Đánh giá đầu vào là gì

Năng suất sản xuất là yếu tố sống còn trong quản trị sản xuất. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất luôn tìm kiếm các phương pháp cải tiến mới nhằm gia tăng năng suất sản xuất. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới năng suất, nhưng đặt trọng tâm vào cải tiến yếu tố nào thì lại tùy thuộc vào quyết định của mỗi doanh nghiệp. 

Quản trị sản xuất gắn liền với việc nâng cao năng suất và đánh giá năng suất đạt được của từng khâu, từng bộ phận cũng như của toàn bộ dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp. Năng suất là tiêu chuẩn phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả của hoạt động quản lý sản xuất và tác nghiệp. Năng suất trở thành nhân tố quan trọng nhất đánh giá khả năng cạnh tranh của hệ thống sản xuất trong mỗi doanh nghiệp, đồng thời cũng thể hiện trình độ phát triển của các doanh nghiệp, các quốc gia.

Về mặt toán học, năng suất là tỷ số giữa đầu ra và những yếu tố đầu vào được sử dụng để tạo ra đầu ra đó. Đầu ra có thể là tổng giá trị sản xuất hoặc giá trị gia tăng, hoặc khối lượng hàng hoá tính bằng đơn vị hiện vật. Đầu vào được tính theo các yếu tố tham gia để sản xuất ra đầu ra, đó là lao động, nguyên vật liệu, thiết bị máy móc,... Việc chọn đầu vào và đầu ra khác nhau sẽ tạo ra các mô hình đánh giá năng suất khác nhau.

➡️ Hướng dẫn sử dụng phần mềm quản lý sản xuất Odoo ERPViet

Năng suất được sử dụng để đánh giá chung cho tất cả các yếu tố và cho từng yếu tố đầu vào. Nó được lượng hoá thông qua những con số cụ thể, phản ánh mức hiệu quả của việc khai thác sử dụng các yếu tố đầu vào. Tuy nhiên ngoài những yếu tố có thể lượng hoá được năng suất cần được đánh giá đầy đủ về mặt định tính như tính hữu ích của đầu ra, mức độ thoả mãn người tiêu dùng, mức độ đảm bảo những yêu cầu về xã hội gồm bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên, ít gây ô nhiễm,... Khái niệm năng suất phản ánh tính lợi nhuận, tính hiệu quả, sự đổi mới và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.

Xem thêm: Gia tăng hiệu quả sản xuất bằng BPM

Chỉ tiêu năng suất cho doanh nghiệp biết được trình độ và chất lượng của hoạt động quản trị sản xuất, đồng thời là cơ sở để xem xét việc trả công cho người lao động sau mỗi quá trình sản xuất. Vì vậy, việc tính toán năng suất có ý nghĩa rất quan trọng trong quản trị sản xuất của các doanh nghiệp.

Đối với các doanh nghiệp sản xuất, năng suất là yếu tố sống còn. Vậy yếu tố nào ảnh hưởng đến năng suất? Doanh nghiệp có thể tác động đến yếu tố nào để cải thiện năng suất sản xuất sản phẩm?

Xem thêm: 6 Bước trong quy trình quản lý sản xuất hiệu quả, cách ứng dụng

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất chia thành hai nhóm chủ yếu:

  • Nhóm nhân tố bên ngoài: bao gồm môi trường kinh tế thế giới, tình hình thị trường, cơ chế chính sách kinh tế của nhà nước. Thông thường, doanh nghiệp rất khó để tác động lên nhóm nhân tố bên ngoài. Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể tìm cách để tận dụng tốt nhóm nhân tố này nhằm hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp trong việc phát triển sản xuất kinh doanh. 
  • Nhóm nhân tố bên trong: bao gồm nguồn lao động, vốn, công nghệ, tình hình và khả năng tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất. Có thể biểu diễn sự tác động của các nhân tố này theo sơ đồ sau:

Đánh giá đầu vào là gì

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất sản xuất
 

Thông thường các doanh nghiệp thường tìm cách để điều chỉnh các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất đến từ bên trong. Đây là các yếu tố dễ tác động và đem lại hiệu quả cao. Đối với các yếu tố bên ngoài, nếu biết tận dụng tốt, doanh nghiệp sẽ sở hữu những lợi thế lớn so với các doanh nghiệp khác trong ngành.
Xem thêm: 5+ Kỹ năng mềm trong quản lý sản xuất - Quản lý sản xuất hiệu quả

Biện pháp nâng cao năng suất trong quản trị sản xuất

Năng suất phụ thuộc chặt chẽ vào khả năng thiết kế và quản lý điều hành hệ thống sản xuất. Do vị trí vai trò của năng suất hết sức quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường nên nâng cao năng suất là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quản trị sản xuất. Một số biện pháp hoàn thiện quản trị sản xuất nhằm nâng cao năng suất gồm:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
o0o
BÀI TẬP
Môn: Đánh giá trong giáo dục
Đề bài: Phân tích những yếu tố cần quan tâm (có liên quan
đến đơn vị công tác) và tác động của nó để nâng cao chất
lượng giáo dục trong việc đánh giá đầu vào và bối cảnh.
Giảng viên : TS. Đỗ Thị Thúy Hằng
Học viên :……………………….
Lớp : Cao học QLGD K9B
Hà Nội - 2014
LỜI MỞ ĐẦU
Chất lượng giáo dục lâu nay luôn là vấn đề được nhiều người quan tâm,
đặc biệt trong thời đại kinh tế tri thức ngày nay. Chất lượng giáo dục là gì? Chất
lượng giáo dục hiện nay ở nước ta ra sao? Làm thế nào để nâng cao chất lượng
giáo dục? là những câu hỏi luôn đặt ra một cách thường trực và cấp bách cho
những nhà giáo dục và quản lý giáo dục. Việc trả lời các câu hỏi này lại phụ
thuộc vào cách quan niệm và đánh giá về chất lượng giáo dục như thế nào.
Hiện nay, trong công cuộc đổi mới giáo dục thì vấn đề đánh giá và đổi mới
cách đánh giá luôn được ngành giáo dục nói riêng và xã hội nói chung quan tâm
và chú trọng. Đánh giá đúng đắn, khách quan, chính xác sẽ tạo điều kiện cho cơ
sở giáo dục được đánh giá nhìn nhận đúng về thực trạng của cơ sở mình từ đó
có những biện pháp cải tiến phù hợp. Đánh giá một cơ sở giáo dục có rất nhiều
mảng vấn đề cần đánh giá, trong đó có đánh giá các yếu tố đầu vào và bối cảnh.
Vì những yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục của mỗi cơ sở
giáo dục.
Học viện quản lý giáo dục là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cử nhân
quản lý giáo dục, được thành lập từ năm 2006 trên cơ sở trường Cán bộ quản lý
giáo dục và đào tạo. Qua gần 10 năm hoạt động nhà trường đã đạt được những
thành tích nhất định, tuy nhiên để nâng cao chất lượng đào tạo Học viện cần


quan tâm nhiều hơn đến nhiều yếu tố tác động trong đó có các yếu tố thuộc bối
cảnh và đầu vào của Học viện.
Chính vì tầm quan trọng của hoạt động đánh giá và các yếu tố đầu vào
cũng như bối cảnh cho nên trong bài viết này tác giả xin được phân tích các
những yếu tố cần quan tâm và tác động của nó để nâng cao chất lượng giáo dục
trong việc đánh giá đầu vào và bối cảnh ở Học viện quản lý giáo dục.
2
NỘI DUNG
1, Một số thuật ngữ cần làm rõ
1.1 Chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu đề ra, đảm bảo các yêu cầu về
mục tiêu giáo dục được quy định trong Luật giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào
tạo đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước.
1.2 Đánh giá trong giáo dục
Đánh giá trong giáo dục là quá trình thu thập và xử lý kịp thời, có hệ thống
thông tin về thực trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả
giáo dục, căn cứ vào mục tiêu đào tạo làm cơ sở cho việc đưa ra những chủ
trương, biện pháp và các kế hoạch hành động tiếp theo.
1.3 Đánh giá đầu vào của một nhà trường.
Đầu vào của một nhà trường là tất cả các yếu tố tác động tới nhà trường
giúp nhà trường có thể hoạt động như: sứ mạng, tầm nhìn, người học, người
dạy, cơ sở vật chất…
Đánh giá đầu vào của một nhà trường là xem xét, thu thập và xử lý thông
tin về các yếu tố đầu vào của nhà trường đó trong một giai đoạn nhất định.
Những yếu tố cần quan tâm khi đánh giá đầu vào của một nhà trường bao
gồm:
- Sứ mạng, tầm nhìn, kế hoạch phát triển của nhà trường;
- Người học, người dạy, cán bộ quản lý, nhân viên (về số lượng, cơ cấu,
chất lượng);
- Tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật trường học.

1.4 Đánh giá bối cảnh nhà trường.
Bối cảnh là môi trường bên ngoài tác động đến sự hoạt động của hệ thống.
3
Đánh giá bối cảnh nhà trường là quá trình xem xét, thu thập và xử lý thông
tin về những yếu tố bên ngoài tác động tới sự vận hành và phát triển của nhà
trường trong một giai đoạn cụ thể.
Các yếu tố cần quan tâm khi đánh giá bối cảnh của một trường học bao
gồm:
- Nhu cầu học tập;
- Môi trường kinh tế - xã hội;
- Xã hội hóa giáo dục.
2, Phân tích các yếu tố cần quan tâm và tác động của nó để nâng cao
chất lượng giáo dục trong việc đánh giá đầu vào và bối cảnh Học viện quản
lý giáo dục.
2.1 Vài nét về Học viện Quản lý giáo dục.
Ngày 01 tháng 10 năm 1976 trường Cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo
được thành lập theo Quyết định số 190/TTg của Hội đồng chính phủ có nhiệm
vụ đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý các Sở, Ty, các Phòng giáo dục, các
trường sư phạm, Các trường cán bộ quản lý của ngành giáo dục và các trường
phổ thông.
Ngày 15 tháng 10 năm 1990 trường Cán bộ Quản lý giáo dục và đào tạo
được sát nhập từ 3 đơn vị: Trường cán bộ quản lý giáo dục, trường cán bộ Quản
lý đại học – trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, Trung tâm nghiên cứu quản
lý và tổ chức quản lý và kinh tế giáo dục theo Quyết định số1610/TCCB ngày
15 tháng 10 năm 1990 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo.
Ngày 03 tháng 04 năm 2006 Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số
501/QĐ-TTg thành lập Học viện Quản lý giáo dục trên cơ sở trường Cán bộ
quản lý giáo dục và đào tạo. Học viện là cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ
Giáo dục và Đào tạo có chức năng đào tạo nguồn nhân lực quản lý giáo dục;
nghiên cứu và phát triển khoa học quản lý giáo dục; ứng dụng khoa học quản lý

4
giáo dục, tham mưu và tư vấn cho các cơ quan QLGD nhằm đáp ứng những yêu
cầu của chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo của đất nước.
Hiện nay Học viện có 4 khoa: Khoa Quản lý, khoa Cơ bản, khoa Tâm lý –
giáo dục, khoa Công nghệ thông tin. Học viện đang đào tạo cử trình độ Đại học
(Chính quy và không chính quy) 3 nhóm ngành Quản lý giáo dục, Tâm lý giáo
dục, Công nghệ thông tin và đang tiếp tục mở hai nhóm ngành mới là Kinh tế
học giáo dục và Giáo dục học. Học viện cũng đào tạo sau Cao học chuyên
ngành Quản lý giáo dục và thực hiện các Chương trình bồi dưỡng Nhà giáo và
Cán bộ quản lý giáo dục theo sự chỉ đạo của Bộ giáo dục…
Nhờ sự nỗ lực của Cán bộ, giảng viên, nhân viên trong Học viện mà trong
những năm qua Học viện đã thu được nhiều thành tích xuất sắc, ngày càng nâng
cao vị thế hàng ngũ các trường Đại học của đất nước.
2.2 Phân tích các yếu tố cần quan tâm và tác động của nó để nâng cao
chất lượng giáo dục trong việc đánh giá bối cảnh Học viện quản lý giáo dục.
2.2.1 Nhu cầu học tập
Nhu cầu học tập có tác động rất lớn tới chính sách giáo dục cũng như việc
nâng cao chất lượng giáo dục của Học viện. Khi nhu cầu học tập lên cao sẽ đặt
ra những đòi hỏi lớn đối với chất lượng giáo dục của nhà trường, từ đó để đáp
ứng nhu cầu của xã hội, nhà trường sẽ có những cải tiến tích cực để nâng cao
chất lượng của nhà trường.
Trên thực tế, trong những năm qua nhu cầu học tập chính quy các chuyên
ngành của Học viện đã giảm hơn so với năm học 2007- 2008, 2008 – 2009 do
người học nhận thấy sự khó khăn trong vấn đề xin việc, đặc biệt là đối với
chuyên ngành Quản lý giáo dục và Công nghệ thông tin. Điều này khiến cho
Học viện khá khó khăn trong vấn đề tuyển sinh (thường phải tuyển sinh theo
nguyện vọng 2, nguyện vọng 3 mới đủ chỉ tiêu đào tạo). Mặt khác, do nhu cầu
học tập giảm xuống nên Học viện không thu hút được thí sinh giỏi dự thi vào
Học viện, điểm đầu vào các chuyên ngành của Học viện thường rất thấp, điều
5

này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đào tạo làm cho chất lượng giáo dục rất
khó được nâng cao. (Do trình độ người học thấp).
Khác với hệ chính quy, nhu cầu học tập liên thông và Cao học quản lý giáo
dục lại ngày càng tăng. Hằng năm, số lượng thí sinh dự thi liên thông và cao
học của Học viện rất dồi dào nên việc tuyển đủ chỉ tiêu và chất lượng đầu vào
khá đảm bảo. Điều này góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng đào
tạo hệ liên thông và Cao học của Học viện.
2.2.2 Môi trường tự nhiên và kinh tế - xã hội.
Môi trường tự nhiên tác động không nhỏ đến hoạt động đào tạo giáo dục
của mỗi nhà trường. Môi trường tự nhiên thuận lợi là sẽ tạo điều kiện cho các
hoạt động của nhà trường diễn ra trôi chảy, đúng kế hoạch từ đó góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục. Trong những năm qua, môi trường tự nhiên ở khu vực
Hà Nội dù có khắc nghiệt nhưng nhìn chung không ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động đào tạo của Học viện. Đây là điểm khá thuận lợi để Học viện nâng cao
chất lượng giáo dục.
Tình hình kinh tế - xã hội của đất nước cũng như tại khu vực Học viện
đóng khá ổn định. Học viện lại nhận được sự quan tâm của các cơ quan quản lý
Nhà nước các cấp, đặc biệt là Bộ giáo dục và đào tạo… Đây là những thuận lợi
không hề nhỏ giúp cho Học viện nâng cao chất lượng giáo dục và vị thế của
mình trong xã hội.
2.3 Phân tích các yếu tố cần quan tâm và tác động của nó để nâng cao
chất lượng giáo dục trong việc đánh giá đầu vào Học viện quản lý giáo dục.
2.3.1 Sứ mạng, tầm nhìn.
Ngay từ khi thành lập Học viện Quản lý giáo dục đã xác định sứ mạng và
tầm nhìn khá cụ thể, thể hiện định hướng phát triển chiến lược của Học viện.
Trong những năm qua, sứ mạng thường được thay đổi để phù hợp với thực trạng
chung của ngành, nhưng dù thay đổi thế nào thì sứ mạng Học viện xác định
luôn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Học viện.
6
Sứ mạng hiện nay của Học viện: Là cơ sở đào tạo chất lượng cao, tiên

phong trong nghiên cứu và triển khai đổi mới quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu
phát triển của đất nước;
Lời lẽ của Sứ mạng thể hiện quyết tâm chung của cán bộ, giảng viên, công
nhân viên Học viện. Nó đã chỉ ra năng lực và lĩnh vực hoạt động riêng có của
Học viện là “tiên phong trong nghiên cứu và triển khai đổi mới quản lý giáo
dục”. Sứ mạng được tuyên bố rõ ràng sẽ là định hướng cụ thể cho mỗi cán bộ,
giảng viên, nhân viên, và sinh viên phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo để đạt
vị trí “cơ sở đào tạo chất lượng cao” trong xã hội.
Tầm nhìn : Học viện Quản lý Giáo dục là cơ sở giáo dục có uy tín trong
nước và khu vực về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học giáo dục, quản lý
giáo dục - nơi cán bộ, giảng viên, sinh viên luôn có khát vọng học tập, sáng tạo
và cống hiến vì một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, nhân văn.
2.3.2 Kế hoạch phát triển Học viện
Mục tiêu chung: Đến năm 2020, Học viện trở thành cơ sở giáo dục đại học
có uy tín trong nước và khu vực về đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu, cung cấp
dịch vụ về giáo dục và QLGD; Đội ngũ cán bộ, giảng viên có năng lực, phẩm
chất, đạo đức nghề nghiệp; cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại; có quan hệ
hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học rộng rãi trong và ngoài nước.
Mục tiêu cụ thể
1. Bảo đảm uy tín về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học
về giáo dục và quản lý giáo dục;
2. Có quan hệ hợp tác rộng rãi về đào tạo, nghiên cứu khoa học; cung cấp
dịch vụ giáo dục, quản lý giáo dục trong và ngoài nước;
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên có năng lực, phẩm chất, đạo đức
nghề nghiệp;
7
4. Phát triển nguồn lực (cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông
tin, tài chính…) phân bổ và sử dụng có hiệu quả để đảm bảo điều kiện phát triển
Học viện;
5. Trang bị cho người học kỹ năng tác nghiệp, kỹ năng giao tiếp và làm

việc sáng tạo; có năng lực tư duy, năng lực hợp tác và khả năng tự học nâng cao
trình độ suốt đời.
Như vậy, Học viện đã xây dựng hệ thống mục tiêu rất cụ thể, rõ ràng, định
hướng cho những hoạt động của học viện. Đây là một yếu tố có vai trò không
nhỏ đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục của Học viện, vì khi có mục tiêu
rõ ràng nghĩa là Học viện xác định rõ điểm đến từ đó có những kế hoạch hành
động hợp lý. Hàng năm, thông qua hội nghị CBVC hệ thống mục tiêu này được
rà soát, chỉnh sửa và thay đổi để phù hợp với tình hình thực tiễn.
Học viện Quản lý giáo dục về cơ bản có cơ cấu tổ chức theo quy định của
điều lệ trường Đại học và được cụ thể hóa trong Quy chế về tổ chức và hoạt
động của Học viện. Học viện đã ban hành nhiều văn bản, quy chế, quy định cụ
thể cho mọi lĩnh vực trong hoạt động của Học viện nhằm giúp các hoạt động
diễn ra thông suốt và hợp lý. Các quy định cho từng đơn vị trong Học viện cũng
được xây dựng một cách bài bản và khoa học. Đảng bộ Học viện luôn giữ vai
trò lãnh đạo trong các hoạt động của Học viện, được công nhận là Đảng bộ
trong sạch và vững mạnh. Các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên … luôn
phát huy được thế mạnh của mình trong công tác. Ban giám đốc luôn quan tâm
tới các đơn vị cũng như mọi hoạt động của Học viện, chỉ đạo xây dựng kế
hoạch phát triển chung của Học viện cũng như mỗi đơn vị. Đây là những yếu tố
tích cực tác động tới mọi hoạt động của Học viện, giúp cho hoạt động của Học
viện mà đặc biệt là hoạt động đào tạo trong những năm qua luôn thông suốt và
khá hiệu quả…Tuy nhiên, hiện nay Học viện quản lý giáo dục chưa có Hội đồng
trường,
2.3.3 Người học
8
Người học của Học viện Quản lý giáo dục bao gồm sinh viên (hệ chính quy
và không chính quy); Học viên cao học.
Các tiêu chí: 2007-
2008
2008-

2009
2009 -
2010
2010-
2011
2011-
2012
1, Sinh viên Đại học
Trong đó:
Hệ chính quy 471 724 733 636 673
Hệ không chính quy 81 66 67
2, Học viên cao học 130 190 83
Tổng số sinh viên chính quy: 3854
Tỷ lệ sinh viên trên giảng viên 25.
Điểm trung bình của sinh viên được tuyển trong những năm qua:
Chỉ tiêu 2007-
2008
2008-
2009
2009-
2010
2010-
2011
2011-
2012
2012-
2013
2013-
2014
Điểm đầu vào trung bình 17 16,5 16 16 16 15 15

Từ những số liệu trên cho thấy, sinh viên của Học viện có chất lượng đầu
vào tương đối thấp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đào tạo cũng như
kết quả đào tạo sau 4 năm học làm cho việc nâng cao chất lượng đào tạo của
Học viện gặp rất nhiều khó khăn. Số lượng sinh viên qua các năm cũng ngày
càng tăng lên, đòi hỏi Học viện phải đầu tư nhiều hơn nữa về cơ sở vật chất
cũng như đội ngũ cán bộ giảng viên mới đáp ứng đủ nhu cầu quản lý và giảng
dạy.
Mặc dù, chất lượng đầu vào của sinh viên tương đối thấp nhưng phẩm chất
đạo đức của sinh viên nhìn chung rất tốt. Đa số các em ngoan ngoãn tạo thuận
lợi cho việc quản lý đạt hiệu quả hơn.
2.3.4 Người dạy
Người dạy có vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của
mỗi cơ sở giáo dục. Họ được xem là “yếu tố quyết định” chất lượng giáo dục.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ giảng dạy của Học viện trên 170 người (bao gồm
cả giảng viên kiêm nhiệm). Đội ngũ giảng viên có độ tuổi trung bình khá trẻ (là
38). Hầu hết các giảng viên đều tích cực, nhiệt tình, yêu nghề và rất linh hoạt
9
trong quá trình giảng dạy đặc biệt là việc đổi mới phương pháp dạy học để phù
hợp với yêu cầu của đổi mới của Bộ cũng như đòi hỏi của thực tiễn giảng dạy.
Mặc dù, điều kiện vật chất phục vụ giảng dạy của Học viện còn nhiều khó khăn,
bất cập nhưng các giảng viên luôn chịu khó, tự khắc phục để đảm bảo hoạt động
giảng dạy diễn ra bình thường và có hiệu quả. Về số lượng thì đội ngũ giảng
viên của Học viện còn thiếu, do vậy hàng năm, Học viện luôn phải mời giảng
viên thỉnh giảng. Về chất lượng giảng viên Học viện hầu hết đều đạt chuẩn và
trên chuẩn, trong đó đội ngũ giáo sư, tiến sỹ đang ngày càng nhiều và luôn làm
tốt vai trò hướng dẫn, dìu dắt những giảng viên trẻ. Tuy nhiên, do đội ngũ giảng
viên tương đối trẻ nên kinh nghiệm giảng dạy cũng chưa nhiều, điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo của Học viện.
2.3.5 Tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật.
- Tài chính: Công tác tài chính của Học viện luôn được quan tâm đúng

mức. Học viện đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ. Trong đó, xác định rõ các
nguồn thu và các quy định cụ thể về mức chi tiêu cho từng lĩnh vực hoạt động
của Học viện cũng như của từng đơn vị. (hiện nay do tình hình kinh tế thay đổi
nên Học viện đang tiến hành xây dựng quy chế chi tiêu mới để phù hợp với
hoàn cảnh).
Công tác lập kế hoạch tài chính và quản lý tài chính được chuẩn hóa, công
khai hóa theo quy định của pháp luật. Nguồn tài chính của Học viện đảm bảo sự
phân bổ, sử dụng hiệu quả. Tuy nhiên, do chưa giao quyền tự chủ tài chính cho
các đơn vị chủ động trong việc tăng nguồn thu nên hiệu quả các hoạt động còn
hạn chế.
- Cơ sở vật chất – kỹ thuật:
Tổng diện tích đất sử dụng của Học viện: 17 257,8m2
Trong đó: - Nơi làm việc: 1950 m2
- Nơi học tập: 4 500 m2
- Nơi vui chơi giải trí 600 m2
10
Tỷ số diện tích phòng học trên sinh viên chính quy là 1,7 m2/sinh viên.
Tỷ số máy tính sử dụng trên tổng số sinh viên là 184 máy/ 3 854 sinh viên
(số liệu năm 2011).
Từ những số liệu trên cho thấy, hiện nay cơ sở vật chất cơ bản đáp ứng đủ
nhu cầu của Học viện đặc biệt về mặt diện tích sử dụng. Tuy nhiên, các trang
thiết bị cho phòng học còn khá hạn chế, nhất là về mặt vệ sinh (ánh sáng, nhiệt
độ, trong phòng học) khiến cho hoạt động dạy và học của Thầy và trò diễn ra
khá khó khăn nhất là những thời điểm thời tiết khắc nghiệt (nắng nóng, mưa
to…). Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả của giờ học, trực
tiếp liên quan tới chất lượng đào tạo của nhà trường…
KẾT LUẬN
Từ những phân tích ở trên cho thấy: Các yếu tố đầu vào và bối cảnh có tác
động rất lớn tới việc nâng cao chất lượng đào tạo của mỗi nhà trường. Do vậy,
cần phải luôn quan tâm tới công tác đánh giá những yếu tố này để kịp thời đề

11
xuất những biện pháp thích hợp nhằm phát huy những thế mạnh và hạn chế
những khuyến điểm nhằm tăng tính tích cực của những yếu tố này đối với quá
trình nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Học viện Quản lý giáo dục mặc dù mới chỉ tồn tại gần 10 năm nhưng Học
viện đã có những biện pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng của các yếu tố
đầu vào cũng như bối cảnh giúp cho quá trình đào tạo diễn ra khá thuận lợi và
hiệu quả. Tuy xã hội chưa hiểu nhiều về những chuyên ngành mà Học viện đào
tạo, đặc biệt là chuyên ngành quản lý giáo dục nên nhiều khi chưa có sự quan
tâm xứng đáng cũng như việc xin việc của sinh viên sau khi ra trường còn khó
khăn, nhưng chắc rằng với bối cảnh như hiện nay và sự cố gắng của Học viện
thì xã hội sẽ biết đến Học viện nhiều hơn, đồng thời chất lượng đào tạo cũng sẽ
ngày càng được nâng cao hơn trong tương lai không xa./.
12