Với căn bệnh đang ngày càng phổ biến và trẻ hóa như ung thư cổ tử cung, để được tầm soát chính xác nhất thì người bệnh nên đi khám và xét nghiệm định kỳ. Vậy có thể xét nghiệm tế bào ung thư cổ tử cung bằng những cách nào? Show 1. Ung thư cổ tử cung nguy hiểm ra sao?Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh lý phổ biến hàng đầu ở phụ nữ, không chỉ riêng tại Việt Nam mà trên toàn thế giới. Nếu không thể phát hiện sớm và điều trị kịp thời, ung thư cổ tử cung có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người bệnh, đặc biệt là đến khả năng sinh con của phái nữ. Khi ung thư chuyển sang giai đoạn tiến triển, khối u có thể lan ra ngoài tử cung và di căn đến nhiều cơ quan lân cận như thận, phổi, gan, xương,… làm suy giảm chứng năng hoạt động của chúng. Căn bệnh này thậm chí có thể gây ra tỉ lệ tử vong rất cao ở nữ giới. 2. Các phương pháp xét nghiệm tế bào ung thư cổ tử cung2.1. Xét nghiệm Pap smearPap smear hay xét nghiệm Pap còn có tên gọi khác là phết tế bào cổ tử cung. Đây là một loại xét nghiệm tế bào học có tác dụng xác định những biến đổi bất thường ở cổ tử cung, chủ yếu gây ra bởi virus HPV. Bằng cách thu thập các tế bào nằm trong cổ tử cung để phân tích, xét nghiệm này có thể phát hiện ung thư cổ tử cung trước khi nó lan rộng ra các cơ quan khác. Ngoài ra, Pap smear còn có thể cảnh báo nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung trong tương lai. Pap smear có ưu điểm là chi phí thực hiện khá thấp, không yêu cầu các trang bị hiện đại hay kỹ thuật phức tạp. Xét nghiệm này có thể được thực hiện một cách dễ dàng, nhanh chóng và không mang lại cảm giác đau đớn. Tuy nhiên, xét nghiệm Pap có độ nhạy khá thấp (50-70%) và độ đặc hiệu cũng không quá cao (60-95%). Một số trường hợp còn xuất hiện tình trạng âm tính giả do tế bào bị bỏ sót khi chuẩn bị mẫu xét nghiệm. Độ tuổi nên thực hiện Pap smearHiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ khuyến cáo, phụ nữ nên đi xét nghiệm Pap ở các mốc thời gian sau: – Trước 21 tuổi: Không cần xét nghiệm – Từ 21-29 tuổi: Xét nghiệm 3 năm/lần – Từ 30-65 tuổi: Xét nghiệm 3 năm/lần – 65 tuổi trở lên: Ngừng xét nghiệm 2.2. Xét nghiệm tế bào ung thư cổ tử cung bằng Cobas testCobas test chính là xét nghiệm giúp phát hiện ra 2 loại virus HPV tuýp 16 và HPV tuýp 18 – những nhân tố gây ung thư cổ tử cung thường gặp nhất. Với xét nghiệm này, người bệnh còn có thể xác định mức độ nguy cơ mắc phải 1 trong 12 loại virus HPV còn lại hay không. Cobas test có độ chính xác rất cao, lên tới khoảng 92%. Tỉ lệ âm tính giả hay sai số do lỗi của con người thường rất thấp. Tương tự như Pap smear, Cobas test có quy trình lấy mẫu rất đơn giản. Tuy nhiên, xét nghiệm này có nhược điểm là phải đợi từ 7-10 ngày mới có kết quả và chỉ có thể thực hiện ở các bệnh viện được trang bị công nghệ hiện đại. Độ tuổi nên xét nghiệm Cobas test HPVNữ giới từ 30 tuổi trở lên nên xét nghiệm HPV 3 năm/lần hoặc kết hợp đồng thời với phết tế bào cổ tử cung định kỳ 5 năm/lần để tầm soát ung thư cổ tử cung. 2.3. Xét nghiệm ThinprepXét nghiệm Thinrep chính là sự cải tiến từ phương pháp Pap smear. Thay vì phết tế bào cổ tử cung lên một lam kính làm tiêu bản, tế bào sẽ được rửa với một loại chất lỏng định hình đựng trong lọ Thinrep. Sau đó, lọ này được đưa đến phòng thí nghiệm và xử lý bằng máy Thinrep để tạo ra tiêu bản tự động. Tỉ lệ âm tính giả khi xét nghiệm Thinrep thấp hơn so với các phương pháp khác nhờ giảm thiểu được nguy cơ bỏ sót mẫu tế bào bất thường. Tuy nhiên, xét nghiệm này cũng đòi hỏi bệnh viện phải được trang bị đầy đủ các thiết bị tân tiến mới có thể thực hiện được. Độ tuổi nên xét nghiệm Thinrep– Trước 21 tuổi: Không cần xét nghiệm – Từ 21-29 tuổi: Xét nghiệm 3 năm/lần – Từ 30-65 tuổi: 3 năm/lần nếu âm tính, xét nghiệm định kỳ mỗi năm nếu dương tính – 65 tuổi trở lên: Ngừng xét nghiệm 2.4. Xét nghiệm HPV DNAVới mục đích xác định khả năng hiện diện của virus HPV, xét nghiệm HPV DNA sẽ sử dụng hệ thống máy tự động để tách chiết DNA rồi phân tích bằng công nghệ giải trình mới. Trong số tất cả các phương pháp xét nghiệm tế bào ung thư cổ tử cung thì xét nghiệm HPV DNA có độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhất (90-95%). Nhờ đó có thể kết luận virus HPV có tồn tại trong cơ thể hay không. Xét nghiệm này cũng có thể tiến hành trong khoảng thời gian rất ngắn với thao tác đơn giản. Nhược điểm của phương pháp này là chỉ có thể đánh giá nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung chứ không thể chẩn đoán người bệnh có bị ung thư hay không. Để có được kết quả tầm soát chính xác nhất, các bác sĩ khuyến cáo người bệnh nên tiến hành đồng thời Pap smear và HPV DNA. 3. Một số lưu ý cần nhớ trước khi tầm soát ung thư cổ tử cungTuy các xét nghiệm tầm soát ung thư cổ tử cung đều không khó thực hiện nhưng bạn vẫn nên ghi nhớ một số lời khuyên dưới đây: – Tránh tiến hành xét nghiệm tầm soát vào giữa chu kỳ kinh nguyệt. Thời điểm tốt nhất là 5 ngày sau khi kết thúc chu kỳ. – Không dùng tăm bông hoặc các loại kem thoa âm đạo trong 2-3 ngày trước khi xét nghiệm. – Không thụt rửa âm đạo trong 2-3 ngày trước khi xét nghiệm. – Không quan hệ tình dục trong 2 ngày trước khi xét nghiệm. – Trước khi xét nghiệm cần thông báo cho bác sĩ nếu đang đặt thuốc hoặc đang trong thời gian điều trị viêm nhiễm phụ khoa. Trên đây là những thông tin bạn cần biết về tầm soát ung thư cổ tử cung. Dù nhận được kết quả xét nghiệm âm tính hay dương tính, bạn cũng nên tham khảo ý kiến của bác sĩ về hướng xử lý tiếp theo thay vì quá chủ quan hoặc bi quan. Đặc biệt, nên chọn các cơ sở y tế uy tín để có kết quả xét nghiệm chính xác nhất.
HPV là một trong những tác nhân lây nhiễm qua đường tình dục phổ biến. Biểu hiện lâm sàng là hình ảnh u sùi điển hình vùng hậu môn-sinh dục như âm hộ, âm đạo, trực tràng, vùng hậu môn, dương vật và u sùi vùng hầu họng đặc biệt là ung thư cổ tử cung (CTC). Virus HPV có nhiều type, trong đó có 2 type gây nguy cơ ung thư cao là các type 16, 18. Chính vì thế xét nghiệm chẩn đoán HPV là một xét nghiệm quan trọng trong nghiên cứu cũng như chẩn đoán - Human Papilloma virus (HPV) thuộc họ Papillomaviridae. HPV được lây truyền qua da và phổ biến nhất là qua đường tình dục và tất nhiên những nơi có tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp như âm đạo, cổ tử cung, hậu môn, đường niệu, bàng quang, miệng, mắt… , hôn, đồng tính luyến ái, gây lây nhiễm qua niêm mạc miệng và từ đó xâm nhập vào cơ thể. - Người bị nhiễm HPV có thể biểu hiện lâm sàng là các thương tổn tại chỗ với trạng thái tăng sinh nội mô biểu bì thuộc nhiều dạng khác nhau như sùi niêm mạc, viêm, xơ cứng biểu mô, khối u papilloma vùng sinh dục, vùng hầu họng, dạng tăng sinh tế bào keratin. Hầu như mọi type HPV đều có biểu hiện đặc trưng liên quan đến papilloma vùng sinh dục như condyloma, u xơ và u mềm cổ tử cung…. - Hiện nay nguyên nhân gây nên ung thư CTC đã được biết một cách rõ ràng là do HPV gây ra. HPV được chia làm hai nhóm, nhóm nguy cơ cao và nguy cơ thấp (về tính gây ung thư). -Nhóm nguy cơ cao có liên quan trực tiếp đến bệnh lý ung thư chúng được phát hiện có mặt trên 90% các trường hợp ung thư CTC (ung thư tế bào lát hay ung thư tế bào tuyến), trái lại nhóm nguy cơ thấp thì hiếm gặp trong trong các trường hợp ung thư. - Có nhiều hơn 100 type HPV có vai trò gây bệnh liên quan đến bệnh lý da và niêm mạc và khoảng 40 type có tác động lên đường sinh dục, đặc biệt liên quan đến bệnh lý ung thư CTC. Nhóm được gọi là nguy cơ cao bao gồm các type 16 (HPV-16), 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 59, 66 và HPV-68. Các type HPV-6,11, 42, 43, 44 được gọi là nhóm nguy cơ thấp.
Xét nghiệm chẩn đoán HPV - Năm 1949 George Papanicolaou đã đưa ra một phương pháp tế bào học phát hiện những bất thường của tế bào biểu mô CTC để phát hiện sớm ung thư CTC, được gọi là PAP’s smear. Nguyên lý dựa trên tính chất bong ra một cách tự nhiên, liên tục của tế bào âm đạo, CTC, đặc biệt là các tế bào bất thường thì tính bong sớm và rất dễ bong. - Phân tích hình thái học chi tiết người ta cho rằng dấu hiệu của tế bào bị nhiễm HPV là sẽ bị biến đổi thành các dạng tế bào đa nhan, tế bào đa nhân khổng lồ, hoặc nhân teo lại, hay có thể tìm thấy tế bào bóng, tế bào có vòng sáng quanh nhân…. - Phương pháp PAP’s smear có độ nhạy 44- 78% và độ đặc hiệu cao 91-9 6%. Tuy nhiên phương pháp này cũng có tỉ lệ âm tính giả, theo các tác giả giao động từ 1,1 -29,7%. Ngày nay nhờ sự phát triển của sinh học phân tử, đặc biệt là kỹ thuật PCR cho phép nhận biết chính xác có nhiễm HPV hay không và nhiễm type nào để tìm thấy nguy cơ cao hay thấp có khả năng dẫn đến ung thư CTC.PAP’s smear và HPV – PCR: - Xét nghiệm HPV-PCR có giá trị khác đối với xét nghiệm PAP’s smear. Với PAP’s smear ta có thể nói có hay không tổn thương nghi ngờ ác tính hay không ác tính trên CTC. Trong khi đó xét nghiệm HPV-PCR sẽ nói hiện tại có nhiễm HPV hay không, nếu có là nhóm nào – nguy cơ cao hay nguy cơ thấp. PCR được dùng để định type HPV bằng bệnh phẩm lấy từ âm đạo - cổ tử cung hoặc mảnh sinh thiết cổ tử cung. - HPV- PCR dương tính không có nghĩa là ung thư CTC, việc nhận định có nhiễm HPV hay không có nhiễm HPV không nói được tình trạng mô học hay tế bào học của CTC mà chỉ có thể nói rằng người được thử đang trong tình trạng nhiễm HPV. Xét nghiệm HPV-PCR ngày nay được khuyến cáo sử dụng kèm với xét nghiệm PAP’s smear nhằm nâng cao khả năng sàng lọc các trường hợp nghi ngờ, giúp theo dõi bệnh chặt chẽ hơn và có hiệu quả thật sự trong tầm soát ung thư CTC.Xét nghiệm HPV- DNA - Do không thể nuôi cấy virus HPV theo kiểu kinh điển và các test huyết thanh có độ nhạy rất thấp, chẩn đoán nhiễm HPV đòi hỏi phải phát hiện bộ gen của nó trong mẫu bệnh phẩm tế bào từ cổ tử cung. Bệnh phẩm có thể do cán bộ y tế hoặc do chính khách hàng/bệnh nhân tự lấy. - Các kỹ thuật phân tử phát hiện HPV- DNA có thể được chia thành hai nhóm: Có khuếch đại và không khuếch đại. Test dùng trong nghiên cứu lâm sàng thường là test khuếch đại, còn được chia thành 2 nhóm nhỏ là khuếch đại tín hiệu và khuếch đại chính bộ gen của HPV. Các test đại biểu cho nhóm test khuếch đại là Hybrid Capture II (HCII, Qiagen, USA), cobas HPV test (Roche, Thụy Sĩ) . - Xét nghiệm HPV- DNA có độ nhạy cao và giá trị dự báo âm tính cao. Nếu test HPV- DNA âm tính, gần như không có nguy cơ hình thành bất thường tế bào rõ (CIN III) trong vòng 6 - 10 năm sau đó. Điều này cho phép giãn thời gian sàng lọc và giảm số lần sàng lọc trong cuộc đời người phụ nữ. Khi HPV- DNA dương tính, thực hiện xét nghiệm định genotype và xét nghiệm phát hiện sự gắn chèn của HPV vào bộ gene người để tiên lượng ung thư cổ tử cung và có hướng xử lý kịp thời. HPV xâm nhiễm vào cơ thể và có biểu hiện lâm sàng, chủ yếu do các type thuộc nhóm “nguy cơ cao”, gây biến đổi tế bào về mặt hình thái và cấu trúc. Những tế bào mẫn cảm với virus chủ yếu ở vùng sinh dục, đặc biệt là CTC. Tuy nhiên không phải nhiễm HPV là có ung thư CTC, do vậy ngoài các xét nghiệm chẩn đoán HPV thì phụ nữ cũng nên đi khám phụ khoa định kỳ để phát hiện các bệnh phụ khoa khác. |