Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị mác-lênin

Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất trong các hoạt động của con  người,  là  cơ  sở  của  đời  sống  xã  hội  loài  người.  Đời  sống  xã  hội  bao  gồm nhiều mặt hoạt động khác nhau như: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học – công nghệ, thể thao, tôn giáo, v.v..

Các hoạt động này thường xuyên có quan hệ và tác động lẫn nhau. Xã hội càng phát triển thì các hoạt động nói trên càng phong phú, đa dạng và có trình độ cao hơn. Dù hoạt động trong lĩnh vực nào và ở giai đoạn lịch sử nào thì con người cũng cần có thức ăn, quần áo, nhà ở, v.v., để duy trì sự tồn tại của con người và các phương tiện vật chất cho hoạt động của họ.

Muốn có các của cải vật chất đó, con người phải không ngừng sản xuất ra chúng. Sản xuất càng  được  mở  rộng,  số  lượng  của  cải vật chất ngày càng nhiều, chất lượng càng tốt, hình thức, chủng loại… càng đẹp và đa dạng, không những làm cho đời sống vật  chất  được nâng cao mà đời  sống tinh thần như  các  hoạt  động  văn  hóa,  nghệ thuật, thể thao… cũng được mở rộng và phát triển.

Quá trình sản xuất của cải vật chất  cũng  là  quá  trình  làm  cho  bản  thân  con  người  ngày  càng  hoàn  thiện,  kinh nghiệm và kiến thức của con người được tích luỹ và mở rộng, các phương tiện sản xuất được cải tiến, các lĩnh vực khoa học, công nghệ ra đời và phát triển giúp con người khai thác và cải biến các vật thể tự nhiên ngày càng có hiệu quả hơn. 

Thực  trạng  hoạt  động  sản  xuất  của  cải  vật  chất,  quy  mô,  trình  độ  và  tính hiệu  quả  của  nó  quy  định  và  tác  động  đến  các  hoạt  động  khác  của  đời  sống  xã hội. Chính vì vậy C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng, sản xuất của cải vật chất là cơ sở, là điều kiện tiên quyết, tất yếu và vĩnh viễn của sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. 

Nguyên  lý  này  có  ý  nghĩa  quan  trọng  trong  khoa  học  xã  hội,  giúp  ta  hiểu được nguyên nhân cơ bản trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại qua các giai  đoạn  lịch  sử  khác  nhau  đều  bắt  nguồn  từ  sự  thay  đổi  của  các  phương  thức sản xuất của cải vật chất.

Đồng thời để hiểu được các nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng trong đời sống xã hội ta phải xuất phát từ lĩnh vực sản xuất của cải vật chất, từ các nguyên nhân kinh tế. 

Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cơ  cấu  kinh  tế  có  sự  biến  đổi,  lĩnh  vực  sản  xuất  phi  vật  thể  (dịch  vụ)  phát  triển mạnh mẽ và ở một số quốc gia nó đã và sẽ đóng góp một tỷ trọng lớn trong thu nhập quốc dân. Nhưng nguyên lý trên vẫn còn nguyên ý nghĩa. 

b) Các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất 

Quá trình sản xuất ra của cải vật chất là sự tác động của con người vào tự nhiên nhằm khai thác hoặc cải biến các vật thể của tự nhiên để tạo ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của con người. Vì vậy, quá trình sản xuất luôn có sự tác động qua lại của ba yếu tố cơ bản là sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. 

Sức  lao  động  là  tổng  hợp  thể  lực  và  trí  lực  của  con  người  được  sử  dụng trong quá trình lao động. Sức lao động khác với lao động. Sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực. 

– Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra các  sản  phẩm  phục  vụ  cho  các  nhu  cầu  của  đời  sống  xã  hội.  Lao  động  là  hoạt động  đặc  trưng  nhất,  hoạt  động  sáng  tạo  của  con  người,  nó  khác  với  hoạt  động bản năng của động vật. 

Quá trình lao động cũng là quá trình phát triển, hoàn thiện con người và xã hội loài người. Con người ngày càng hiểu biết tự nhiên hơn, phát hiện ra các quy luật của tự nhiên và xã hội, cải tiến và hoàn thiện các công cụ sản xuất, làm cho sản xuất ngày càng có hiệu quả hơn. 

Quá trình lao động cũng là quá trình phát triển, hoàn thiện con người và xã hội loài người. Con người ngày càng hiểu biết tự nhiên hơn, phát hiện ra các quy luật của tự nhiên và xã hội, cải tiến và hoàn thiện các công cụ sản xuất, làm cho sản xuất ngày càng có hiệu quả hơn. 

Nền sản xuất xã hội càng phát triển thì vai trò nhân tố con người càng được tăng lên. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đặt ra những yêu cầu mới đối với sức lao động, đặc biệt là khi loài người bước vào nền kinh tế tri thức thì các yêu cầu đó càng trở nên bức thiết, trong đó lao động trí tuệ ngày càng tăng trở thành đặc trưng chủ yếu nói lên năng lực của con người trong quan hệ với tự nhiên. 

–  Đối  tượng  lao  động  là  bộ  phận  của  giới  tự  nhiên  mà  lao  động  của  con người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đó là yếu tố vật chất của sản phẩm tương lai. Đối tượng lao động gồm có hai loại: 

+ Loại có sẵn trong tự nhiên như: các loại khoáng sản trong lòng đất, tôm, cá  ngoài  biển,  đá  ở  núi,  gỗ  trong  rừng  nguyên  thuỷ…  Loại  đối  tượng  lao  động này,  con  người  chỉ  cần  làm  cho  chúng  tách  khỏi  mối  liên  hệ  trực  tiếp  với  tự nhiên là có thể sử dụng được. Chúng là đối tượng lao động của các ngành công nghiệp khai thác. 
+ Loại đã qua chế biến nghĩa là đã có sự tác động của lao động trước đó gọi là nguyên liệu. Loại này thường là đối tượng lao động của các ngành công nghiệp chế biến. Cần chú ý rằng mọi nguyên liệu đều là đối tượng lao động nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu. 

Trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, vai trò của các loại đối tượng lao động dần dần thay đổi. Loại đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên có xu hướng cạn kiệt dần, còn loại đã qua chế biến có xu hướng ngày càng tăng lên.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang và sẽ tạo ra nhiều vật liệu mới có các tính năng mới, có chất lượng tốt hơn, đó là các vật liệu “nhân tạo”. Song cơ sở của các vật liệu nhân tạo này vẫn có nguồn gốc từ tự nhiên, vẫn lấy ra từ đất và lòng đất. Đúng như U. Pétti, nhà kinh tế học cổ điển người Anh, đã viết: Lao động là cha còn đất là mẹ của mọi của cải vật chất. 

– Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu của con người. 

Tư liệu lao động gồm có: 

+ Công cụ lao động là bộ phận trực tiếp tác động vào đối tượng lao động; biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người. 
+  Bộ  phận  phục  vụ  trực  tiếp  hoặc  gián  tiếp  cho  quá  trình  sản  xuất  như nhà  xưởng,  kho,  băng  truyền,  đường  sá,  bến  cảng,  sân  bay,  phương  tiện  giao thông  vận  tải,  điện  nước,  bưu  điện,  thông  tin  liên  lạc  v.v.,  trong  đó  hệ  thống đường sá, cảng biển, cảng hàng không, các phương tiện giao thông vận tải hiện đại và thông tin liên lạc… được gọi là kết cấu hạ tầng sản xuất. 

Trong tư liệu lao động thì công cụ lao động (C. Mác gọi là hệ thống xương cốt và bắp thịt của nền sản xuất) giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất  lượng  sản  phẩm.  Trình  độ  của  công  cụ  sản  xuất  là  một  tiêu  chí  biểu  hiện trình  độ  phát  triển  của  nền  sản  xuất  xã  hội.  C.  Mác  đã  viết:  “Những  thời  đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”1.

Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng sản xuất cũng có vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong nền sản xuất hiện đại. Kết cấu hạ tầng có tác động đến toàn bộ nền kinh tế, trình độ tiên tiến hoặc lạc hậu của kết cấu hạ tầng sản xuất sẽ thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội ở mỗi quốc gia.

Ngày nay, khi đánh giá trình độ phát triển của mỗi nước thì trình độ phát triển của kết cấu hạ tầng là một chỉ tiêu không thể bỏ qua. Vì vậy, đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất là một hướng được ưu tiên và đi trước so với đầu tư trực tiếp. 

Quá  trình  sản  xuất  là  quá  trình  kết  hợp  của  ba  yếu  tố  sản  xuất  cơ  bản  nói trên  theo  công  nghệ nhất  định. Trong đó  sức  lao  động giữ  vai  trò  là  yếu  tố  chủ thể còn đối tượng lao động và tư liệu lao động là yếu tố khách thể của sản xuất. Sự  phân  biệt  giữa  đối  tượng  lao  động  và  tư  liệu  lao  động  chỉ  có  ý  nghĩa  tương đối.

Một vật là đối tượng lao động hay tư liệu lao động là do chức năng cụ thể mà nó  đảm  nhận  trong  quá  trình  sản  xuất  đang  diễn  ra.  Sự  kết  hợp  đối  tượng  lao động  với  tư  liệu  lao  động  gọi  chung  là  tư  liệu  sản  xuất.  Như  vậy  quá  trình  lao động  sản xuất,  nói  một  cách  đơn giản,  là  quá  trình  kết hợp  sức  lao động  với  tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. 

c) Sản phẩm xã hội 

Sản phẩm là kết quả của sản xuất. Tổng hợp các thuộc tính về cơ học, lý học, hoá học và các thuộc tính có ích khác làm cho sản phẩm có công dụng nhất định và có thể thỏa mãn những nhu cầu của con người. 

Sản phẩm của từng đơn vị sản xuất được tạo ra trong những điều kiện cụ thể nhất  định gọi là sản phẩm cá biệt. Tổng thể của các sản phẩm  cá  biệt  được sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định, thường tính là một năm, gọi là sản phẩm xã hội.

Như vậy, mọi sản phẩm cụ thể là một sản phẩm cá biệt đồng thời là một bộ phận  của  sản  phẩm  xã  hội.  Trong  nền  kinh  tế  hàng  hóa,  sản  phẩm  xã  hội  được tính  qua  các  khái  niệm  tổng  sản  phẩm  xã  hội,  tổng  sản  phẩm  quốc  dân  và  tổng sản phẩm quốc nội. 

Sản  phẩm  xã  hội  bao  gồm  toàn  bộ  chi  phí  tư  liệu  sản  xuất  hao  phí  trong năm và sản phẩm mới. 

Phần còn lại của sản phẩm xã hội sau khi trừ đi toàn bộ những chi phí về tư liệu sản xuất hao phí trong năm gọi là sản phẩm mới (còn được gọi là sản phẩm xã hội thuần tuý, hay thu nhập quốc dân). Sản phẩm mới gồm có sản phẩm cần thiết  và  sản  phẩm  thặng  dư.  

Sản  phẩm  cần  thiết  dùng  để  duy  trì  khả  năng  lao động và đào tạo thế hệ lao động mới nhằm thay thế những người mất khả năng lao  động,  chi  phí  về  ăn,  mặc,  ở…  và  các  chi  phí  về  văn  hóa,  tinh  thần  v.v..  Sản phẩm thặng dư dùng để mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống của xã hội.

Sự giàu có và văn minh của mỗi quốc gia trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội phụ thuộc chủ yếu vào nhịp độ gia tăng của sản phẩm thặng dư. Còn nhịp độ gia tăng của sản phẩm thặng dư lại phụ thuộc vào nhịp độ tăng năng suất lao động xã hội. 

d) Hai mặt của nền sản xuất 

Để tiến hành lao động sản xuất, con người phải giải quyết hai mối quan hệ có  tác  động  lẫn  nhau,  đó  là  quan  hệ  giữa  người  với  tự  nhiên  và  quan  hệ  giữa người  với  người  trong  quá  trình  sản  xuất.  Nói  cách  khác,  quá  trình  sản  xuất  bao gồm hai mặt là: mặt tự nhiên biểu hiện  ở lực lượng sản xuất và mặt  xã  hội  biểu hiện ở quan hệ sản xuất. 

– Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một quốc gia ở một thời kỳ nhất định. Nó biểu hiện  mối  quan  hệ  tác  động  của  con  người  với  tự nhiên, trình độ hiểu biết tự nhiên và năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất của cải vật chất. 
– Lực  lượng  sản  xuất  gồm  có  người  lao  động  với  những  năng  lực,  kinh nghiệm nhất định và tư liệu sản xuất, trong đó con người giữ vai trò quyết định, luôn sáng tạo, là yếu tố chủ thể của sản xuất; còn tư liệu sản xuất dù ở trình độ nào  cũng  luôn  luôn  là  yếu  tố  khách  thể,  tự  nó  không  thể  phát  huy  tác  dụng;  các công cụ sản xuất dù hiện đại như máy tự động, người máy thông minh có thể thay thế con người thực hiện một số chức năng sản xuất cũng đều do con người tạo ra và sử dụng trong quá trình tạo ra của cải vật chất. 

Tư liệu sản xuất không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ thô sơ đến hiện đại và đòi hỏi sự phát triển tương ứng về trình độ của người lao động. Với công cụ sản xuất thủ công thô sơ thì sức lao động chưa đòi hỏi cao về yếu tố trí tuệ và vai trò quan trọng thường là sức cơ bắp. Còn với công cụ sản xuất càng tiên tiến hiện đại thì yếu tố trí tuệ trong sức lao động càng có vai trò quan trọng. 

Ngày  nay,  cuộc  cách  mạng  khoa  học  và  công  nghệ  hiện  đại  đang  diễn  ra mạnh mẽ, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức, trí tuệ chiếm một tỷ trọng ngày càng tăng trong giá trị sản phẩm và trở thành tài nguyên ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia. 

Có những tiêu chí khác nhau để đánh giá trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,  trong  đó  tiêu  chí  quan  trọng  nhất  và  chung  nhất  là  năng  suất  lao  động  xã hội. 

– Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất của  cải  vật  chất  xã  hội.  Quan  hệ  sản  xuất  biểu  hiện  quan  hệ  giữa  người  với người trong tất cả 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Xét một cách giản đơn, quan hệ sản xuất thể hiện trên 3 mặt chủ yếu. 

+ Quan hệ về sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội (gọi tắt là quan hệ sở hữu). 
+ Quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất (gọi tắt là quan hệ quản lý). + Quan hệ về phân phối sản phẩm xã hội (gọi tắt là quan hệ phân phối). Ba mặt trên của quan hệ sản xuất có quan hệ tác động lẫn nhau, trong đó quan  hệ  sở  hữu  giữ  vai  trò  quyết  định,  chi  phối  quan  hệ  quản  lý  và  phân  phối,  song quan hệ quản lý và phân phối cũng tác động trở lại quan hệ sở hữu.
Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó biểu hiện thành các phạm trù và quy luật kinh tế. Quan  hệ  sản  xuất  tồn  tại  khách  quan,  con  người  không  thể  tự  chọn  quan  hệ  sản xuất một cách chủ quan, duy ý chí, quan hệ sản xuất do tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất xã hội quy định. 

– Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện chứng này, quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tức  là  lực  lượng  sản  xuất  quyết  định  quan  hệ  sản  xuất.  Ngược  lại,  quan  hệ  sản xuất có tác động trở lại lực lượng sản xuất. Đó là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất. 

Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất có thể diễn ra theo hai hướng: một là, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực  lượng  sản  xuất  nó  sẽ  thúc  đẩy  lực  lượng  sản  xuất  phát  triển;  hai  là,  trong trường hợp ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất là vì quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, ảnh hưởng quyết định đến thái độ người lao động, kích thích hoặc hạn chế cải tiến kỹ thuật – áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng như tổ chức hợp tác, phân công lao động, v.v.. 

2. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị 

Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin được xác định dựa trên quan  điểm  duy  vật  lịch  sử.  Sản  xuất  vật  chất  là  cơ  sở  của  đời  sống  xã  hội. Nhưng bất cứ nền sản xuất nào cũng đều diễn ra trong một phương thức sản xuất nhất định tức là trong sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Kinh tế chính trị là khoa học xã hội, đối tượng nghiên cứu của nó là mặt xã hội của sản  xuất,  tức  là  quan  hệ  sản  xuất  hay  là  quan  hệ  kinh  tế  giữa  người  với  người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất. 

Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất nhưng quan hệ  sản  xuất  lại  tồn  tại  và  vận  động  trong  sự  tác  động  qua  lại  với  lực  lượng  sản xuất.

Mặt khác, quan hệ sản xuất tức là cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động qua lại với kiến trúc thượng tầng, nhất là các quan hệ về chính trị, pháp lý… có tác động trở lại mạnh mẽ đối với quan hệ sản xuất. Vậy đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. 

Kinh tế chính trị là khoa học nghiên cứu quan hệ sản xuất nhằm tìm ra bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, phát hiện ra các phạm trù, quy luật kinh tế ở các giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người. 

Các phạm trù kinh tế là những khái niệm phản ánh bản chất của những hiện tượng  kinh  tế  như:  hàng  hóa,  tiền  tệ,  giá  trị,  giá  cả…  Còn  các  quy  luật  kinh  tế phản  ánh  những  mối  liên  hệ  tất  yếu,  bản  chất,  thường  xuyên,  lặp  đi  lặp  lại  của các hiện tượng và quá trình kinh tế.

 Quy luật kinh tế có những tính chất sau: 

Cũng như các quy luật khác, quy luật kinh tế là khách quan, nó xuất hiện, tồn  tại  trong  những  điều  kiện  kinh  tế  nhất  định  và  mất  đi  khi  các  điều  kiện  đó không  còn;  nó  tồn  tại  độc  lập  ngoài  ý  chí  con  người.  Người  ta  không  thể  sáng tạo, hay thủ tiêu quy luật kinh tế mà chỉ có thể phát hiện, nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế để phục vụ cho hoạt động kinh tế của mình. 

Quy luật kinh tế là quy luật xã hội, nên khác với các quy luật tự nhiên, quy luật  kinh  tế  chỉ  phát  sinh  tác  dụng  thông  qua  hoạt  động  kinh  tế  của  con  người. Nếu  nhận  thức  đúng  và  hành  động  theo  quy  luật  kinh  tế  sẽ  mang  lại  hiệu  quả, ngược lại sẽ phải chịu những tổn thất. 

Khác với các quy luật tự nhiên, phần lớn các quy luật kinh tế có tính lịch sử, chỉ  tồn  tại  trong  những  điều  kiện  kinh  tế  nhất  định.  Do  đó,  có  thể  chia  quy  luật kinh tế thành hai loại. Đó là các quy luật kinh tế đặc thù và các quy luật kinh tế chung. Các quy luật kinh tế đặc thù là các quy luật kinh tế chỉ tồn tại trong một phương  thức  sản  xuất  nhất  định.  Các  quy  luật  kinh  tế  chung  tồn  tại  trong  một  số phương thức sản xuất.  

Nghiên cứu quy luật kinh tế có ý nghĩa quan trọng bởi vì các hiện tượng và quá trình kinh tế đều chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế. Quy luật kinh tế là cơ sở của chính sách kinh tế. Chính sách kinh tế là sự vận dụng các quy luật kinh tế và  các  quy  luật  khác  vào  hoạt  động  kinh  tế.  Nó  chỉ  đi  vào  cuộc sống,  mang  lại hiệu quả kinh tế cao khi nó phù hợp với yêu cầu của quy luật kinh tế, và đáp ứng được  lợi  ích  kinh  tế  của  con  người.  Không  hiểu  biết,  vận  dụng  sai  hoặc  coi thường quy luật kinh tế sẽ không tránh khỏi bệnh chủ quan, duy ý chí, chính sách kinh tế sẽ không đi vào cuộc sống, thậm chí còn gây hậu quả khó lường.