Dị tính luyến ái trong tiếng Anh

Dị tính luyến ái là chỉ sự hấp dẫn về tình cảm và tình dục với người khác giới. Dị tính luyến ái, đồng tính luyến ái, song tính luyến ái, toàn tính luyến ái và vô tính luyến ái là năm xu hướng tính dục chính. Đa phần mọi người trên thế giới thường là dị tính luyến ái, chỉ một tỉ lệ nhỏ thuộc các thiên hướng tình dục khác. Trong tiếng Anh, từ straight để chỉ người dị tính, gay chỉ người đồng tính nam (hoặc người đồng tính nói chung) và lesbian chỉ người đồng tính nữ.

Thụ tinh trong quan hệ tình dục dị tính luyến ái là cách sinh sản duy nhất của loài người mà không cần sự trợ giúp của kỹ thuật sinh sản nào. Sự luyến ái và tình yêu lãng mạn giữa nam và nữ có từ việc phân biệt vai trò nam nữ từ rất xa xưa. Vai trò giới cũng là chủ đề bàn luận và nghiên cứu trong xã hội loài người trong những tài liệu cổ xưa nhất. Dị tính luyến ái được nghiên cứu nhiều trong ngành dược, sinh học và gần đây nhất là tâm lý học.

Dị tính luyến ái trong tiếng Anh

Đồng tính luyến ái, còn gọi tắt là đồng tính, là sự hấp dẫn tình yêu, hấp dẫn tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách lâu dài. Với vai trò là một xu hướng tính dục, đồng tính luyến ái là “một mô hình lâu dài thể hiện sự hấp dẫn về cảm xúc, tình yêu, và/hoặc tình dục” đối với những người cùng giới tính. Nó “cũng chỉ cảm giác về bản dạng của một người dựa trên những điểm hấp dẫn, những hành vi liên quan, và sự tham gia vào một cộng đồng những người khác có chung những điểm hấp dẫn đó.” [1][2]

Đồng tính luyến ái cùng với dị tính luyến ái và song tính luyến ái, là ba dạng của xu hướng tính dục con người, thuộc Thang đo Kinsey.[1][3][4] Các nhà khoa học chưa rõ nguyên nhân chính xác của đồng tính luyến ái, nhưng họ đưa ra giả thuyết rằng đó là do sự tác động qua lại phức tạp của các nhân tố di truyền, nội tiết tố và ảnh hưởng từ môi trường nuôi dạy và văn hóa – xã hội.[5][6][7][8][9][10][11] Một số người cho rằng hoạt động tình dục đồng giới là trái với tự nhiên,[12] giới khoa học coi đồng tính luyến ái là một biến thể trong tính dục của con người.[1][13]. Chưa có đủ bằng chứng rằng các biện pháp can thiệp tâm lý hiện nay có thể làm thay đổi xu hướng tính dục.[14][15]

Thuật ngữ phổ biến nhất cho người đồng tính luyến ái là “người đồng tính nữ” hoặc “lét” cho nữ giới, (bắt nguồn từ tiếng Anh “lesbian” /ˈlezbiən/ và thường được viết phỏng theo tiếng Anh là “les”) và “người đồng tính nam” hoặc “gay” cho nam giới (bắt nguồn từ từ tiếng Anh “gay” /ɡeɪ/), nhưng “gay” cũng thường được dùng để chỉ cả người đồng tính nam và nữ. Rất khó để ước tính chính xác tỷ lệ người đồng tính vì nhiều lý do, bao gồm việc nhiều người đồng tính không công khai do định kiến hoặc do phân biệt đối xử[16]. Nhiều người đồng tính đã hoặc đang sống trong một mối quan hệ gắn kết, mặc dù phải đến những năm 2010 trở đi, các hình thức điều tra dân số và thuận lợi chính trị mới tạo điều kiện cho việc họ được biết đến nhiều hơn và được thống kê chính thức.[17] Nhiều người đồng tính nam và đồng tính nữ có quan hệ đồng tính luyến ái. Đồng tính luyến ái đã từng được ủng hộ cũng như lên án trong suốt quá trình phát triển nhân loại được lịch sử ghi lại, tùy thuộc vào hình thức của nó và nền văn hóa mà nó diễn ra.[18][19][20] Từ cuối thế kỷ XX đã có một phong trào trên phạm vi toàn cầu theo xu hướng tăng khả năng bộc lộ, công khai thiên hướng tình dục bản thân ở người đồng tính, công nhận các quyền lợi về nhân thân, quyền nhận con nuôi và làm cha mẹ, các quyền liên quan đến việc làm, phục vụ trong quân đội, tiếp cận bình đẳng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chống bắt giữ/tra tấn và sự ra đời của luật chống bắt nạt để bảo vệ trẻ vị thành niên đồng tính.

Dị tính luyến ái trong tiếng Anh

Thái độ của xã hội về đồng tính phản ánh thái độ của chính quyền và tôn giáo, đã thay đổi rất nhiều trong suốt chiều dài lịch sử cũng như bề rộng của Trái Đất, từ việc bắt mọi người đàn ông có quan hệ, đến việc chấp nhận, đến việc xem nó như một tội nhỏ bị cấm đoán qua luật pháp và tòa án, cho đến việc xem nó như là một trọng tội đáng bị xử tử.

Trong nhiều nền văn hóa, người ta thường có thành kiến và kỳ thị người đồng tính. Người đồng tính nam được xem là ẻo lả và chạy theo mốt.[238][239][240] Tuy vậy, nghiên cứu cho thấy họ có những quan hệ tình cảm lâu dài.[241] Nhiều người cho rằng người đồng tính nam thích ấu dâm và lạm dụng tình dục trẻ em hơn là người dị tính nam, các nghiên cứu cho thấy điều này không đúng.[242][243][244] Nhiều người nghĩ người đồng tính nữ là những người sắt đá như đàn ông và đôi khi căm ghét đàn ông[245] hoặc người bị ám ảnh bởi việc đấu tranh cho quyền phụ nữ.[246] Nhiều người khác thì nói rằng họ cởi mở với đồng tính, nhưng khi xem ảnh thân mật của các cặp đồng tính thì họ lại đều cảm thấy ghê sợ, cho thấy tâm lý ghê sợ đồng tính thực ra vẫn tồn tại trong những người này, trái với lời nói bên ngoài của họ.[247]

Trong nhiều trường hợp người đồng tính bị kết tội là nguyên nhân của tệ nạn xã hội. Trong thế kỷ XX, Đức quốc xã hành quyết những người đồng tính vì cho rằng họ đe dọa cho sự nam tính và làm dơ bẩn “giống nòi Aryan”. Những năm 1950, hàng trăm người bị sa thải vì là đồng tính trong một chiến dịch có tên là “Nỗi sợ hoa oải hương” của McCarthyism. Tuy nhiên, nhiều nhà chính trị đã chỉ trích một cách mỉa mai ông vì có phụ tá là người đồng tính, Roy Cohm.

Vào tháng 1 năm 2001, Bộ văn hóa Ai Cập cho đốt 6.000 quyển sách thơ đồng tính thế kỷ thứ VIII của nhà thơ Ba Tư-Ả Rập Abu Nuwas để xoa dịu người Hồi giáo.[248][249]

Ở Mỹ, theo FBI, 15,6% vụ tấn công do thù ghét được trình báo với cảnh sát là do kỳ thị đồng tính. Trong đó, 61% vụ tấn công là nhằm vào người đồng tính nam.[250] Năm 1998, một sinh viên đồng tính là Mathew Shepard đã bị giết, đây là một trong những vụ tai tiếng nhất ở Mỹ.

Ở thời điểm năm 2006, hành vi đồng tính luyến ái có thể bị xử tội tử hình ở 8 nước là Iran, Mauritanie, Nigeria, Pakistan, Ả Rập Xê Út, Sudan, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Yemen.

Nếu người đồng tính nam có quan hệ tình dục với người nam khác thì thuộc nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam nên các vấn đề về sức khỏe tương tự như nhóm hành vi này. Đọc các vấn đề sức khỏe của nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam để biết thêm chi tiết. Nam quan hệ với nam không chỉ bao gồm người đồng tính luyến ái nam, song tính luyến ái nam mà bao gồm tất cả người nam có quan hệ tình dục với nam với mọi mục đích.

Theo báo cáo tiến độ phòng, chống HIV/AIDS năm 2012, tỉ lệ nhiễm HIV trong những người nam quan hệ tình dục với nam ở Thành phố Hồ Chí Minh là 16%, tỷ lệ chỉ đứng sau nhóm tiêm chích ma túy. Tại đây, cứ 5 nam quan hệ đồng giới thì có một người nhiễm ít nhất một trong các nhiễm khuẩn giang mai, lậu sinh dục, lậu trực tràng, chlamydia sinh dục hoặc chlamydia trực tràng.[263] Nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ lây nhiễm HIV/AIDS cao do một đồng tính nam thường có nhiều bạn tình, họ thường giới thiệu bạn tình cho nhau và cùng quan hệ, nên chỉ cần 1 người nhiễm HIV thì sẽ nhanh chóng lây lan sang các đối tượng khác. Bên cạnh đó, các đồng tính nam thường quan niệm sai lầm rằng, chỉ có quan hệ khác giới mới bị nhiễm HIV, giang mai, mào gà… còn đồng tính thì không. Họ ít khi sử dụng các biện pháp phòng tránh khi quan hệ tình dục như một khảo sát của Ban quản lý dự án phòng chống HIV/AIDS (Việt Nam) trên 300 đồng tính nam cho thấy một số chỉ sử dụng bao cao su với bạn tình mới quen lần đầu, khi thân rồi họ không đề phòng nữa.[264]

Tương tự, đọc nữ có quan hệ tình dục với nữ để biết thêm chi tiết. Nữ quan hệ với nữ không chỉ bao gồm người đồng tính luyến ái nữ, song tính luyến ái nữ mà bao bồm tất cả người nữ có quan hệ tình dục với nữ.

Năm 2010, một báo cáo của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC) cho biết trong số các ca nhiễm HIV mới ở Hoa Kỳ thì số ca thuộc cộng đồng nam thanh niên đồng tính trẻ tuổi cao hơn rất nhiều so với mức chung, có nhiều nguyên nhân cho việc này:

Tỷ lệ bị nhiễm HIV trong cộng đồng đồng tính luyến ái nam vốn cao, làm tăng khả năng lây nhiễm trong cộng đồng so với dân số thông thường.[265] Các yếu tố xã hội như kỳ thị, thành kiến, phân biệt đối xử và thiếu khả năng tiếp cận hệ thống y tế đối với cộng đồng này. Nam giới trẻ có quan hệ đồng giới thường có các hành vi nguy cơ cao (như quan hệ tình dục với nhiều hơn 4 bạn tình, tiêm chích ma túy).

Thống kê của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Mỹ năm 2011 cho biết: nam đồng tính có khả năng nhiễm HIV cao gấp 44 tới 86 lần so với nam giới bình thường, và cao gấp 40 tới 77 lần so với nữ giới.[266] Năm 2009, thống kê cho biết có 61% số ca nhiễm HIV mới ở Mỹ là đồng tính hoặc song tính, dù nhóm này chỉ chiếm khoảng 2% dân số Mỹ.[267]

Thời gian đọc: 14 phút

Xuyên suốt nhiều thập kỷ qua, một số thuật ngữ đã xuất hiện nhằm mục đích mô tả những người không đi theo những chuẩn mực tính dục truyền thống. Những người này hình thành nên một cộng đồng lớn mạnh. Vì không phải là một tổ chức chính thức, không có một cái tên “chính thức” nào được đặt ra cho họ. Các cái tên như “LGBT” hoặc “LGBTQ”, thậm chí là 2SLGBTQ+, LGBTTIQQ2SA, LGBTQQIP2SAA hay LGBTQ2SAPQ+ thường được dùng để chỉ cộng đồng đó.

Mỗi cái tên được nhắc đến ở trên không phải là bản “đầy đủ”, nhưng cũng chẳng phải bản “thiếu”. Và cũng chính vì lẽ này mà rất nhiều bạn vẫn gặp nhiều khó khăn trong quá trình tìm hiểu về ý nghĩa của những chữ cái trong những cái tên này.

Ở bài viết này, Vietnam Youth Alliance xin phép được mang đến cho các bạn các định nghĩa và thông tin liên quan của từng chữ cái đã và đang được sử dụng trong các tên gọi của cộng đồng LGBT cũng như các thuật ngữ khác nhé. 

Chữ viết tắt 

L  – “Lesbian” (Đồng tính nữ)

Đồng tính nữ là người có giới nữ, có trải nghiệm thu hút về mặt tình dục/tình cảm với giới nữ. Sự thu hút này có tính bền vững, không phải là một lựa chọn và không thể thay đổi. Ngoài từ “lesbian” ra, từ “gay” cũng được dùng để chỉ những người đồng tính nữ.

Trong quá khứ, người đồng tính nữ thường được phân ra thành:

  • Butch (gọi tắt là B): chỉ người đồng tính nữ có khuynh hướng ăn mặc, cá tính như nam giới. Ngoài ra, nếu cá tính của họ mềm mỏng hơn một “butch” thông thường, họ sẽ được gọi là “soft-butch”;
  • Femme: Những người đồng tính nữ có khuynh hướng ăn mặc và cá tính như nữ giới.

Tuy nhiên, tới thời điểm hiện nay, việc phân vai trò trong mối quan hệ nữ – nữ đã không còn phù hợp. Nhiều người cho rằng điều đó sẽ khiến mối quan hệ bị dị tính hóa, không còn đúng nghĩa đồng giới nữa.

G  – “Gay” (Đồng tính nam)

Dị tính luyến ái trong tiếng Anh
Troye Sivan & Jacob Bixenman                                                              Nguồn ảnh: https://www.photoshelter.com

Đồng tính nam là người có giới nam, trải nghiệm thu hút về mặt tình cảm/tình dục với giới nam. Sự thu hút này bền vững, khó bị thay đổi và không phải là một lựa chọn.

Mặt khác, từ “gay” còn chỉ đồng tính luyến ái nói chung. Ví dụ:

  • Gay bar – quán bar dành cho người đồng tính;
  • Gay wedding – đám cưới của đồng tính.

Khi quan hệ tình dục, người ta thường sẽ phân ra thành:

  • Top: Những người đồng tính nam chủ động trong việc quan hệ tình dục;
  • Bottom: những người đồng tính nam bị động trong việc quan hệ tình dục.

Thông thường, người “top” được xem là “chồng” trong mối quan hệ đồng tính. Ngược lại, người “bottom” thường được xem là “vợ”. Nhiều người coi việc này là dị tính hoá quan hệ đồng tính. 

Tuy nhiên, không phải cặp đồng tính nào cũng chọn dị tính hoá mối quan hệ của mình. Dị tính hoá có thể đem đến sự kỳ thị không mong muốn cho các cặp đôi đồng tính và cộng đồng LGBT.

Đọc thêm: Bạn có đang vô thức kỳ thị đồng tính?

Tóm lại, mỗi người đồng tính sẽ có lựa chọn khác nhau trong việc xác định vai trò của mình trong mối quan hệ. Chúng ta nên tôn trọng quyết định của họ trong vấn đề này.

Một hiểu lầm thường thấy khác là người chuyển giới chỉ yêu người khác bản dạng giới, cùng giới tính với họ. Tuy nhiên, bản dạng giới và xu hướng tính dục là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, một người chuyển giới nam hoàn toàn có thể yêu người cùng bản dạng giới với họ.

B  – “Bisexual” (Song tính)

Song tính là người có trải nghiệm thu hút về mặt tình cảm/tình dục với 2 giới khác nhau. Hai giới được thu hút có thể là nam, nữ, hoặc nằm ngoài nhị nguyên giới. Sự thu hút này có tính bền vững, khó bị thay đổi và không phải là một lựa chọn.

Người song tính có thể khám phá, tìm hiểu về tính dục của họ theo nhiều cách khác nhau. Họ không nhất thiết phải có một trải nghiệm tình dục cụ thể mới nhận ra được xu hướng tính dục của họ. Trên thực tế, có rất nhiều người song tính chưa thật sự hẹn hò/quan hệ tình dục với nhóm giới mà họ thấy thu hút. Điều quan trọng là sự nhận thức của mỗi người, chứ không phải là trải nghiệm để hình thành nên xu hướng tính dục.

Ngoài ra, chúng ta có thuật ngữ “bi-curious”. Họ là những người chưa thật sự nhận thức rõ về xu hướng tính dục của mình. Tuy nhiên, họ vẫn tò mò về các mối quan hệ tình dục/tình cảm với các nhóm giới khác nhau.

T  – “Transgender” (Chuyển giới)

Chuyển giới là một khái niệm rất rộng lớn, dùng để chỉ bản dạng giới của con người. Khi bản dạng giới của một người không trùng với giới tính sinh học của họ, họ là người chuyển giới. Từ “Transgender/Trans” – “Chuyển giới” thường được dùng để chỉ người chuyển giới. Tuy nhiên, cũng có trường hợp từ này được dùng để chỉ một phổ bản dạng giới rộng lớn.

Người trong phổ chuyển giới có thể miêu tả bản dạng giới của mình là nam hoặc nữ. Trong nhiều trường hợp, họ có thể là cả nam và nữ hoặc đơn giản là không có giới. Việc sử dụng các từ ngữ miêu tả phù hợp là tùy vào lựa chọn cá nhân từng người.

Các phân nhánh khác nhau của chuyển giới

Người chuyển giới thường được chia thành:

  • Chuyển giới nam (Transguy/Transman/Female-to-male): Người có giới tính sinh học là nữ nhưng bản dạng giới là nam. Đa số những người chuyển giới nam thường chọn các tên gọi nam tính hoặc trung tính;
  • Chuyển giới nữ (Transgirl/Transwoman/Male-to-female): Người có giới tính sinh học là nam nhưng bản dạng giới là nữ. Đa số những người chuyển giới nữ chọn các tên nữ tính hoặc trung tính.

Phẫu thuật can thiệp xác định giới

Hiện nay, có những cuộc tranh luận cho rằng người chưa can thiệp xác định giới không phải là người chuyển giới.  Tuy nhiên, chúng ta cần ghi nhớ rằng việc một người có là người chuyển giới hay không không hề phụ thuộc vào ngoại hình của họ hay các thủ tục y tế. Nhiều người chuyển giới lựa chọn sử dụng nội tiết tố (hay còn gọi là hormone) phù hợp do bác sĩ kê đơn để xác định lại giới tính, một số lại tiến hành phẫu thuật. Tuy nhiên, không phải người chuyển giới nào cũng mong muốn hoặc có cơ hội thực hiện những lựa chọn trên. Chúng ta chỉ cần tôn trọng cảm xúc và suy nghĩ cá nhân của họ về chính mình là đủ.

Dị tính luyến ái trong tiếng Anh
Dị tính luyến ái trong tiếng Anh
Laverne Cox
Nguồn ảnh: Google

Q  – “Queer” hoặc “Questioning”

“Queer” từng là một từ lóng xúc phạm dùng để chỉ cộng đồng LGBT. Từ này tương tự như “bê đê”, “đồng bóng” trong tiếng Việt và “Pédé” trong tiếng Pháp. Hiện nay, từ queer đã được bình thường hóa, dùng để chỉ những người có tính dục thiểu số. Những người cảm thấy mình nằm ngoài những khuôn mẫu tiêu chuẩn của xã hội (như nghệ sĩ trình diễn, người drag,…) cũng thường được gọi là queer. 

Thông thường, đối với người queer, các thuật ngữ đồng tính nữ/ nam, song tính,… đều bị cho là quá gò bó. Đồng thời, những thuật ngữ này thường có các ý nghĩa văn hoá. Vì vậy, người queer có thể cảm thấy rằng những định nghĩa đó không phù hợp với bản thân mình.

Mặc dù đã được chấp nhận rộng rãi, chúng ta cũng nên thật thận trọng khi dùng từ queer. Có vài người cảm thấy không phù hợp, thậm chí xúc phạm khi được gọi bằng từ này. Hãy đảm bảo rằng bạn tôn trọng người khác và không vô tình xúc phạm họ nhé!

Ký tự Q thường có một nghĩa ít thông dụng hơn là “Questioning”. Questioning chỉ một người vẫn chưa hoàn toàn chắc chắn về tính dục của bản thân. Ngoài ta đây còn là một từ dùng để chỉ quá trình tự khám phá tính dục của một người.

2S  – “Two-spirit”

Đây là một thuật ngữ đề cập đến bản sắc của cộng đồng người bản địa Bắc Mỹ. Cộng đồng tính dục thiểu số nơi đây có một vai trò quan tâm linh và lễ nghi quan trọng. Nhiều nền văn hóa bản địa chính thống không coi tính dục chỉ có nam, nữ, và dị tính. Do bị quá trình thực dân hóa tác động, vai trò văn hóa của “two-spirit” đã bị mai một ít nhiều. Từ năm 1990, đã có nhiều nỗ lực được thực hiện nhằm khôi phục lại bản sắc tâm linh đặc sắc này. Đây là một bước tiến lớn nhằm ngăn chặn sự mất mát bản sắc văn hóa này.

Đây là một thuật ngữ chỉ được dùng bởi người bản địa ở Bắc Mỹ. Vì vậy, những người thuộc các nền văn hóa khác không nên dùng. 

P – “Pansexual” (Toàn tính)

Toàn tính là người bị thu hút về mặt tình cảm/tình dục với mọi giới. Họ thường được coi là “mù giới” (gender blind). Điều này có nghĩa rằng họ không có bất kỳ quan niệm nào về giới của con người. Họ bị thu hút nhiều hơn bởi những đặc tính khác, thay vì là giới. Đây là điểm khác biệt lớn giữa người toàn tính và các xu hướng tính dục thường gặp khác.

Trong toàn tính luyến ái còn một phân nhánh nhỏ ít được chú ý tới, đó là “Omnisexual”. Đây là những người bị thu hút về mặt tình dục/tình cảm với mọi giới. Tuy nhiên, họ không “mù giới”. Họ vẫn có sự quan tâm và nhận thức rõ ràng về giới của đối phương.

P –  “Polysexual” (Đa tính)

Đa tính là người có trải nghiệm hấp dẫn về mặt tình cảm/tình dục với nhiều hơn 2 giới khác nhau. Các giới được thu hút có thể là nam, nữ, hoặc nằm ngoài nhị nguyên giới. Sự thu hút này có tính bền vững, khó bị thay đổi và không phải là một lựa chọn. Người đa tính nhận thức rõ rằng có rất nhiều giới họ cảm thấy bị thu hút. Tuy nhiên, họ thường không xác định số bản dạng giới này.

A –  “Asexual” (Vô tính)

Vô tính là những người ít/không trải nghiệm sự thu hút tình cảm/tình dục theo nhiều phương diện. Ngoài định nghĩa là một thuật ngữ tính dục, đây còn là một phổ xu hướng tính dục. Vô tính không phải một lựa chọn như chủ nghĩa độc thân, kiêng khem tình dục, thề nguyện trinh tiết,… Thay vào đó, xu hướng vô tính phát triển một cách vững chắc, kéo dài và khó thay đổi.

Cần lưu ý rằng có rất nhiều xu hướng khác nhau trong phổ vô tính. Không phải người vô tính nào cũng không quan hệ tình dục hoặc có một mối quan hệ lãng mạn. Thay vào đó, họ không/ít có nhu cầu, bị thu hút trên phương diện tình dục và tình cảm.

Xu hướng tính dục này cũng bao gồm người có xu hướng tình cảm trong phổ aromantic (người vô ái). Điều này có nghĩa là họ không/ít bị ảnh hưởng bởi sự hấp dẫn về mặt tình cảm.

Các phân nhánh nhỏ của vô tính

  • Vô tính hữu ái: người không/ít hấp dẫn tình dục nhưng có hấp dẫn về mặt tình cảm;
  • Người vô tính đồng ái: người không/ít hấp dẫn tình dục. Tuy nhiên, họ có hấp dẫn tình cảm đồng giới;
  • Vô tính song ái: người không/ít hấp dẫn tình dục. Đồng thời, họ có hấp dẫn tình cảm song giới;
  • Người vô tính đa ái: người không/ít hấp dẫn tình dục. Thế nhưng, họ có hấp dẫn tình cảm với trên 2 giới;
  • Vô tính toàn ái: người không/ít hấp dẫn tình dục. Đồng thời, họ có hấp dẫn tình cảm với tất cả các giới;
  • Người vô tính vô ái/Người vô tính: người không/ít hấp dẫn tình dục. Đồng thời, họ không có/ít hấp dẫn tình cảm;
  • Á tính: người bị thu hút/hấp dẫn tình dục chỉ khi có kết nối tình cảm lâu dài. Họ có một sự gắn bó mật thiết với người họ yêu thương. Trong dải phổ tính dục, á tính nghiêng về màu của vô tính hữu ái. Á tính được xác định dựa vào mức độ hấp dẫn tình dục (ở đây là ít/cực ít) và các yếu tố khác như thời gian, tình cảm của đối tác kia mà thu hút;
  • Bán tính/Bán vô tính: người ít thu hút/hấp dẫn tình dục/tình cảm. Thế nhưng, họ vẫn tham gia sinh hoạt tình dục/tình cảm. Nhìn chung, họ có sự thu hút hay việc sinh hoạt tình dục/tình cảm. Tuy nhiên, điều này vẫn ít hơn người ở những xu hướng tính dục khác.

“+”  – Dấu cộng

Nhiều tên viết tắt của cộng đồng LGBT được kết thúc bằng một dấu cộng. Vì sao thế nhỉ? Bởi còn một số lượng lớn những nhãn tính dục khác có thể biểu diễn bởi chữ cái, nhưng được tóm gọn lại thành một dấu “+”. Những nhóm này không hề kém rõ ràng hay không quan trọng, nhưng do quá dài nên hầu hết mọi người chọn cách viết ngắn gọn cụm từ.

Xu hướng tính dục, bản dạng giới và các thuật ngữ liên quan

Như đã được nhắc ở trên, cộng đồng LGBT có nhiều nhãn tính dục (bản dạng giới, xu hướng tính dục, v.v.) mà không hay được nêu tên. Vậy nên, Vietnam Youth Alliance xin cung cấp thêm một số định nghĩa cho các xu hướng tính dục, bản dạng giới và thuật ngữ thường không nằm trong LGBT .

MSM (Men having sex with men)

Đây là những người nam có quan hệ tình dục đồng giới với nam. Nhiều người thường hiểu lầm và đánh đồng MSM với đồng tính nam. Tuy nhiên, mọi thứ không hẳn là như vậy. MSM bao gồm cả đồng tính nam và những người có hành vi quan hệ tình dục đồng giới. Người MSM có thể có các xu hướng tính dục khác như song tính, toàn tính,… Đồng thời, không phải ai có quan hệ tình dục đồng giới cũng tự xác định mình bị thu hút bởi giới nam.

WSW (Women having sex with women)

Đây là những người nữ có quan hệ tình dục đồng giới với nữ, tương tự như MSM.

Androsexual/Androphilic 

Từ chỉ người cảm thấy hấp dẫn về tình cảm, thể chất và/hoặc tinh thần với phái nam, người có cơ thể nam, hoặc các đặc điểm nam tính.

Dị tính luyến ái (Heterosexual)

Dị tính là những người bị thu hút về mặt tình cảm/tình dục với những người khác bản dạng giới. Người nam thường bị thu hút bởi người nữ và ngược lại. Họ là những người không thuộc cộng đồng LGBT.

Trong cuộc sống đời thường, người ta còn dùng từ “straight” (“thẳng”) để chỉ những người dị tính luyến ái.

Dị tính luyến ái trong tiếng Anh
Ảnh từ phim “About time”

Ally (Đồng minh)

Đây không phải là một nhãn tính dục. Từ này chỉ những người ủng hộ, tôn trọng, và đồng hành cùng cộng đồng LGBT. Trong thực tế, đồng minh tích cực là những người thường có nhiều hoạt động thể hiện quan điểm của mình, và công khai ủng hộ mạnh mẽ với người LGBT. Điều này cũng thể hiện để xã hội thấy được mình là đồng minh của người LGBT.

Công khai trở thành một đồng minh là quá trình xảy ra khi bạn bắt đầu nói và thể hiện những hành động cụ thể nhằm ủng hộ, tôn trọng cộng đồng LGBT. Nhưng đôi khi việc bạn là một đồng minh tích cực cũng có thể khiến bạn bị kỳ thị. Vì thế, đồng minh cũng có thể phải trải qua quá trình “công khai về bản thân,” mặc dù điều này ít được ghi nhận.

Non-binary (Phi nhị nguyên)

Hầu hết mọi người, kể cả người chuyển giới, có giới tính là nam hoặc là nữ. Tuy nhiên, giới tính sinh học là một định nghĩa thiên về y học. Ngược lại, bản dạng giới là một định nghĩa thiên về xã hội. Vì vậy, bản dạng giới rất đa dạng.

Trong cuộc sống, có những người cảm thấy những từ “đàn ông”/“phụ nữ”, “nam”/“nữ” không phù hợp với mình. Ví dụ, có những người có bản dạng giới pha trộn giữa nam hay là nữ. Số khác lại xác định mình không phải là nam và nữ. Một số người còn có bản dạng giới không cố định. Vậy nên, những người có giới xã hội khác nam hoặc nữ thường miêu tả bản thân bằng các thuật ngữ khác nhau. Trong số đó, “non-binary” hay phi nhị nguyên là thông dụng nhất.

Ở trong phạm trù của phi nhị nguyên (non-binary), có rất nhiều những bản dạng giới khác nhau.

Intersex (Liên giới tính)

Đây là thuật ngữ y khoa chỉ người có cơ thể không rõ giới tính nhị nguyên (tỷ lệ 1/1000 trẻ). Hiện nay người ta đã tìm ra khoảng 17 dạng liên giới tính khác nhau. Người có 2 bộ phận sinh dục (lưỡng tính –  hermaphrodite hay hermaphroditic) chỉ là 1 trong số đó.

Lĩnh vực chăm sóc y tế chẩn đoán trẻ sơ sinh có thể mắc hội chứng DSD – Rối loạn phát triển giới tính lâm sàng (“Differing/Disorders of Sex Development”). Đây thường bị coi là một bệnh lý đáng ngại ở trẻ nhỏ. Trong suốt một thời gian dài, trạng thái liên giới tính được cho là một vấn đề khẩn cấp. Do vậy, cần phải được bác sĩ can thiệp nhanh để “chữa” cho trẻ sơ sinh.

Hiện nay, càng ngày càng có nhiều các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức và vận động quyền cho người liên giới tính. Nhiều người yêu cầu ngừng coi liên giới tính là một bệnh hay vấn đề y tế. Đồng thời, họ yêu cần cấm phẫu thuật xác định lại giới tính không cần thiết đối với trẻ sơ sinh. Đứa trẻ khi đủ lớn có thể hiểu và tự quyết định phẫu thuật xác định giới tính.

Liên giới tính cũng đã được coi là một giới tính sinh học bên cạnh hai giới tính sinh học cơ bản là nam và nữ.

Dị tính luyến ái trong tiếng Anh
Kha Nhits – một người liên giới tính ở Việt Nam
Nguồn ảnh: Soha

Agender (Vô giới)

Đây là một thuật ngữ có thể được dịch đơn giản là “không có bản dạng giới”. Người xác định bản thân là người vô giới sẽ thường miêu tả bản thân theo một trong những kiểu dưới đây:

  • Không có bản dạng giới hoặc thiếu bản dạng giới;
  • Giới trung tính, có nghĩa là bạn không phải là nam, cũng chẳng phải nữ, nhưng vẫn có giới.
  • “Neutrois” (trung tính) về bản dạng giới;
  • Có bản dạng giới không xác định hoặc không thể xác định. Bản giới này không nằm trong cả nhị nguyên lẫn phi nhị nguyên giới;
  • Không có bất kỳ nhãn nào phù hợp với bản dạng giới của họ;
  • Không hiểu hoặc không quan tâm về bản dạng giới;
  • Quyết định không dán nhãn bản thân;
  • Tự nhận diện là một con người hơn là một bản dạng giới nào đó.

Genderqueer (Đa dạng giới)

Đây là một khái niệm chung có thể dùng để miêu tả bất kỳ bản dạng giới nào vượt ngoài phạm vi của nhị nguyên (nam và nữ). Genderqueer có thể bao gồm một hoặc nhiều kiểu dưới đây:

  • Bản dạng giới gồm cả nam lẫn nữ;
  • Không phải cả giới nam hay giới nữ (genderless, agender, neutrois);
  • Linh hoạt giữa các giới (genderfluid);
  • Giới thứ ba (third gender) hoặc giới khác;
  • Người không hoặc không thể gọi tên chính xác giới của mình;
  • Có sự chồng chéo hoặc mờ nhạt giữa các xu hướng tính dục và các bản dạng giới.

Bigender (Song giới)

Song giới (Bigender) là người có trải nghiệm bản thân thuộc về 2 bản dạng giới riêng biệt, hoặc đồng thời, hoặc có sự chênh lệch giữa 2 giới. Hai bản dạng giới này có thể là nam và nữ, hoặc những bản dạng phi nhị nguyên khác.

Genderfluid (Linh hoạt giữa các giới)

Đây là một bản dạng giới đề cập tới một giới thay đổi theo thời gian. Một người linh hoạt giới có thể trong lúc này nhận diện bản thân là nam, hoặc là nữ, hoặc là trung tính, hay cũng có thể là bất kỳ bản dạng phi nhị nguyên khác, hoặc là sự kết hợp giữa các bản dạng giới khác nhau.

Người linh hoạt giới có thể nhận diện bản thân là người đa giới, phi nhị nguyên giới và/hoặc là người chuyển giới. Họ cũng cảm thấy thoải mái hơn với việc sử dụng danh xưng trung tính hoặc thể hiện giới một cách trung tính giữa nam và nữ. 

Người linh hoạt giới cảm thấy độ ảnh hưởng của (các) giới thay đổi theo thời gian, nên có khi họ cảm thấy mình vô giới, hoặc đôi lúc là bán vô giới. Nếu họ cảm nhận bản thân trải qua tất cả các giới thì được gọi là “genderflux” (một dạng của genderfluid).

Androgynous (Trung tính)

Đây là một loại thể hiện giới với những đặc điểm bên ngoài của cả nam tính và nữ tính.

Ngoài các thuật ngữ chúng mình đã đề cập như trên, trong cộng đồng vẫn còn vô số các thuật ngữ ít được mọi người chú ý tới. Hãy theo dõi trang Facebook Vietnam Youth Alliance và trang web http://vnyouthally.org/ của chúng mình để cập nhật thêm nhiều thuật ngữ khác nhé!

Tài liệu tham khảo

[bg_collapse view=”link” color=”#4a4949″ icon=”arrow” expand_text=”Xem thêm” collapse_text=”Rút gọn” ]

https://gender.wikia.org/wiki/Gender_Wiki

http://www.supportiveparents.ca/lgbtq2s/

http://lgbtq2stoolkit.learningcommunity.ca/wp/wp-content/uploads/2014/12/LGBTQ2S-Definitions.pdf

https://transequality.org/issues/resources/understanding-non-binary-people-how-to-be-respectful-and-supportive

[/bg_collapse]