuyết chủ yếu được gìn giữ, lưu truyền do chính những người dân địa phương - nơi đã sinh ra hoặc từng in dấu tích người anh hùng. Cho nên, có thể nói, truyền thuyết là thể loại văn học dân gian mang tính địa phương rất đậm nét. c. Vị trí, vai trò của sự kiện lịch sử - Truyện cổ tích nhằm phản ánh cuộc sống thường ngày, với những mối quan hệ gia đình, xã hội. Cho nên, sự kiện lịch sử, nếu có, cũng không phải nội dung phản ánh của cổ tích, càng không phải mục đích mà tác phẩm cần lý giải, soi sáng. Phần lớn những sự kiện lịch sử ấy xuất hiện là do có liên quan đến nhân vật lịch sử trong truyện - hệ quả của phần truyền thuyết bồi lắng lại. - Trong khi đó, truyền thuyết chủ yếu phản ánh con người và sự kiện lịch sử, cho nên sự kiện lịch sử chính là phần nội dung quan trọng của truyền thuyết, cũng là mục đích mà tác phẩm cần lý giải, soi sáng. Có điều, truyền thuyết không làm nhiệm vụ ghi chép như sử biên niên. - -Truyền thuyết chỉ thông qua sự kiện lịch sử để làm sáng tỏ phần nào những khuất lấp mà chính sử không nói đến; để rút ra bài học lịch sử theo cách nhìn, cách phán xét của nhân dân. d. Chức năng tác phẩm Do tính nguyên hợp, mỗi thể loại văn học dân gian đều hàm chứa trong nó nhiều chức năng. Tuy nhiên, mỗi thể loại vẫn giữ một (hoặc vài) chức năng chủ yếu. -Về nội dung, truyện cổ tích luôn ca ngợi phẩm chất người lao động nghèo, hướng con người về với hạnh phúc trong đời thường. Truyện cũng phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp cùng những xung đột gay gắt về quyền lợi trong gia đình lẫn ngoài xã hội. Nhưng hình như cổ tích không nhằm giục người ta vùng lên đấu tranh đòi lại công bằng. Bởi cổ tích luôn có hậu. Cổ tích luôn luôn trao tặng con người một niềm tin bền vững: ở hiền sẽ gặp lành, gieo gió thì gặt bão. - Có thể nói, tuy hàm chứa chức năng nhận thức, giáo dục nhưng cổ tích vẫn là thể loại nghiêng về chức năng thẩm mỹ. Bởi lẽ, một câu chuyện cổ tích hấp dẫn, ly kỳ bao giờ cũng gợi lên những xúc cảm đẹp, niềm lạc quan cho cả người kể lẫn người nghe. Ai Trang 17 nấy, một khi đắm chìm vào thế giới cổ tích, đều như được an ủi, động viên, được cơ hội ước mơ và hy vọng. - Còn với truyền thuyết, chức năng chính không phải là thẩm mỹ; mục đích cao nhất của nó không phải là giải trí, cho dù nhiều tác phẩm có nội dung ly kỳ, hấp dẫn. Bởi không ai đi tìm cảm giác thư giãn, niềm vui thích từ những câu chuyện chiến đấu, hy sinh đầy đau thương, bi tráng của cha ông. Mọi người đến với truyền thuyết phần nhiều từ nhu cầu tâm linh. Từ chỗ nội dung luôn đề cập đến vận mệnh cộng đồng, luôn gắn số phận mỗi con người với số phận toàn dân tộc, truyền thuyết giúp đời sau hiểu đúng lịch sử dân tộc mình theo quan điểm của nhân dân. Truyền thuyết nhắc nhở mọi người đừng lãng quên tất cả những gì gợi nhớ các bậc anh hùng, nghĩa sĩ đã xả thân vì dân tộc. Truyền thuyết dạy mỗi người biết tự hào về quá khứ và sống có trách nhiệm hơn với hiện tại. - Nói chung, trong khi cổ tích nghiêng về chức năng thẩm mỹ thì truyền thuyết thiên về chức năng nhận thức và giáo dục. -d. Thái độ tiếp nhận - Ở Việt Nam, lối mở đầu chuyện bằng cách giới thiệu thời gian, không gian mơ hồ, kiểu “hồi xưa xưa lắm, không biết ở thời nào...” cũng là cách tiếp sức cho tính chất bịa đặt của chuyện cổ tích. Còn người nghe (đọc) cổ tích (thuộc mọi dân tộc, mọi thời đại) tuy luôn bị lôi cuốn bởi tính ly kỳ của câu chuyện nhưng không mấy ai tin rằng câu chuyện ấy có thật. Trẻ con hồn nhiên có thể tin là thật. Nhưng chúng sẽ sớm hiểu rằng, cổ tích chỉ là những câu chuyện tưởng tượng, chỉ là giấc mơ đẹp của người xưa. Về điều này, Prop từng nhận định,“không tin vào những điều được kể lại trong truyện cổ tích” là một dấu hiệu đặc trưng rất quan trọng của truyện cổ tích[xviii]. - Nhưng đối với truyền thuyết, niềm tin, đức tin trở thành cốt lõi của tác phẩm. Vì vậy, cả người kể lẫn người nghe (đọc) truyền thuyết đều tin câu chuyện là thật. Niềm tin ấy gắn liền với “cái thiêng”. Người ta tin truyền thuyết đến độ đôi khi không xem nó là một tác phẩm nghệ thuật mang chức năng giải trí mà chính là câu chuyện thuộc về tôn giáo và tín ngưỡng. Bảng 1: SO SÁNH CỔ TÍCH THẦN KỲ VÀ TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬ Trang 18 TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬ ĐIỂM Thời gian Mơ hồ, ước lệ Cụ thể, xác định - Không gian đời thường + - Không gian lịch sử, không gian thế giới siêu nhiên, kỳ ảo thiêng - Không gắn với thời gian - Gắn với thời gian lịch sử xác lịch sử xác định định Không - Không gắn liền với nhân - Luôn gắn liền với nhân vật, sự gian vật, sự kiện lịch sử xác kiện lịch sử xác định định. - Mang tính địa phương rõ nét - Không mang dấu ấn địa phương - Con người của đời - Nhân vật lịch sử, trong lúc vận thường, trong xã hội có mệnh dân tộc đang gặp khó khăn, mâu thuẫn giai cấp, nhiều thử thách, Nhân vật bất công, - Số phận nhân vật luôn gắn liền - Số phận nhân vật gắn số phận toàn dân tộc. liền hạnh phúc trong đời thường. Thường giống nhau theo Tình tiết Cụ thể, không trùng lặp kiểu “đại đồng tiểu dị” - Nhìn chung ổn định và - Hầu như không theo công thức Kết cấu theo công thức. nào. văn bản - Kết thúc tác phẩm theo - Kết thúc tác phẩm luôn theo hướng có “hậu”. hướng “mở”. - Không là nội dung chính - Là nội dung chính của tác phẩm Vị trí, vai của tác phẩm - Nhằm phản ánh, đánh giá, rút ra trò của sự - Không nhằm phản ánh, bài học lịch sử kiện lịch đánh giá, rút ra bài học lịch sử sử Thiên về chức năng thẩm Thiên về chức năng nhận thức và Chức năng mỹ, với mục đích giải trí giáo dục(đánh giá lịch sử; biết ơn, tác phẩm (gợi lên xúc cảm đẹp, niềm tôn thờ, ngưỡng mộ người có lạc quan cho mọi người) công đức) - Có thể tin hoặc không - Luôn có niềm tinvào điều được tin vào điều được kể kể Thái độ - Không có nhu cầu gắn - Luôn có nhu cầu gắn tác phẩm tiếp nhận tác phẩm với chứng tích với chứng tích văn hóa văn hóa TIÊU CHÍ SO SÁNH CỔ TÍCH THẦN KỲ Trang 19 Trang 20 Vai trò của yếu tố thần kì trong truyện cổ tíchTruyện cổ tíchlà những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi, nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và cảnhững câu chuyện kể về các con vậtnói năng và hoạt động như con người. Chức năng lớn nhất củatruyện cổ tíchlà truyền tải ước mơ của những người dân lao động về một xã hội công bằng, ở hiền gặp lành. Để thực hiện được ước mơ đó, trong khi người dân lao động lại quá nhỏ bé, không còn cách nào khác, họ đành nhờ vào những yếu tố thần kì, những nhân vật thần kì như ông bụt, bà tiên, ...Đó là những thế lực mạnh hơn cả giai cấp thống trị, giữ vai trò như cán cân công lý, bảo vệ lẽ phải.
Khái quát chungĐối với thể loại truyện cổ tích thần kì:Chức năng của cổ tích là nhận thức con người, nhận thức những quan hệ giữa con người với con người, đồng thời giáo dục con người khát vọng hướng thiện.Truyện cổ tíchlà truyện hư cấu có chủ tâm và mang tính nghệ thuật. Chức năng và đặc điểm nghệ thuật ấy của truyện cổ tích biểu hiện khá rõ trong truyện cổ tích thần kì. Mang chức năng nhận thức con người, nhận thức những quan hệ giữa con người với con người...nên truyện cổ tích thần kì hướng về đời sống xã hội, lấy con người (chủ yếu là những người lao động nghèo khổ, lương thiện) làm nhân vật trung tâm. Có thể nói, yếu tố thần kì là đặc trưng không thể thiếu đối với thể loại truyện dân gian, góp vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết tình huống cũng như đưa câu chuyện lên tới cao trào. Những yếu tố thần kì được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, đầu tiên thể hiện rõ nhất qua nhân vật thần kì, chúng ta rất quen thuộc với hình tượng nhân vật ông bụt, bà tiên, những người luôn xuất hiện để bảo vệ nhân vật chính diện. Hoặc được thể hiện qua những sự kiện thần kì, như nhân vật được sinh ra trong hoàn cảnh đặc biệt, trong một cái sọ dừa, hay mang thai 3 năm ròng. Tất cả những yếu tố này góp phần làm nên bức tranh thần kì cho tác phẩm, trở thành đặc trưng của truyện cổ tích. Vai trò của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích* Vai trò hình thành thế giới cổ tích Trong truyện cổ tích thần kì, yếu tố thần kì có vai trò rất quan trọngở việc hình thànhthế giới cổ tích. Yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì là yếu tố có vai trò biến thực tế cuộc sống thành thế giới cổ tích. Bằng trí tưởng tượng phong phú của mình, những tác giả dân gian có thể xây dựng những chi tiết vô cùng đặc sắc và mới lạ. Trong truyện Tấm Cám, tác giả đã hình tượng hóa cái chết của Tấm, khi để nàng hóa thân vào những sự vật khác nhau, khẳng định sự đấu tranh không ngừng nghỉ của người dân lao động. Trong truyện Cây khế, có thể thấy tuy chỉ là sự kiện chim ăn khế, nhưng tác giả đã lồng ghép rất khéo léo yếu tố thần kì để nó trở thành một sự kiện đặc biệt, thử thách lòng người và trừng phạt kẻ tham lam. Yếu tố thần kì thể hiện ý chí của đa số những người dân lao động, có mô típ được lặp lại nhiều lần nên ta có thể thấy những điểm giống nhau ở những tác phẩm cổ tích. Tuy nhiên đồng thời cũng mang những dấu ấn cá nhân sâu sắc của các tác giả, vì có rất nhiều tình tiết được hư cấu rất đặc biệt, nhất là ở những giai đoạn nhân dân ta bắt đầu có sự đấu tranh giai cấp. Chính sự kì ảo này đã tạo nên sức hút rất riêng của truyện cổ tích, vẽ nên một thế giới mơ mộng nơi mà người lương thiện luôn chiến thắng đã làm say lòng biết bao thế hệ, đặc biệt gắn liền với tuổi thơ của mỗi người. * Giải quyết những xung đột, mâu thuẫn của tác phẩm Truyện cổ tíchphản ánh xung đột, mâu thuẫn cơ bản nhất của xã hội. khi đi vào thế giới cổ tích trở thành xung đột, mâu thuẫn truyện và yếu tố thần kì có vai trò to lớn, không thể thiếu, trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột, mâu thuẫn của truyện. Trong truyện cổ tích Tấm Cám cũng như nhiều truyện cổ tích thần kì khác xung đột trong truyện cổ tích thần kì luôn luôn được giải quyết nhờ sự can thiệp của các lực lượng thần kì. Ví dụ, khi nhân vật chính gặp khó khăn, ông Bụt sẽ xuất hiện và giải quyết hết những khó khăn đó, ta có thể thấy rất rõ trong truyện “cây tre trăm đốt”, khi anh Khoai không thể đáp ứng được yêu cầu của phú ông, ông Bụt liền xuất hiện và chỉ cho anh cách tạo ra cây tre trăm đốt. Yếu tố hoang đường kì ảo xuất hiện xen kẽ song hành với những yếu tố thần kì, được lồng ghép vừa đủ, chỉ xuất hiện vào những lúc cao trào để gỡ rối cho nhân vật. Dường như mọi tác phẩm cổ tích đều giải quyết mâu thuẫn bằng yếu tố kì ảo, đặc trưng này vừa có những ưu điểm nhưng cũng có những khuyết điểm. Việc đưa các lực lượng thuộc thế giới thần tiên vào trong truyện khiến mâu thuẫn được giải quyết quá dễ dàng, nhân vật không có sự đấu tranh mạnh mẽ, không có ý thức cá nhân và chưa biết cách tự mình vượt qua khó khăn. Đôi khi dễ khiến độc giả lầm tưởng vào sự dễ dàng này, tuy nhiên, trên tất cả, các yếu tố thần kì chỉ giúp những nhân vật chính diện. Chi tiết này thể hiện niềm tin to lớn và mãnh liệt của người dân vào chân lý ở hiền chắc chắn sẽ gặp lành. Sự giúp đỡ này là tất yếu, là phần thưởng xứng đáng cho tấm lòng lương thiện và nỗ lực chiến đấu với khó khăn của học. Nhờ sự phù trợ của lực lượng thần kì, xung đột được giải quyết bao giờ cũng theo hướng người tốt, thật thà, lương thiện chiến thắng, hạnh phúc; kẻ xấu, tham lam, độc ác thất bại, bị trừng trị đích đáng. Sự chiến thắng và hạnh phúc của nhân vật hiền lành, lương thiện trong truyện cổ tích thần kì gần như chỉ là biểu hiện của niềm tin vào triết lí ở hiền gặp lành Nhìn chung, yếu tố thần kì vừa là đặc trưng nghệ thuật, vừa là tư tưởng của những người sáng tác nên tác phẩm. Nó là biểu hiện rõ ràng nhất cho ước mơ công lý của người dân Việt Nam, sự đấu tranh không ngừng cho công bằng của xã hội. Quay về trang chủ: Truyện cổ tích, Top 10 truyện cổ tích hay nhất mọi thời đại: Nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Trí khôn của ta đây, Cô bé lọ lem, Cô bé bán diêm, Sơn tinh thuỷ tinh, Cô bé quàng khăn đỏ, Nàng tiên cá, Tấm cám, Ăn khế trả vàng, Cóc kiện trờiDanh mục truyện: Cổ tích việt nam, Cổ tích thế giới, Truyện dân gian, Truyện ngụ ngôn, Truyện cười hay, Qua tang cuoc song Truyện cùng danh mục Ý nghĩa truyền thuyết bánh chưng bánh dày Tác phẩm đã giải thích nguồn gốc của bánh chưng bánh dày, cho đến tận ngày nay, bánh chưng bánh dày... Những không gian nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo - Nam Cao Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc trong văn học hiện thực của Việt Nam, có rất nhiều nghệ thuật... Phải chăng cuộc đời của người phụ nữ chính là không thể hài lòng tuyệt đối? Đừng giam mình trong vai trò người mẹ nội trợ hay người mẹ đi làm trong thời gian quá dài, hãy thử... 28 bài học để sống ĐẮT GIÁ hơn 28 bài học ĐẮT GIÁ để sống KHÍ CHẤT hơn Từ Vãn Tình - tác giả cuốn sách “Bạn đắt giá bao nhiêu?”... Đọc chậm: Học Yêu - Những tọa độ song song - Nguyễn Mai Chi Đọc chậm: Học Yêu - Sâu sắc thấu hiểu đó là những gì bạn có thể bắt gặp ở cuốn sách “Những... Những câu nói về tình bạn hay và ý nghĩa sâu sắc Ở bài viết này Cotich.net sẽ tổng hợp những câu nói hay và ý nghĩa nhất về tình bạn, hãy gửi nó... Tiểu thuyết Tắt đèn - tác phẩm xuất sắc của nhà văn Ngô Tất Tố Tiểu thuyết Tắt đèn - Tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam, tác giả Ngô Tất Tố đã xây... Những tác phẩm văn học kinh điển hay nhất mọi thời đại Bài viết sau đây tổng hợp những tác phẩm văn học hay nhất trên toàn thế giới đã đi sâu vào tâm... Truyện xem nhiều nhất Tổng hợp những câu ca dao tục ngữ về tình cảm gia đìnhTình cảm gia đình chính là tình cảm thiêng liêng nhất trong cuộc đời, những câu ca dao tục ngữ gia đình... Tóm tắt và phân tích ý nghĩa truyện cổ tích Sọ DừaTruyện cổ tích Sọ Dừa là thể loại truyện dân gian được lưu truyền từ đời này sang đời khác.... Vai trò của yếu tố thần kì trong truyện cổ tíchTrong truyện cổ tích thần kì, yếu tố thần kì có vai trò rất quan trọng ở việc hình thành thế giới... Những tác phẩm văn học kinh điển hay nhất mọi thời đạiBài viết sau đây tổng hợp những tác phẩm văn học hay nhất trên toàn thế giới đã đi sâu vào tâm... Truyện cười là gì, đặc trưng, phân loại và tính chất truyện cườiMỗi chúng ta từ khi sinh ra chắc hẳn đều được nghe kể về truyện cười. Hãy cùng Cotich.net tìm hiểu... Những câu nói ý nghĩa về cuộc sống làm thay đổi cuộc đời bạnNhững câu nói ý nghĩa về cuộc sống sẽ khiến mọi người phải suy ngẫm về cuộc sống nhiều hơn để... Danh sách những truyện cổ tích việt nam hay nhất: Truyền thuyết Thánh gióng, truyện cổ tích tấm cám, sọ dừa, truyền thuyết về Sơn Tinh - Thủy Tinh, truyền thuyết hồ hoàn kiếm, sự tích trầu cau, sự tích con rồng cháu tiên, truyền thuyết thành cổ loa, Cóc kiện trời, Sự tích Táo Quân, chú thỏ tinh khôn, Sự tích chùa Một cột, Chàng ngốc học khôn, Sự tích sấm sét, Sự tích hoa Mào gà, Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung, truyện cổ tích trí khôn của ta đây, Sự tích con chuồn chuồn, Sự tích Hòn Vọng Phu, Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, sự tích cây khế, Sự tích Thánh làng Chèm, Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn, Sự tích hoa mười giờ, Sự tích chim Quốc, Sự tích công chúa Liễu Hạnh, Cây táo thần, thạch sanh,… Tổng hợp các câu chuyện cổ tích thế giới hay và ý nghĩa nhất, truyện cổ grimm, truyện cổ Andersen, cổ tích thần kỳ: Nàng công chúa ngủ trong rừng, Alibaba và bốn mươi tên cướp, Nàng công chúa chăn ngỗng, Cô bé lọ lem, Chú bé tí hon, Ông lão đánh cá và con cá vàng, nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Truyện cổ tích Bà chúa tuyết, Aladdin và cây đèn thần, Ba sợi tóc vàng của con quỷ, Hoàng tử ếch, Con quỷ và ba người lính, Cô bé quàng khăn đỏ,… Phân loạiKhái niệm truyện cổ tích có nội dung rất rộng, bao gồm nhiều loại truyện khác nhau về đề tài, về đặc điểm nghệ thuật,… Có thể phân truyện cổ tích thành ba loại chính : truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích sinh hoạt và truyện cổ tích loài vật. – Truyện cổ tích thần kì là bộ phận quan trọng và tiêu biểu nhất của thể loại cổ tích. Ở loại truyện này nhân vật chính vẫn là con người trong thực tại, nhưng các lực lượng thần kì, siêu nhiên có một vai trò rất quan trọng. Hầu như mọi xung đột trong thực tại giữa người với người đều bế tắc, không thể giải quyết nổi nếu thiếu yếu tố thần kì (ví dụ : truyện Tấm Cám, truyện Thạch Sanh, truyện Sọ Dừa, truyện Chủ Đồng Tử,…). Trong truyện cổ tích thần kì, các nhân vật thường bao gồm ba loại chính : nhân vật chính diện hay phe thiện (như Thạch Sanh, công chúa, hoàng tử, Chử Đồng Tử, Sọ Dừa, vợ Sọ Dừa,…), nhân vật phản diện hay phe ác (như Lí Thông, Cám, mẹ Cám,…) và các nhân vật thần kì hoặc vật báu có tác dụng kì diệu (như Tiên, Bụt, Rắn thần, Chim thần, Đàn thần, Cung thần, Niêu cơm thần, Chiếc gậy thần,…). – Truyện cổ tích sinh hoạt (hay cổ tích thế sự) là những truyện cổ tích không có hoặc rất ít yếu tố thần kì. Ở đây các mâu thuẫn, xung đột xã hội giữa người với người được giải quyết một cách hiện thực, không cần đến những yếu tố siêu nhiên. Những yếu tố thần kì nếu có cũng không giữ vai trò quan trọng và nhiều khi chỉ là đường viền cho câu chuyện thêm vẻ li kì, hấp dẫn mà thôi (ví dụ : truyện Vợ chàng Trương, truyện Sự tích chim hít cô, Sự tích con muỗi, truyện Cây tre trăm đốt,…). – Truyện cổ tích loài vật là loại truyện cổ tích chủ yếu lấy các loài vật (phần lớn là động vật) làm đối tượng phản ánh, tường thuật và lí giải. Loại truyện này ở thời kì cổ xưa hầu hết các dân tộc đều có. Ở đây các loài vật được nhân cách hóa một cách hồn nhiên trong trí tưởng tượng của nhân dân thời cổ. Ở Việt Nam, do những truyện cổ tích loài vật không được sưu tầm ghi chép sớm nên tính chất cổ xưa, hồn nhiên chất phác của chúng không còn nguyên vẹn. Nhiều truyện cổ tích loài vật đã biến tướng trở thành truyện ngụ ngôn hoặc có tính chất ngụ ngôn, ví dụ : Sự tích con công và con quạ, truyện Vì sao trâu không có hàm răng trên,… Phân tích vai trò của yếu tố thần kì trong truyện Tấm CámCập nhật ngày 22/09/2020 - [Văn mẫu 10] Phân tích vai trò của yếu tố thần kì trong truyện Tấm Cám để thấy được đặc trưng của truyện cổ tích được thể hiện trong truyện Tấm Cám. Mục lục nội dung
Mục lục bài viết Vai trò của yếu tố thần kì trong truyện Tấm Cám không chỉgóp phần tạo tính chất xung đột và giải quyết xung đột trong truyện, tạo nên sự hấp dẫn mà qua đó cònthể hiện ước mơ cháy bỏng của nhân dân lao động về hạnh phúc gia đình, về lẽ công bằng xã hội Đề bài: Phân tích vaitrò của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích Tấm Cám ----------------------- Yếu tố thần kỳ đóng vai trò như thế nào trong kho tàng truyện cổ tích11 giờ trước |