CHUYÊN đề ĐÁNH GIÁ TRONG GDMNBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.46 KB, 38 trang ) Chuyên đề: TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC KIỂM TRA VÀ ĐÁNH GIÁ B/ Nội dung chuyên đề Phần 1: Những vấn đề cơ bản về đánh giá trong giáo dục mầm non và đánh giá sự phát triển của trẻ. I. Những vấn đề cơ bản về đánh giá trong giáo dục mầm non 1. Khái niệm kiểm tra, đo lường, đánh giá và định giá trị Đánh giá trong giáo dục là một vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn vì nó mang tính tổng hợp nhiều yếu tố. Vì vậy để đánh giá chính xác người giáo viên phải tiến hành các công việc như: Kiểm tra, đo lường, đánh giá và định giá trị. a. Kiểm tra - Trong Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý định nghĩa kiểm tra là xem xét thực chất, thực tế. - Theo Bửu Kế, kiểm tra là tra xét, xem xét, kiểm tra là soát xét lại công việc, kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét. - Còn theo Trần Bá Hoành, kiểm tra là cung cấp những dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá. Như vậy, các nhà khoa học và các nhà giáo dục đều cho rằng kiểm tra với nghĩa là nhằm thu thập số liệu, chứng cứ, xem xét, soát xét lại công việc thực tế để đánh giá và nhận xét. b. Đo lường Đo lường là sự xác định số lượng hay đưa một giá trị bằng số cho việc làm của cá nhân, đó là cách lượng giá, là việc gán các con số hoặc thứ bậc theo một hệ thống quy tắc nào đó. Đo lường Là quá trình thu thập số liệu về mức độ mà một cá nhân đạt được trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Ví dụ: Đo lường khả năng cảm thụ âm nhạc của trẻ em Đo lường luôn có quá trình đối chiếu điểm số của một cá nhân với tiêu chí hoặc với một chuẩn xác định. Hoặc cách đối chiếu thứ hai là đối chiếu với tiêu chí. Đo lường trả lời cho câu hỏi: bao nhiêu? * Tính chất đặc thù của đo lường 2 • Liên quan trực tiếp đến con người. • Các phép đo lường chủ yếu thực hiện một cách gián tiếp. • Đo lường trong giáo dục bao gồm cả định tính và định lượng. • Có những sai số nhất định trong các phép đo. c. Đánh giá Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, đánh giá là nhận xét bình phẩm về giá trị. Đánh giá trong giáo dục, theo Dương Thiệu Tống là quá trình thu thập và xử lý kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động trong giáo dục tiếp theo. Xét về bản chất: Đánh giá là những phán xét, những nhận định về giá trị của đối tượng đánh giá của chủ thể đánh giá dựa trên thông tin về đối tượng đánh giá. Xét về quá trình: + Thu thập thông tin, chứng cứ về đối tượng đánh giá + Đối chiếu với chuẩn, tiêu chí + Phán xét, nhận định về giá trị và đưa ra quyết định Như vậy đánh giá trong giáo dục là quá trình hình thành những nhận định, phoán đoán về hiệu quả và chất lượng giáo dục dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu giáo dục nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Các loại đánh giá: - Đánh giá đầu vào: Đánh giá có thể thực hiện đầu quá trình tác động giáo dục để giúp tìm hiểu trình độ hiện tại của đối tượng, từ đó tìm cách tiếp cận về nội dung và phương pháp quản lý và giáo dục cho phù hợp. - Đánh giá chẩn đoán: Dựa trên những dữ kiện nhất định, đánh giá chẩn đoán đưa ra những nhận xét về đối tượng nhằm tìm ra những khó khăn của đối tượng, 3 những nguyên nhân dẫn đến hành vi này hay hành vi khác để từ đó tìm biện pháp khắc phục hoặc dự báo về sự phát triển tiếp theo. - Đánh giá tiến trình: Quá trình dạy học và giáo dục cũng chính là quá trình tạo những thông tin phản hồi liên tục, giúp người học và người dạy điều chỉnh kịp thời quá trình dạy và học. - Đánh giá tổng kết: Thường được thực hiện vào cuối thời kỳ giảng dạy - giáo dục để tổng kết chặng đường đã qua. Cách đánh giá này nhằm xác định mức độ đạt được mục tiêu của khoá học, chương trình học hay môn học. Nhờ đánh giá này, người ta có thể nhận định về sự phù hợp và hiệu quả của quá trình giáo dục. d. Định giá trị Định giá trị là sự giải thích có tính chất tổng kết các dữ liệu có được từ các bài tập hay những công cụ đánh giá khác. Định giá trị là việc định ra giá trị của bản thân đối tượng được đánh giá trong mối tương quan với các đối tượng khác hay môi trường xung quanh. Dựa vào sự đánh giá, người ta định giá trị kết quả đánh giá để phán đoán và đề xuất các quyết định giáo dục. * Mối quan hệ giữa kiểm tra, đo lường, đánh giá và định giá trị Kiểm tra, đo lường, đánh giá và định giá trị có mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau. Đánh giá là quá trình phán đoán, muốn vậy người ta phải kiểm tra, đo lường sự vật và thuộc tính của nó dựa trên các quan điểm về giá trị. Chính vì vậy khi nói đến đánh giá có nghĩa là chúng ta nói đến việc kiểm tra và đo đạc các giá trị của sự vật. Giá trị là cơ sở để xây dựng thước đo và đánh giá, giá trị là cái để xác định kết quả đạt được của quá trình giáo dục. 2. Vị trí và vai trò của đánh giá trong giáo dục mầm non a. Đánh giá là một bộ phận quan trọng của quản lý giáo dục và công cụ của các nhà quản lý giáo dục. Nói đến quản lý giáo dục là nói đến quá trình tổ chức, chỉ đạo và kiểm soát quá trình giáo dục và đánh giá là một trong những phương thức của kiểm soát. Hơn nữa bất cứ khâu nào của hoạt động quản lý giáo dục cũng phải có 4 đánh giá bởi đánh giá giúp quản lý chất lượng giáo dục, làm cho giáo dục đạt được mục tiêu đề ra. Chính vì vậy đánh giá là khâu tất yếu và quan trọng nhất của quản lý. Mặt khác, bản chất của đánh giá là xác định xem mục tiêu của chương trình giáo dục có đạt được hay không và nếu đạt được thì ở mức độ nào. Các thông tin khai thác được từ kết quả kiểm tra - đánh giá sẽ rất hữu ích cho việc điều chỉnh nội dung, cách thức và điều kiện đạt được mục tiêu. Như vậy, đánh giá giúp các nhà quản lý có những thay đổi cần thiết trong việc tổ chức quá trình giáo dục như điều chỉnh chương trình đào tạo, nội dung đào tạo, hình thức tổ chức.... Nếu xem xét chất lượng của quá trình giáo dục là sự "trùng khớp với mục tiêu" thì kiểm tra - đánh giá là cách tốt nhất để đánh giá chất lượng quy trình đào tạo, giáo dục. Đánh giá và sử dụng kết quả đánh giá sẽ giúp nhà quản lý đưa ra các quyết định quản lý cần thiết. Như vậy, đánh giá sẽ giúp các nhà quản lý giám sát được quá trình giáo dục có đạt mục tiêu hay không. Chỉ có đánh giá, các nhà quản lý giáo dục mới có được thông tin phản hồi, từ đó kịp thời phát hiện ra các vấn đề để giải quyết chúng. Có thể nói đánh giá là một nhân tố đảm bảo cho quản lý giáo dục có tính khoa học và hoàn thiện. Đánh giá là một biện pháp quan trọng nhằm đi sâu cải cách giáo dục. Mọi cải cách giáo dục đều phải lấy kết quả đánh giá làm cơ sở. Tuy nhiên đánh giá cũng là một nội dung cần cải cách nếu vì nó mà quá trình giáo dục trở nên trò trệ và lạc hậu. Thậm chí, cải cách đánh giá cần phải coi là khâu đột phá trong cải cách giáo dục. Như vậy, đánh giá vừa là cơ sở vừa là đối tượng của cải cách giáo dục, và nó đảm bảo cho cải cách giáo dục đi đúng quỹ đạo phát triển. Ngoài ra, đánh giá trong giáo dục còn là một phương thức quan trọng để quản lý con người trong tổ chức nhà trường. b. Đánh giá là công cụ hành nghề quan trọng của người giáo viên mầm non Giáo viên là người trực tiếp tạo ra sản phẩm giáo dục. Muốn xác định sản phẩm của mình như thế nào thì người giáo viên phải tiến hành đánh giá. Kết quả đánh giá trẻ là nguồn thông tin vô cùng quan trọng để có những điều chỉnh kịp 5 thời về nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục. Tuy nhiên các nhà giáo dục nói chung và giáo viên nói riêng cần thận trọng trong đánh giá bởi không có một kĩ thuật đánh giá hay hoạt động kiểm tra riêng lẻ nào có thể là phương tiện cho ra kết quả đánh giá hữu hiệu. Để có kết quả đánh giá khách quan, người ta phải tính đến nhiều yếu tố như công cụ đánh giá, mục đích đánh giá, cách thu thập và xử lý thông tin, điều kiện đánh giá.... Để đánh giá thực sự trở thành công cụ sư phạm, giáo viên cần xác định mục đích đánh giá rõ ràng vì điều này ảnh hưởng chính đến các hoạt động đánh giá và giải thích bất cứ kết quả đánh giá nào. Giáo viên thường có ba mục đích chính khi đánh giá trẻ: Hính thành những quyết định cụ thể về một cá nhân trẻ hay một nhóm trẻ; Lập kế hoạch chăm sóc - giáo dục trẻ tiếp theo cho phù hợp với cá nhân và nhóm trẻ; Và điều chỉnh hành vi của trẻ. Giáo viên sử dụng kết quả đánh giá để đưa ra quyết định cụ thể bao gồm việc xác định điểm mạnh hay điểm yếu của trẻ, lập thành nhóm trẻ để chăm sóc - giáo dục, phân loại các mức độ việc làm của trẻ,... Quá trình đánh giá cung cấp cho trẻ thông tin về các mức độ việc làm mà trẻ cần phải hoàn thành trong lớp. Đánh giá trở thành cầu nối quan trọng trong nuôi dạy khi giáo viên cung cấp cho trẻ và phụ huynh thông tin về kết quả đánh giá của trẻ. Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng đánh giá cho việc quản lí lớp học và kết quả đánh giá còn cung cấp cho cha mẹ và những người làm công tác giáo dục những thông tin về công việc của nhà trường. 3. Chức năng của đánh giá trong giáo dục mầm non a. Chức năng định hướng Đánh giá trong giáo dục có nhiệm vụ chỉ ra được bức tranh thực trạng của giáo dục và sự phát triển của cá nhân trong nền giáo dục ấy. Từ thực trạng, người ta mới tính đến các bước đi tiếp theo phải như thế nào. Chức năng định hướng của đánh giá tồn tại khách quan, không bị ý chí cá nhân của con người cho phối. Đánh giá trong giáo dục có khả năng tác động và bảo đảm tính thông suốt cho quá trình thực hiện các mục tiêu, chính sách giáo 6 dục. Đánh giá trong giáo dục có khả năng chỉ ra phương hướng về mục tiêu, tôn chỉ giúp các trường, giáo viên lập kế hoạch giáo dục, đồng thời chỉ ra cho mỗi cá nhân ở bất cứ cương vị nào phương hướng phấn đấu và phát triển. b. Chức năng kích thích, tạo động lực Đánh giá là một phần không thể thiếu của mọi hoạt động xã hội. Mỗi cá nhân, khi thực hiện một công việc nào đó bao giờ cũng có nhu cầu được đánh giá, chính vì vậy đánh giá sẽ mang lại sự thoả mãn nhu cầu cho cá nhân, kích thích cá nhân tiếp tục tìm sự thoả mãn trong đánh giá khi hoàn thành nhiệm vụ nào đó. Việc đánh giá có kèm theo hình thức củng cố luôn có ý nghĩa kích thích hành vi, tạo động lực cho sự phát triển tiếp theo. Đánh giá trong giáo dục có thể kích thích tinh thần học hỏi và vươn lên không ngừng của những đối tượng được đánh giá, từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh chính thức hoặc phi chính thức. c. Chức năng sàng lọc, lựa chọn Quá trình giáo dục muốn đạt kết quả cần mang tính cá biệt. Để thực hiện tốt vai trò cá biệt hoá trong giáo dục, cần có sự đánh giá để sàng lọc và lựa chọn các cá nhân theo mục tiêu giáo dục phù hợp. Đánh giá cần phải dựa vào những mục tiêu của nhà giáo dục và các chuẩn đánh giá phải được xác định một cách khoa học, khi đó đánh giá mới thực hiện tốt chức năng sàng lọc và lựa chọn. d. Chức năng cải tiến, dự báo Kết quả đánh giá từ nhiều góc độ và trong nhiều giai đoạn khác nhau có thể cung cấp những dự báo về xu thế phát triển của giáo dục. Và cũng nhờ có đánh giá mới phát hiện được những vấn đề tồn tại trong giáo dục, từ đó lựa chọn và triển khai các biện pháp thích hợp để bù đắp những thiếu hụt hoặc loại bỏ những sai sót không đáng có. 4. Những yêu cầu đối với việc đánh giá trong giáo dục mầm non a. Tính quy chuẩn Đánh giá dù theo bất kì hình thức nào không những đảm bảo mục tiêu phát triển hoạt động giáo dục, còn phải đảm bảo lợi ích cho người được đánh giá. Muốn vậy đánh giá phải dựa vào những chuẩn nhất định. Chuẩn đánh giá có 7 thể được xây dựng theo những cấp độ khác nhau tuỳ vào mục đích đánh giá. Dù ở cấp độ nào, các chuẩn này phải được công bố công khai đối với người được đánh giá. Những quy định này phải cung cấp cho đối tượng được đánh giá đầy đủ, chi tiết, rõ ràng từ mục tiêu đến hình thức đánh giá cũng như cách tổ chức đánh giá. b. Tính khách quan Tính khách quan là yêu cầu tất yếu của mọi hình thức đánh giá. Trước hết, đánh giá phải mô tả đúng hiện trạng giáo dục để tìm nguyên nhân và giải pháp phù hợp. Đánh giá khách quan mới có thể kích thích, tạo động lực cho người được đánh giá và cho những kết quả đáng tin cậy làm cơ sở cho các quyết định quản lý. Nếu đánh giá thiếu khách quan, kết quả đánh giá không có ý nghĩa đối với giáo dục, nó có thể làm cho giáo dục đi chệch hướng, nó triệt tiêu động lực phát triển, từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ sự phát triển xã hội. c. Tính xác nhận và phát triển Đánh giá phải chỉ ra những kết quả đáng tin cậy khẳng định hiện trạng của đối tượng so với mục tiêu, tìm ra nguyên nhân của các sai lệch và có biện pháp khắc phục. Nếu đánh giá đảm bảo tính quy chuẩn và tính khách quan thì kết quả đánh giá ấy sẽ xác nhận được mức độ phát triển của cá nhân người được đánh giá. Tuy nhiên tính xác nhận của kết quả đánh giá chỉ tương ứng với thời điểm đánh giá. Đánh giá trong giáo dục phải mang tính phát triển. Đánh giá không chỉ giúp người được đánh giá nhận ra hiện trạng cái mình đạt tới mà còn giúp hình thành con đường phát triển như thế nào, tạo niềm tin, động lực cho người được đánh giá phấn đấu khắc phục những điểm chưa phù hợp để đạt tới trình độ cao hơn. Đánh giá trong giáo dục là một vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn vì nó mang tính tổng hợp nhiều yếu tố. Vì vậy trong quá trình đánh giá phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản như trên, ngoài ra phải đảm bảo các yêu cầu như: Công cụ đánh giá phải đảm bảo mức độ chính xác nhất định; Đánh giá phải toàn diện, có 8 hệ thống và công khai và đánh giá phải đảm bảo tính thuận tiện của việc sử dụng công cụ đánh giá. 5. Vai trò của mục tiêu giáo dục đối với đánh giá trong giáo dục mầm non Mục tiêu là sự mô tả những gì sẽ đạt được sau khi học xong một khoá học, hay chương trình đào tạo, sau một môn học, hay một bài học. Mục tiêu của một khoá học ha chương trình mang tính quy chế, nó xác định rõ những khả năng có thể đạt sau một bậc học, cấp học do các chuyên gia giáo dục của các chương trình định ra và có Hội đồng thẩm định đánh giá. Mục tiêu này mang tính khái quát, nó chỉ ra những công việc mà tất cả phải hoàn thành chứ không phải từng cá nhân. Những mục tiêu của năm học bao hàm những điều đã học của cả năm học - những điều được coi là những điểm vượt qua bắt buộc để từng bước làm chủ các mục tiêu mang tính quy chế. Mục tiêu của năm học cũng được các chuyên gia viết chương trình định ra và do Hội đồng nghiệm thu đánh giá. Mục tiêu của nội dung giáo dục được xác định tuỳ thuộc mục tiêu năm học có tính đến mục tiêu tổng quan cuối cùng, có nghĩa là những kĩ năng thực hiện trong một tình huống phức hợp về mặt thông tin và đòi hỏi tổng quan những điều đã học trước đó. Mục tiêu của nội dung giáo dục xuất phát từ mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non. Mục tiêu của nội dung giáo dục được xác định dưới hình thức các chủ đề, khái niệm hay hành vi khái quát. Mục tiêu của bài học là những mục tiêu đặc thù có thể được sắp xếp theo hệ thống do giáo viên định ra và đánh giá. Các mục tiêu ở cấp độ bài học xác định mặt kiến thức, kĩ năng và thái độ. Như vậy, mục tiêu giáo dục được phân chia thành mục tiêu chương trình học, đơn vị kiến thức và các mục tiêu cụ thể của bài. Việc xác định mục tiêu đúng đắn, phù hợp sẽ là cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu quả giáo dục. Giáo viên sẽ hoàn toàn làm việc trong sự mơ hồ nếu không biết thực sự cô muốn trẻ làm được gì sau khi thực hiện xong một chương trình, một chủ đề hay một hoạt động. Mục tiêu là cơ sở quan trọng của đánh giá hiệu quả giáo dục. 9 Không có mục tiêu xác định, không có bất kỳ cơ sở nào để lựa chọn nội dung, phương pháp giáo dục và càng không thể đánh giá được hiệu quả, giá trị của một bài dạy, một khoá dạy hay cả một chương trình. Mục tiêu giáo dục cung cấp những vật chứng và tiêu chí để đánh giá, đồng thời có tác dụng hướng dẫn hành động sư phạm, giúp giáo viên có thể tự xác định được vị trí so với mục đích theo đuổi. Ngoài ra mục tiêu còn được sử dụng làm tiêu chí trong việc lựa chọn các phương pháp, kĩ thuật, phương tiện và công cụ để cải tiến hoạt động giáo dục. 6. Nội dung và phương pháp đánh giá trong giáo dục mầm non 6.1. Những nội dung đánh giá cơ bản trong giáo dục mầm non Trong giáo dục mầm non, đánh giá được thực hiện trên nhiều mặt, với nhiều nội dung khác nhau: - Đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục mầm non; - Đánh giá công tác tổ chức quản lý giáo dục mầm non; - Đánh giá chương trình giáo dục mầm non; - Đánh giá hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non; - Đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non và sự sẵn sàng đi học của trẻ 5 - 6 tuổi. Trong các nội dung đánh giá trên, đánh giá sự phát triển của trẻ được coi là trọng tâm bởi vì mục tiêu cao nhất của giáo dục là vì sự phát triển của trẻ. Sự phát triển của trẻ là thước đo của mỗi nền giáo dục. 6.2. Một số phương pháp đánh giá trong giáo dục mầm non a. Phương pháp đánh giá qua quan sát Trong đánh giá giáo dục, phương pháp quan sát hành vi, việc làm, hiện trạng của đối tượng đánh giá giữ vai trò quan trọng. Người ta thường sử dụng phương pháp này khi đánh giá sự phát triển tâm lí của trẻ và hoạt động chăm sóc - giáo dục của giáo viên. * Đánh giá trẻ qua quan sát Khi sử dụng phương pháp quan sát trong đánh giá tâm lí trẻ em, người đánh giá phải ghi lại những cử chỉ, lời nói, hành vi mà trẻ tự thực hiện trong dời 10 sống hằng ngày và từ đó phân tích, diễn giải, suy luận theo tiêu chí nào đó để phán xét về sự phát triển tâm lí của trẻ. Phương pháp quan sát cho phép người đánh giá thu thập những sự kiện về hành vi tự nhiên của trẻ, hành vi sống, thật và điều kiện quan sát trẻ như một cá nhân hoàn chỉnh, trong mối liên quan với những hành động khác, với những lời nói, cử chỉ, điệu bộ. Ngoài ra quan sát giúp đánh giá được mối quan hệ của trẻ với những trẻ khác, để từ đó hiểu được những nguyên nhân gây nên một hành vi nào đó, hiểu được mối quan hệ của trẻ với nhà giáo dục để từ đó đánh giá đúng những tác động của nhà giáo dục lên trẻ. Để phương pháp quan sát đạt hiệu quả trong đánh giá trẻ, đòi hỏi người đánh giá biết cách quan sát, phát hiện, ghi chép đầy đủ để có tư liệu khách quan, chính xác nhất về đối tượng đánh giá. Khi quan sát trẻ, người đánh giá nên xây dựng phiếu quan sát để quan sát có tính hướng đích cao hơn. * Đánh giá hoạt động chăm sóc - giáo dục của giáo viên qua quan sát. Người ta có thể quan sát xem người giáo viên tiến hành các hoạt động chăm sóc - giáo dục trẻ trong ngày như thế nào, hoặc quan sát cách giáo viên tiến hành một giờ học cho trẻ ra sao. Dự giờ là một hoạt động đặc trưng của các nhà quản lí đối với đội ngũ của mình. Dự giờ chính là quan sát để đánh giá hiệu quả của giờ dạy đó. b. Phương pháp đánh giá qua trắc nghiệm, bài tập Trắc nghiệm theo nghĩa rộng nhất là một phép lượng giá cụ thể mức độ khả năng thể hiện hành vi trong lĩnh vực nào đó của một người cụ thể nào đó. Nói cách khác, trắc nghiệm là những bài tập tiêu chuẩn, ngắn gọn soạn ra để xác định đặc điểm hay mức độ phát triển của đối tượng. Phương pháp trắc nghiệm trẻ em phân làm ba loại lớn: loại trình diễn; loại nói và loại sản phẩm vẽ tranh. - Loại trình diễn giúp đánh giá các thao tác, các hành vi, các phản ứng vo thức, các kĩ năng thực hành và cả một số kĩ năng về nhận thức. 11 - Loại nói có tác dụng tốt để đánh giá khả năng đáp ứng các câu hỏi được nêu một cách tự phát trong một tình huống cần kiểm tra. - Loại tranh vẽ có tác dụng dánh giá khả năng biểu đạt suy nghĩ, cảm xúc,... Thông qua sản phẩm người ta có thể đánh giá được trạng thái cảm xúc, khả năng tư duy, các kĩ năng đặc thù,... c. Phương pháp đánh giá qua sản phẩm * Sản phẩm hoạt động của trẻ Sản phẩm hoạt động của trẻ đó là những tranh vẽ, bài thơ, câu chuyện, những công trình,... Mỗi loại sản phẩm có một giá trị riêng đối với nhà nghiên cứu. Sản phẩm của hoạt động chỉ cung cấp những tài liệu đủ tin cậy trong trường hợp việc nghiên cứu các sản phẩm đó được kết hợp với quan sát trong quá trình tạo ra chúng. * Sản phẩm hoạt động của cơ sở giáo dục mầm non Sản phẩm hoạt động của nhà trường là đồ dùng, đồ chơi do giáo viên làm; bài trí lớp học; hệ thống hồ sơ sổ sách, giáo án.... Đó là một trong những minh chứng rất quan trọng cho việc đánh giá cơ sở giáo dục mầm non. Căn cứ vào sản phẩm, người đánh giá có thể xác định cơ sở mầm non ấy hoạt động có mang tính hệ thống, ổn định, sáng tạo như thế nào. d. Phương pháp đánh giá qua tiểu sử cá nhân Người ta có thể sử dụng "tiểu sử cá nhân" để đánh giá hiện trạng của một đứa trẻ. Phương pháp đánh giá qua tiểu sử cá nhân thực chất là phân tích tiến trình sinh trưởng và phát triển của trẻ em để đưa ra nhận định nào đó về hiện trạng của trẻ. Phương pháp này cung cấp cho người đánh giá những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến tiến trình sinh trưởng và phát triển của trẻ, để từ đó người đánh giá xác định được nguyên nhân của trình độ hiện tại mà trẻ đạt được, và dự đoán xu thế phát triển tiếp theo. e. Phương pháp đánh giá qua đàm thoại, phỏng vấn Đàm thoại được áp dụng trong các trường hợp cần tìm hiểu về tri thức và biểu tượng của trẻ, ý kiến của người được đánh giá về vấn đề nào đó. 12 Phỏng vấn được sử dụng trong đánh giá giáo viên hoặc cán bộ quản lí để tìm hiểu thêm các thông tin khác nhau về chính các cá nhân đó hoặc các hoạt động liên quan. g. Phương pháp đánh giá qua khảo sát, điều tra Khảo sát, điều tra là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó. Phương pháp này thường dùng để thu thập ý kiến đánh giá về chất lượng cơ sở giáo dục mầm non, về cơ sở vật chất cũng như hoạt động giáo dục, về đội ngũ,... h. Phương pháp đánh giá qua hồ sơ tài liệu Hồ sơ tài liệu cũng là những minh chứng về hoạt động của nhà trường, thông qua hồ sơ tài liệu, người đánh giá có thể phân tích và đánh giá hoạt động của nhà trường trong quá khứ và quá trình phát triển đến hiện tại. II. Đánh giá sự phát triển của trẻ 1. Sự phát triển tâm lí của trẻ Bản chất của sự phát triển tâm lí trẻ em không phải là sự tăng hoặc giảm về số lượng, mà là một quá trình biến đổi về chất lượng tâm lí. Sự thay đổi về chất lượng các chức năng tâm lí dẫn đến sự thay đổi về chất cà đưa đến sự hình thành cái mới một cách nhảy vọt. Sự phát triển tâm lí gắn liền với sự xuất hiện những đặc điểm mới về chất - những cấu tạo tâm lí mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau, có sự cải biến về chất của các quá trình tâm lí và toàn bộ nhân cách trẻ. Trong quá trình sống, đứa trẻ không chỉ thích nghi với thế giới khách quan mà còn lĩnh hội thế giới đó. Kết quả của quá trình lĩnh hội là sự phát triển của đứa trẻ, là sự hình thành những năng lực cho mình. Như vậy, phát triển tâm lí là kết quả hoạt động của chính đứa trẻ với những đối tượng do loài người tạo ra. 13 Những đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trường. Nó chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội khi có vai trò trung gian của người lớn. Nhờ sự tiếp xúc với người lớn và hướng dẫn của người lớn mà những quá trình nhận thức, kĩ năng, kĩ xảo và cả những nhu cầu xã hội của trẻ được hình thành. Người lớn giúp trẻ nắm được ngôn ngữ, phương thức hoạt động,... Những biến đổi về chất trong tâm lí sẽ đưa đứa trẻ từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác. Tóm lại, sự phát triển tâm lí của trẻ đầy biến động và diễn ra cực kì nhanh chóng. Đó là một quá trình không phẳng lặng, mà có khủng hoảng và đột biến. Chính hoạt động của đứa trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớn làm cho tâm lí của nó được hình thành và phát triển. 2. Ý nghĩa của việc đánh giá trẻ Đánh giá sự phát trỉên của trẻ là quá trình thu thập thông tin về trẻ một cách có hệ thống, phân tích và đối chiếu với mục tiêu giáo dục mầm non làm cơ sở điều chỉnh kế hoạch, biện pháp chăm sóc - giáo dục nhằm đảm bảo sự phát triển của trẻ phù hợp với mục tiêu giáo dục. Đánh giá trẻ là công việc có ý nghĩa quan trọng, không thể thiếu trong quá trình chăm sóc - giáo dục trẻ. - Cung cấp cho giáo viên những thông tin về sự tiến bộ của trẻ. Những thông tin như vậy tạo điều kiện cho giáo viên biết được hiệu quả của các hoạt động, mức độ kết quả đạt được theo dự kiến, đặc biệt những thông tin đó có thể làm sáng tỏ những vấn đề nhất định đòi hỏi phải có kế hoạch bổ sung. - Giúp giáo viên có biện pháp tác động phù hợp, kích thích trẻ tham gia, thực hiện tốt các hoạt động của mình và học được những kiến thức, kĩ năng theo mục đích đặt ra của hoạt động. - Tạo điều kiện cho giáo viên ghi chép và lưu giữ các thông tin về sự tiến bộ của trẻ trong một thời gian dài. Đó là cơ sở để đưa ra các quyết định về nhu cầu giáo dục cá nhân đứa trẻ, căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch giáo dục tiếp theo. 14 - Những thông tin thu thập được còn sử dụng để trao đổi, đưa ra những quyết định phối hợp trong giáo dục trẻ với cha mẹ trẻ. - Đánh giá trẻ còn cho ta biết về mức độ phát triển toàn diện của trẻ, khả năng sẵn sàng cho giai đoạn học tập tiếp theo, những khó khăn cụ thể về sự phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội và thẩm mĩ mức độ sẵn sàng học tập là gì và có những đề xuất đối với lớp hoặc cơ sở giáo dục sẽ tiếp nhận trẻ tiếp theo. - Làm cơ sở để trao đổi, đưa ra những quyết định phối hợp trong giáo dục trẻ với cha mẹ trẻ, với giáo viên nhóm/lớp hoặc cơ sở giáo dục khác nơi sẽ tiếp nhận trẻ tiếp theo. - Làm cơ sở đề xuất đối với các cấp quản lý giáo dục trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc - giáo dục trẻ của nhóm/ lớp/ trường/ địa phương. 3. Nguyên tắc đánh giá sự phát triển tâm lí trẻ Khi đánh giá sự phát triển tâm lí trẻ, người đánh giá cần thận trọng trong việc đưa ra quyết định về kết quả đánh giá. Sự phát triển tâm lí nói chung và một mặt nào đó nói riêng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố và sự biểu hiện của một hành vi nào đó ở trẻ có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, vì vậy, trong đánh giá, người nghiên cứu cần đảm bảo các nguyên tắc dưới đây: a. Đánh giá trong mối quan hệ, liên hệ Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau và ảnh hưởng đến nhau, khi đánh giá một mặt tăm lí nào đó, người đánh giá phải tính đến các yếu tố liên quan. Sự phát triển của một yếu tố tâm lí nào đó phụ thuộc vào những hiện tượng hay lĩnh vực liên quan khác, đó có thể là môi trường, sự phát triển thể chất, nhận thức, xã hội và cảm xúc. Tiến bộ trong phát triển trên một lĩnh vực này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của lĩnh vực khác. Khi xuất hiện những rối loạn trên một phương diện này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của lĩnh vực khác. b. Đánh giá trẻ trong môi trường gần với môi trường sống của trẻ 15 Khi đánh giá trẻ, người đánh giá cần đảm bảo môi trường gần với cuộc sống bình thường của trẻ. Sự phát triển và học tập diễn ra liên tục như kết quả của quá trình tương tác của trẻ với môi trường. Chỉ đánh giá khi trẻ đã sẵn sàng, không tạo áp lực cho trẻ khi thực hiện bài kiểm tra. Có như vậy, kết quả đánh giá mới đảm bảo tính khách quan và chính xác. c. Đánh giá trẻ trong hoạt động Tâm lí chỉ được hình thành qua hoạt động và bằng chính hoạt động. Bằng hoạt động, các đặc điểm, phẩm chất tâm lí được hình thành, phát triển và những nét tâm lí đó sẽ bộc lộ ra bên ngoài qua chính hoạt động. Muốn đánh giá trẻ phải đưa trẻ vào các hoạt động phù hợp vì trẻ chỉ thực sự bộc lộ mình trong những điều kiện hoàn cảnh thích hợp. d. Đánh giá trong sự phát triển Mỗi đứa trẻ là một thực thể đang phát triển. Đánh giá cần nhìn nhận đứa trẻ theo xu hướng phát triển. Kết quả đánh giá chỉ có ý nghĩa tại thời điểm đánh giá, nó không quy định tương lai của đứa trẻ ấy. Người đánh giá phải dựa vào kết quả đánh giá hiện tại để tìm hiểu nguyên nhân và phán đoán sự phát triển tiếp theo. Trong đánh giá, người ta thường nghiên cứu hồ sơ phát triển của trẻ, xem quá trình phát triển của trẻ như thế nào, có những gì liên quan chặt chẽ đến trình độ phát triển hiện tại hay không từ đó phán đoán chiều hướng phát triển và có những can thiệp giáo dục kịp thời. 4. Nội dung đánh giá sự phát triển của trẻ. 4.1. Các mốc phát triển kì vọng cho mỗi giai đoạn lứa tuổi của trẻ Đánh giá sự phát triển của trẻ phải thực hiện theo từng độ tuổi và từng giai đoạn phát triển. Việc đánh giá phải dựa trên những mốc phát triển kì vọng tương ứng với độ tuổi và giai đoạn phát ở trẻ. Mốc phát triển kì vọng là trình độ phát triển mà đứa trẻ cần đạt tới trong giới hạn độ tuổi của mình, là các tiêu chí cụ thể hoá các kênh phát triển của trẻ. 16 Đánh giá sự phát triển của trẻ theo từng độ tuổi là một công tác quan trọng, bởi nó cho giáo viên cũng như nhà quản lí nhìn rõ diễn biến phát triển của trẻ, đồng thời kết quả này còn cho thấy được những trường hợp cụ thể nào còn chậm so với độ tuổi trong sự phát triển, cũng như các rối loạn phát triển của từng trường hợp cá biệt. Kết quả đánh giá sự phát triển cũng nói lên được tác dụng của quá trình tương tác giáo dục cũng như hiệu quả giáo dục của giáo viên trên trẻ. Như vậy, để đánh giá mức độ phát triển tâm lí của trẻ, người ta cần phải đưa ra các mốc phát triển của mỗi giai đoạn lứa tuổi như là một thước đo đặc thù. Mốc phát triển này không mang tính bất biến, nocs thể thay đổi theo sự phát triển của trình độ văn minh xã hội. Hơn nữa, mốc phát triển này được quy định bởi mỗi nền giáo dục của mỗi quốc gia hay dân tộc. Bên cạnh những đặc tính riêng của mốc phát triển, chúng ta có một số mốc chung cho đại đa số trẻ trong độ tuổi và mốc này không tính đến sự khác biệt văn hoá. Mốc phát triển của trẻ trong 8 năm đầu đời và điều kiện để trẻ có thể đạt được các mốc phát triển đó: Bảng 1: Mốc phát triển của trẻ trong 8 năm đầu Độ tuổi Mốc phát triển Điều kiện thực hiện Sơ sinh - (Trẻ có thể làm được gì?) (Trẻ cần những gì?) 3 Trẻ bắt đầu cười, nhìn theo người hoặc vật, Cần được bảo vệ khỏi nguy hiểm tháng tuổi thích các gương mặt và những màu sắc tươi thể chất, cần chế độ dinh dưỡng sáng, với và khám phá tay và chân, nâng và chăm sóc sức khoẻ hợp lí; đầu lên, ngoảnh về phía phát ra âm thanh; khuyến khích giao tiếp bằng ngôn khóc nhưng thường nín khi được bế. 17 4-6 tháng tuổi Trẻ cười nhiều hơn, thích theo cha mẹ và ngữ phù hợp, cần được đáp lại và anh chị, lặp lại các hành động với những kết cần sự chăm sóc nhạy cảm. quả thú vị, chăm chú lắng nghe, đáp lại khi được trò chuyện, cười, nói ríu rít, bắt chước các âm thanh, khám phá bàn tay và chân, cho mọi thứ vào miệng, ngồi khi được người lớn dựng dậy, lẫy, nhún nhảy, cầm đồ 7-12 vật bằng cả bàn tay. tháng Trẻ nhớ được các sự kiện đơn giản, nhận tuổi biết bản thân mình, các bộ phận cơ thể, những giọng nói quen thuộc; hiểu được tên mình và những từ thường gặp khác, nói những từ có nghĩa đầu tiên, khám phá, đập và lắc đồ vật, tìm những đồ vật bị giấu, cho đồ đạc vào ngăn chứa, ngồi một mình, bò, bám vào bàn ghế để đứng và đi men; trẻ có 1-2 tuổi thể cảm thấy lạ và sợ người lạ. Trẻ bắt chước các hành động của người lớn, Ngoài những nhu cầu trên, trẻ còn nói và hiểu được từ và ý nghĩa, thích nghe cần được hỗ trợ trong các việc kể chuyện và thích trải nghiệm với các đồ sau: nắm bắt các kĩ năng vận vật khác nhau, bước vững, trèo thang gác, động cơ bắp, ngôn ngữ và tư duy, chạy, có biểu hiện muốn độc lập, nhưng phát triển tính tự lập, học cách thích những người thân hơn, nhận biết sự sở kiềm chế, trẻ cần có những cơ hội hữu các đồ vật, biết kết bạn và giải quyết để chơi và khám phá, chơi với các vấn đề, tự hào về những việc mình làm bé khác. Chăm sóc sức khoẻ và được, thích giúp đỡ người lớn, thích chơi đặc biệt chú ý tới việc tẩy giun. 2-3 tuổi rưỡi trò chơi giả vờ. Trẻ thích học hỏi các kĩ năng mới, học tiếng Thêm vào những nhu cầu như rất nhanh, trẻ luôn vận động, điều khiển trên, trẻ cần có các cơ hội làm được bàn tay và các ngón tay, dễ nổi cáu, những việc: tự lựa chọn, tham gia 18 làm việc độc lập hơn nhưng vẫn bị phụ vào các vở kịch, nghe đọc các thuộc. cuốn sách có độ phức tạp tăng dần, hát, giải những bài toán đố đơn giản. 3 tuổi rưỡi - 5 Ở tuổi này trẻ tập trung được lâu hơn, hay Bên cạnh những nhu cầu như tuổi tỏ ra ngây ngô và thích làm ồn, thích dùng trên, trẻ cần có các cơ hội làm ngôn ngữ gây sốc, nói nhiều, hỏi nhiều, những việc: Phát triển các kĩ năng muốn thử những việc của người lớn, gìn giữ sử dụng cơ bắp, tiếp tục mở mang các tác phẩm nghệ thuật, muốn trải nghiệm các kĩ năng ngôn ngữ bằng cách các kĩ năng thể chất và sự can đảm; thể hiện trò chuyện, nghe đọc sách, hát; cảm xúc với bạn bè, không thích thua bạn, tập hợp tác bằng cách giúp đỡ và đôi khi biết chờ tới lượt mình và biết chia chia sẻ; cần tập các kĩ năng tiền 5-8 tuổi sẻ. tập viết và tiền tập đọc. Trẻ tò mò hơn về mọi người và cách vận Bên cạnh những nhu cầu như hành của mọi vật; trẻ tỏ ra thích thú với trên, trẻ cần có các cơ hội làm những con số, chữ cái, đọc và viết; trẻ trở những việc: Phát triển các kĩ năng nên thích thú hơn với những kết quả cuối đọc và đếm, tham gia vào việc cùng, đồng thời trẻ cũng tự tin hơn với giải quyết vấn đề, tập làm việc những kĩ năng về thể chất, sử dụng từ để nhóm, phát triển ý thức về năng thể hiện cảm xúc và đối phó; thích các hoạt lực cá nhân, tập cách đặt câu hỏi động cho người lớn, trở nên hoà đồng hơn, và quan sát, đạt đến các kĩ năng và tỏ ra hợp tác hơn ngay trong khi chơi. sống cơ bản, tham gia giáo dục nền tảng. 4.2. Chỉ số đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non Tốc độ phát triển của trẻ ở giai đoạn lứa tuổi mầm non diễn ra nhanh chưa từng thấy so với các giai đoạn khác của cuộc đời. Nhưng muốn nhận ra sự phát triển ấy như thế nào để kịp thời điều chỉnh và uốn nắn đòi hỏi những người nuôi dạy trẻ phải được trang bị kiến thức về đánh giá và cách tạo ra những bộ công cụ đánh giá cho mình. Chính vì vậy, mỗi giáo viên mầm non cần tạo ra bộ công cụ "cấp độ lớp học" để đánh giá trẻ. Bộ công cụ này có thể chưa đạt tính khách 19 quan và chuẩn hoá ở giai đoạn đầu, nhưng nếu mỗi giáo viên luôn điều chỉnh bộ công cụ cho ngày càng phù hợp và khẳng định nó bằng chính thực tiễn thì bộ công cụ đó cũng rất nhiều ý nghĩa. Giáo viên cần dựa vào các mốc phát triển của trẻ theo độ tuổi, dựa vào mục tiêu Chương trình giáo dục mầm non ở Việt Nam, và chiểu theo những kì vọng của xã hội, để xây dựng "hình ảnh" mong muốn về trẻ mầm non trước khi chuẩn bị vào lớp một. Trên cơ sở "hình ảnh" hay kết quả kì vọng được xác định, các nhà giáo dục sẽ tìm kiếm các con đường, cách thức giáo dục sao cho phù hợp để đứa trẻ từng bước đạt được mức độ yêu cầu như xã hội mong muốn. "Hình ảnh" trẻ mầm non - kết quả giáo dục mà chúng ta kì vọng được mô tả trên sự tổng hoà của bốn mặt cơ bản: - Trẻ nắm vững các kĩ năng xã hội cơ bản; - Trẻ có khả năng học tập có hiệu quả; - Trẻ có cảm xúc - tình cảm tích cực; - Trẻ khoẻ mạnh và nắm được các kĩ năng vận động. Bốn nội dung cơ bản này được cụ thể hoá bằng các chỉ số, bởi trong mỗi nội dung có vài tập hợp con nằm trong đó. Mỗi chỉ số được thể hiện thông qua một vài biểu hiện như là thước đo của chỉ số đó. Bảng 2: Bảng chỉ số đánh giá sự phát triển của trẻ dưới 3 tuổi Kết quả kì Chỉ số Thước đo vọng 1. Trẻ có 1. Nhận thức 1. Biết được các đặc điểm về bản thân và xác định năng lực cá về bản thân mối liên hệ với người khác 2. Nhận ra các khả năng của bản thân nhân và kĩ 3. Khẳng định bản thân năng xã 4. Phân biệt mình với người khác hội cơ bản 2.Các kĩ năng 5. Thể hiện sự cảm thông 6. Tương tác với người lớn liên cá nhân 7. Quan hệ thân thiện với người lớn quen biết và xã hội 8. Quan hệ thân thiện với bạn cùng tuổi quen biết 9. Tương tác với bạn 10. Kiềm chế sự nóng vội 11. Nhờ sự giúp đỡ để điều chỉnh bản thân 20 3. 2. Trẻ có khả năng học hiệu quả 3.Trẻ cảm có Tự điều 12. Biết cảm ơn khi có sự giúp đỡ 13. Tự làm cho thoải mái chỉnh 14. Duy trì chú ý 4. Ngôn ngữ 15. Hiểu ngôn ngữ 16. Phản hồi đối với ngôn ngữ 17. Nhu cầu, cảm nhận và hứng thú giao tiếp 18. Giao tiếp tương hỗ 5. Nhận thức 19. Trí nhớ 20. Nguyên nhân và kết quả 21. Giải quyết vấn đề 22. Trò chơi mang tính hình tượng 23. Tính tò mò 6. Toán học 24. Tri thức về số 25. Thuộc tính không gian và kích cỡ 26. Thời gian 27. Phân loại và ghép đôi 7. Khả năng 28. Hứng thú với việc đọc viết 29 Nhận diện các kí hiệu đọc viết 8. Cảm xúc 30. Thể hiện cảm xúc trước cái đẹp xúc thẩm mĩ tích cực 4. Trẻ khoẻ 9. 31. Mong muốn (làm ra) cái đẹp Kĩ năng 32. Vận động thô mạnh và có vận động sức 33. Vận động tinh 34. Phối kết hợp hành động mắt và tay các kĩ năng khoẻ, giữ an 35. Biết cách giữ an toan cho cá nhân thể chất và toàn vận động Bảng 3: Bảng chỉ số đánh giá sự phát triển của trẻ từ 3 đến 5 tuổi Kết quả kì Chỉ số Thước đo vọng 1. Trẻ có 1. Nhận thức 1. Biết được các đặc điểm về bản thân 2. Nhận ra các kĩ năng và thành tựu của bản thân năng lực cá về bản thân nhân và kĩ 2. Các kĩ 3. Thể hiện sự cảm thông 4. Xây dựng mối quan hệ hợp tác với người lớn năng liên cá 5. Kết bạn 6. Xây dựng trò chơi hợp tác với các bạn khác 21 năng xã nhân và xã 7. Hoà giải tranh chấp 8. Ý thức về sự đa dạng trong mình và với người hội cơ bản hội khác 3. Tự điều 9. Kiềm chế sự nóng vội 10. Chờ lượt chỉnh hành vi 11. Chia sẻ không gian và vật dụng 4. Ngôn ngữ 12. Hiểu nghĩa 13. Hiểu được các chỉ dẫn có độ phức tạp tăng dần 14. Thể hiện bản thân thông qua ngôn ngữ 15. Sử dụng ngôn ngữ trong đàm thoại 2. Trẻ là 5. Học tập 16. Tò mò và chủ động 17. Cam kết và bền bỉ 6. Hoàn thiện 18. Trí nhớ và kiến thức người học 19. Nguyên nhân và kết quả nhận thức hiệu quả 20. Tham gia vào việc giải quyết vấn đề 21. Trò chơi đóng kịch 7. Toán học 22. Tri thức về số: Hiểu biết về số lượng và đếm 23. Tri thức về số: Thao tác toán học 24. Các hình 25. Thời gian 26. Phân loại 27. Đo lường 28. Trang trí theo mẫu những 3.Trẻ cảm 8. Khả năng 29. Hứng thú với việc đọc viết 30. Có kiến thức về chữ cái và từ đọc viết 31. Có khả năng tập viết 32. Có khái niệm về ấn bản 33. Ý thức về âm vị có 8. Cảm xúc 34. Thể hiện cảm xúc trước cái đẹp xúc thẩm mĩ tích cực 4. Trẻ khoẻ 9. 35. Mong muốn (làm ra) cái đẹp 36. Mong muốn thực hiện điều tốt Kĩ năng 37. Vận động thô mạnh và có vận động, sức 38. Vận động tinh thần 39. Hiểu biết về cách sống khoẻ mạnh các kĩ năng khoẻ, giữ an 40. Biết cách giữ an toan cho cá nhân thể chất và toàn vận động 22 4.3. Đánh giá sự sẵn sàng vào lớp Một Giai đoạn lứa tuổi mầm non có những nhiệm vụ quan trọng là hình thành cho trẻ mọi điều kiện sẵn sàng để trẻ có thể thích nghi nhanh nhất với môi trường phổ thông, để có thể học tập và sinh hoạt trong môi trường mới này. Chuẩn bị sẵn sàng cho trẻ đến trường là chuẩn bị về sức khoẻ thể chất, sự phát triển cảm xúc xã hội, thái độ với việc học, tư duy và kiến thức, ngôn ngữ và giao tiếp... Những yếu tố này vừa là thành quả vừa là điều kiện của hoạt động học tập và giáo dục. Chuẩn bị sẵn sàng vào lớp Một là một quá trình hình thành từ từ dài lâu, và trong những hoàn cảnh nhất định. Quá trình này được chú ý hình thành từ giai đoạn lứa tuổi mầm non nhưng nó tiếp tục hoàn thiện ở giai đoạn sau. Sự sẵn sàng này phát triển ở mức độ nào phụ thuộc sự nỗ lực của mỗi cá nhân, phụ thuộc vào môi trường giáo dục và một phần phụ thuộc vào sức khoẻ. Sự sẵn sàng này không phải là một cái gì đó có thể đánh giá được bằng bài kiểm tra đơn giản nào đó. Bởi sự sẵn sàng tâm lí chứa đựng phạm vi rộng của các hiện tượng tâm lí. Sự sẵn sàng này còn rộng hơn cả kiến thức và kĩ năng mà trẻ thể hiện trong một vài tuần đầu tiên ở lớp Một, hay những khuôn mẫu hành vi mà những đứa trẻ biết vâng lời thực hiện. Sự sẵn sàng vào lớp Một là một quá trình phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh, đòi hỏi một thời gian nhất định cho tới khi nó có thể được đánh giá một cách có ý nghĩa. Sự sẵn sàng vào lớp Một liên quan chặt chẽ đến nhiều yếu tố và góp phần vào hình thành khả năng học tập của trẻ như môi trường, bối cảnh, các nội quy, quy định, sự nắm bắt và hoàn thiện các kĩ năng ở trẻ. Do đó, đánh giá sự sẵn sàng bao hàm một phạm vi rộng, tính tới cả bối cảnh mà trẻ học ở đó, các cơ hội mà trẻ có được để nắm vững các thông tin và kĩ năng, cũng như những thành tựu mà trẻ có thể đạt được. Các nhà nghiên cứu sự phát triển của trẻ trước tuổi đi học tại Hoa Kì đã đề xuất bộ chuẩn phát triển toàn diện cho trẻ 5 tuổi. Chuẩn phát triển này có thể sử dụng làm tiêu chí đánh giá khả năng sẵn sàng vào lớp Một của trẻ 5 tuổi. 23 Bảng 4: Tiêu chí đánh giá sự sẵn sàng đi học của trẻ 5 tuổi Nội dung Tiêu chí Biểu hiện sẵn sàng Sức khoẻ thể Sức khoẻ tốt Vóc dáng phát triển trong kênh điển hình. chất Tham gia tích cực vào các hoạt động hằng ngày Có khả năng kết hợp cử động tay và mắt Thực hiện các kĩ năng vận động như nhảy, nhảy lò cò, chạy. Sử dụng kết hợp cả hai mắt. Thị lực tốt Cầm đồ dùng học tập ở một khoảng cách vừa phải. Mắt chuyển động nhanh hơn đầu để quan sát kịp các vận động. Tập trung thị lực mà không bị lác hay gây ra Thính lực tốt tình trạng quá căng mắt. Tham gia các bài tập nghe. Hướng về phía người nói khi được gọi tên. Nghe và hiểu lời nói của người khác. Biết tự giữ gìn Hiểu và biết cách sử dụng các vật dụng giữ vệ sinh răng gìn vệ sinh răng miệng. miệng Tự đánh răng. Biết được mối quan hệ giữa dinh dưỡng và Hành vi học tập Thái độ học tập sức khoẻ răng miệng. với Hứng thú và tò mò. Kiên trì. Sáng tạo. 24 Sự phát triển Ý thức về bản Tự tin cảm xúc và kĩ thân Thể hiện thế chủ động và sự tự định hướng năng xã hội Khả năng tự kiềm chế. Tuân thủ các quy định và thời gian biểu của lớp học. Sử dụng đồ dùng học tập một cách có mục đích và có ý thức tôn trọng. Thích nghi với sự thay đổi trong nếp sinh Tương tác hoạt hằng ngày. Tương tác với người khác Thoải mái tự nhiên trong tương tác với một hay nhiều bạn khác. Thoải mái tự nhiên trong tương tác với người quen Tham gia vào các nhóm hoạt động trong lớp. bày tỏ sự cảm thông và quan tâm tới người khác. Giải quyết vấn Tìm sự giúp đỡ của người lớn khi cần thiết đề để giải quyết tranh chấp. Phát triển ngôn Nghe Tự giải quyết một số tình huống. Lắng nghe để hiểu ý nghĩa của cuộc nói ngữ và giao tiếp chuyện. Làm theo chỉ dẫn cho một loạt các hành Nói động. Nói rõ ràng và diễn đạt suy nghĩ một cách hiệu quả. Sử dụng vốn từ và ngôn ngữ cho các mục đích khác nhau. 25 |