Biến số độc lập trong nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học

XÁC ĐỊNH CÁC BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU ( RESEARCH VARIABLES)

Biến số được chia thành nhiều loại nhằm giải thích việc sử dụng chúng trong nghiên cứu.

Biến độc lập và biến phụ thuộc ( independent and dependent variable)

Mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc là cơ sở để xây dựng giả thiết cho những nghiên cứu mối tương quan, nghiên cứu bán can thiệp (quasi-experimental research) , nghiên cứu thực nghiệm (experimental research). Biến độc lập là một hoạt động hoặc yếu tố ảnh hưởng đến biến phụ thuộc. Biến phụ thuộc là phản ứng, hành vi hoặc kết quả  mà người nghiên cứu muốn dự đoán hoặc giải thích. Sự thay đổi của biến phụ thuộc được giả định là do biến độc lập.

Biến ngoại lai ( extraneous variables):

Biến ngoại lai có trong tất cả các nghiên cứu và có thể ảnh hưởng đến việc đo lường các biến và mối quan hệ giữa chúng. Biến ngoại lai là mối quan tâm chính của nghiên cứu định lượng vì chúng gây cản trở việc hiểu rõ về mối quan hệ hoặc nguyên nhân trong nghiên cứu. Một số biến ngoại lai không được phát hiện cho đến khi nghiên cứu được tiến hành hoặc hoàn thành do đó làm ảnh hưởng đến kết quả của nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu cố gắng phát hiện và kiểm soát các biến này nhiều nhất có thể trong nghiên cứu bán can thiệp và can thiệp, đồng thời thiết kế cụ cách để kiểm soát ảnh hưởng của chúng.

Những biến ngoại lai không được phát hiện cho đến khi nghiên cứu được thực hiện hoặc được phát hiện trước khi nghiên cứu bắt đầu nhưng không thể kiểm soát được gọi là biến gây nhiễu (confounding variables).

Biến môi trường ( environmental variables) là một loại của biến ngoại lai, tồn tại trong địa bàn nghiên cứu.  Ví dụ như: thời tiết, gia đình, hệ thống sức khỏe, tổ chức chính phủ. Nếu nghiên cứu về con người trong môi trường tự nhiên hay không có kiểm soát thì khó để kiểm soát tất cả các biến môi trường. Biến môi trường trong nghiên cứu bán can thiệp và can thiệp có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng hệ thống phòng thí nghiệm hoặc cơ sở nghiên cứu được thiết kế đặc biệt tại bệnh viện.

Biến nhân khẩu học ( demographic variables )

Biến nhân khẩu học là những đặc điểm, thuộc tính của chủ thể, được thu thập để mô tả mẫu nghiên cứu. Một số biến nhân khẩu học phổ biến là tuổi, trình độ học vấn, giới tính, tôn giáo, dân tộc, tình trạng hôn nhân, thu nhập cá nhân, nghề nghiệp, chẩn đoán y khoa. Khi nghiên cứu được hoàn thành, dữ liệu nhân khẩu học được phân tích để cung cấp bức tranh toàn cảnh về đặc điểm của mẫu nghiên cứu (sample characteristics). Đặc điểm của mẫu nghiên cứu có thể được trình bày dưới dạng bảng hoặc tường thuật trong báo cáo nghiên cứu. 

Tài liệu tham khảo:

Burns, N., Grove, S.K.(1999). Understanding Nursing Research (2nd  ed) . Philadelphia: WB. Saunders

Người viết: Nguyễn Thị Hồng Hạnh

“Biến” là một đặc tính chứa giá trị, trong nghiên cứu khoa học cũng có hai loại biến phổ biến là biến độc lập và biến phụ thuộc. Việc xác định 2 biến này có ý nghĩa quan trọng giúp phân biết được hình dạng, thống nhất trong cả quá trình thực hiện nghiên cứu. Đưa ra mục tiêu, lập giả thuyết. phân tích số liệu …

Để tìm hiểu chi tiết hơn về khái niệm biến độc lập và biến phụ thuộc là gì? Chúng có quan hệ ra sao. Mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây.

Biến độc lập (Independent variable)

Định nghĩa

Biến độc lập (Independent variable) là một biến số tác động tới biến số khác (biến phụ thuộc) trong một mô hình kinh tế. Biến độc lập giả định sẽ gây ra nguyên nhân vấn đề cần nghiên cứu khi có những thay đổi. Biến số này không bị tác động bởi các loại biến khác.

Đặc trưng

Đặc trưng của biến độc lập là khi các yếu tố, điều kiện khi bị thay đổi trên đối tượng nghiên cứu sẽ ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm. Cũng có thể hiểu, kết quả số liệu của biến phụ thuộc thu thập được thay đổi theo biến độc lập.

Ví dụ cụ thể về biến độc lập: Biến độc lập có thể là liều lượng phân bón, lượng nước tưới, ánh sáng, loại phân bón,vv… Những điều này còn được gọi là các nghiệm thức khác nhau.

Một ví dụ nữa về: Giá hàng hoá là biến số độc lập ảnh hưởng tới lượng cầu về hàng hóa đó. Vì các nhà kinh tế sẽ dùng hàm ngược khi biểu diễn mối quan hệ giữa biến độc lập và phụ thuộc trên đồ thị. Vì thế, biến độc lập thường được ghi trên trục tung.

Trong biến độc lập, sẽ có một mức độ đối chứng hay nghiệm thức đối chứng. Trong đó bao gồm các yếu tố, điều kiện ở mức độ thông thường, hoặc nghiệm thức đã được xác định mà người nghiên cứu không cần tiên đoán ảnh hưởng của chúng. Những nghiệm thức còn lại sẽ được so sánh với nghiệm thức đối chứng hoặc so sánh giữa các cặp nghiệm thức với nhau.

Biến số độc lập trong nghiên cứu khoa học
Phân tích đặc trưng giữa biến độc lập và biến phụ thuộc

Biến phụ thuộc (Dependent variable)

Định nghĩa

Biến phụ thuộc (Dependent variable) là biến số chịu ảnh hưởng của một biến số khác trong mô hình. Ví dụ như nhu cầu mua một mặt hàng nào đó nhưng bị ảnh hưởng bởi giá cả của nó.

Đặc trưng

Biến phụ thuộc là những chỉ tiêu đo đạc và bị ảnh hưởng trong suốt quá trình thí nghiệm. Cũng như kết quả đo đạc phụ thuộc vào sự thay đổi của biến độc lập.

Các nhà nghiên cứu thông thường sẽ đặt biến số phụ thuộc ở về phía trái của phương trình và biểu thị nó trên trục tung của một đồ thị. Nếu nhu cầu là một hàm của giá hàng hoá, thì P là biến độc lập và D phụ thuộc vào P. Theo công thức tổng quát, chúng thể hiện dưới dạng: D=f(P)

Ví dụ về biến phụ thuộc: Khi nghiên cứu sự sinh trưởng phát triển của cây mía. Biến phụ thuộc ở đây là trọng lượng cây, số lá cây, chiều cao cây,vv… Và kết quả đo đạc của biến phụ thuộc ở các nghiệm thức khác nhau có thể khác nhau.

Mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc

Biến độc lập và biến phụ thuộc có mối quan hệ liên kết lẫn nhau. Biến độc lập là biến số tác động tới biến phụ thuộc trong một mô hình kinh tế. Khi các biến độc lập trong mô hình thay đổi thì biến phụ thuộc cũng sẽ thay đổi theo.

Mối quan hệ giữa hai biến số này cũng có thể gọi là mối quan hệ nhân quả. Biến độc lập sẽ đóng vai trò là nguyên nhân và biến phụ thuộc sẽ đóng vai trò là kết quả.

Kết luận

Qua những thông tin ở trên, bạn đọc có thể hiểu được chi tiết hơn về biến độc lập và biến phụ thuộc là gì, đặc trưng và mối quan hệ giữa hai biến số này trong khoa học nghiên cứu. Hy vọng đây sẽ là thông tin hữu ích dành đến cho những bạn quan tâm.

Thông tin được biên tập bởi: taichinh24h.com.vn

Tài Chính 24h cập nhật Giá vàng – Tỷ giá Ngoại tệ – Lãi suất – Cung cấp kiến thức về Tài chính, Forex, Chứng khoán. Với đội ngũ content có nhiều năm kinh nghiệm hy vọng sẽ mang lại cho bạn những bài viết chất lượng.

(Last Updated On: 18/06/2021 By Lytuong.net)

Trong nghiên cứu thực nghiệm, có 2 loại biến thường gặp trong thí nghiệm, đó là biến độc lập (independent variable) và biến phụ thuộc (dependent variable).

Biến độc lập là gì?

Biến độc lập (còn gọi là nghiệm thức): là các yếu tố, điều kiện khi bị thay đổi trên đối tượng nghiên cứu sẽ ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm. Như vậy, đối tượng nghiên cứu chứa một hoặc nhiều yếu tố, điều kiện thay đổi. Nói cách khác kết quả số liệu của biến phụ thuộc thu thập được thay đổi theo biến độc lập.

Thí dụ:

Biến độc lập có thể là liều lượng phân bón, loại phân bón, lượng nước tưới, thời gian chiếu sáng khác nhau,… (hay còn gọi là các nghiệm thức khác nhau).

Trong biến độc lập, thường có một mức độ đối chứng hay nghiệm thức đối chứng (chứa các yếu tố, điều kiện ở mức độ thông thường) hoặc nghiệm thức đã được xác định mà người nghiên cứu không cần tiên đoán ảnh hưởng của chúng. Các nghiệm thức còn lại sẽ được so sánh với nghiệm thức đối chứng hoặc so sánh giữa các cặp nghiệm thức với nhau.

Biến phụ thuộc là gì?

Biến phụ thuộc (còn gọi là chỉ tiêu thu thập): là những chỉ tiêu đo đạc và bị ảnh hưởng trong suốt quá trình thí nghiệm, hay có thể nói kết quả đo đạc phụ thuộc vào sự thay đổi của biến độc lập. Thí dụ: khi nghiên cứu sự sinh trưởng của cây mía, các biến phụ thuộc ở đây có thể bao gồm: chiều cao cây, số lá, trọng lượng cây,… và kết quả đo đạc của biến phụ thuộc ở các nghiệm thức khác nhau có thể khác

Thí dụ:

Đề tài: “Ảnh hưởng của liều lượng phân N trên năng suất lúa Hè Thu” có các biến như sau:

+ Biến độc lập: liều lượng phân N bón cho lúa khác nhau. Các nghiệm thức trong thí nghiệm có thể là 0, 20, 40, 60 và 80 kgN/ha. Trong đó nghiệm thức “đối chứng” không bón phân N.

+ Biến phụ thuộc: có thể là số bông/m2, hạt chắt/bông, trọng lượng hạt và năng suất hạt (t/ha).

Xác định các biến trong thí nghiệm dựa trên mối quan hệ “nhân- quả” của giả thuyết

Kết quả quan sát lệ thuộc vào nguyên nhân gây ảnh hưởng. Dựa vào mối quan hệ trong giả thuyết đặt ra, người nghiên cứu dễ dàng xác định được yếu tố nào ảnh hưởng đến sự kiện quan sát. Thí dụ, “Ảnh hưởng của nồng độ NAA trên sự đậu trái của xoài Cát Hòa Lộc”. Ở đây, tỷ lệ đậu trái (kết quả) khác nhau là do ảnh hưởng của các nồng độ NAA (nguyên nhân) khác nhau. Như vậy, biến độc lập là biến mà người nghiên cứu có ý định làm thay đổi (nồng độ NAA khác nhau) và biến phụ thuộc ở đây là sự đậu trái hay tỷ lệ rụng trái ở các nghiệm thức có nồng độ NAA khác nhau.