Hiện nay, ngân hàng máu thu được hoàn toàn là từ những tình nguyện viên hiến máu. Lượng máu thu được có thể bảo quản hoặc điều chế thành những chế phẩm khác nhau và sẽ được chỉ định sử dụng phù hợp với những trường hợp cần thiết khác nhau. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về các chế phẩm từ máu cũng như tác dụng của nó. Show 1. Máu toàn phầnTrước khi hiến máu, người hiến máu cần được tuyển chọn theo quy định, người tham gia hiến máu cần được khám sức khỏe, sàng lọc những bệnh lý nguy hiểm, bệnh nhiễm trùng qua đường truyền máu, phân loại nhóm máu. Những trường hợp được chỉ định truyền máu toàn phần cần phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt để bảo đảm chất lượng máu và an toàn cho người bệnh. Máu toàn phần là loại máu thu được từ người hiến máu, sau đó máu sẽ được đóng gói, ghi mã số và lưu trữ mà không cần qua thêm bất cứ một bước xử lý nào khác. Tùy vào điều kiện lưu trữ mà thời gian sử dụng máu toàn phần cũng có sự khác biệt. Nếu bảo quản ở nhiệt độ từ 2 đến 6 độ C thì lượng máu toàn phần này có thể sử dụng trong vòng 35 ngày. Nhưng nếu máu toàn phần được bảo quản ở nhiệt độ cao hơn, trong khoảng từ 20 đến 24 độ C thì hạn sử dụng sẽ ngắn hơn rất nhiều, thông thường chỉ sử dụng trong vòng 24 giờ đồng hồ. Máu toàn phần không qua điều chế, còn có thể chứa nhiều thành phần không cần thiết, vì thế, nó rất hạn chế được sử dụng. Phần lớn máu toàn phần được sử dụng trong những trường hợp bệnh nhân bị mất máu cấp tính với một lượng quá lớn và bệnh nhân cần được tiếp nhận đầy đủ các thành phần trong máu một cách nhanh nhất. Máu toàn phần thường không được sử dụng trong các trường hợp thiếu máu mạn tính, bệnh nhân suy tim. Những trường hợp được chỉ định truyền máu toàn phần cần phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt để bảo đảm chất lượng máu và an toàn cho người bệnh. Khi đã được lấy ra khỏi tủ lưu trữ, máu cần được tiến hành nhanh trong vòng từ 30 phút đến 4 giờ. Nếu thời gian lâu hơn, túi máu có nguy cơ bị nhiễm khuẩn, ảnh hưởng đến chất lượng máu và cần phải hủy bỏ. 2. Các chế phẩm từ máu gồm những gì và có những tác dụng gì?2.1. Chế phẩm từ máu dòng hồng cầuHồng cầu lắngMáu sau được thu thập được từ những tình nguyện viên tham gia hiến máu sẽ được thực hiện quay ly tâm hoặc để lắng xuống, chia thành 2 phần là chế phẩm huyết tương đông lạnh và phần lắng xuống đáy được gọi là hồng cầu lắng - phần hỗn dịch ở giữa bao gồm cả hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Khi được bảo quản trong nhiệt độ từ 2 đến 6 độ C, phần hồng cầu lắng này có thể sử dụng trong khoảng 35 ngày. Chế phẩm hồng cầu lắng cần được bảo quản trong nhiệt độ từ 2 đến 6 độ C Chế phẩm hồng cầu lắng sẽ được sử dụng trong trường hợp bệnh nhân bị thiếu máu nặng, bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu cấp cần hóa trị liệu, bị suy tủy do hóa trị,… Bệnh nhân mắc Thalassemia cần duy trì Hb trên 9,5 g/dL ở những năm đầu đời,… Khối hồng cầu có dung dịch bảo quảnLà chế phẩm được bổ sung lượng hồng cầu theo quy định nhằm cải thiện chất lượng hồng cầu. Vì có chứa dung dịch bảo quản nên hạn sử dụng của chế phẩm này có thể lên đến 42 ngày nếu được bảo quản trong điều kiện nhiệt độ chuẩn từ 2 độ C đến 6 độ C. Khối hồng cầu rửaMáu sau khi được thu thập sẽ được rửa nhiều lần với dung dịch muối đẳng trương để loại bỏ huyết tương. Nếu bảo quản ở nhiệt độ từ 2 đến 6 độ C thì có thể sử dụng chế phẩm này trong vòng 24 giờ. Khối hồng cầu rửa thường được chỉ định truyền cho bệnh nhân bị thiếu IgA, người bị tiểu huyết sắc tố kịch phát về đêm, những trường hợp có phản ứng với thành phần trong huyết tương. Khối hồng cầu lọc bạch cầuĐây là chế phẩm khối hồng cầu đậm đặc nhưng được lọc bạch cầu trong vòng 72 giờ, kể từ khi thu thập máu từ người hiến máu. Chế phẩm này thường được dùng cho những bệnh nhân ghép tủy, những bệnh nhân sốt do truyền máu từ 2 lần trở lên. Khối hồng cầu đông lạnhĐược lưu trữ ở nhiệt độ từ âm 60 độ C nên thời gian sử dụng sẽ rất dài, có thể lên đến 10 năm. Nhưng trước khi sử dụng, chế phẩm này cần được thực hiện làm tan đông. 2.2. Những chế phẩm từ máu dòng tiểu cầuKhối tiểu cầu chứa phần lớn tiểu cầu được điều chế từ đơn vị máu toàn phần. Chế phẩm này được dùng trong trường hợp điều trị chảy máu do giảm tiểu cầu, bệnh nhân bị bạch cầu cấp, bệnh nhân cần tăng tiểu cầu trên 50.000uL, phòng ngừa đối với những trường hợp sốt, nhiễm trùng huyết, bệnh nhân bắt đầu hóa trị có thể bị giảm tiểu cầu nhanh chóng,… Chế phẩm từ máu dòng huyết tương 2.3. Chế phẩm từ máu dòng huyết tươngBao gồm Huyết tương tươi đông lạnh và kết tủa. Trong đó: Huyết tương tươi đông lạnh được chỉ định truyền đối với những trường hợp thiếu máu bẩm sinh, bệnh gan, sử dụng thuốc chống vitamin K quá liều, ngăn ngừa tình trạng đông máu với những người phải truyền lượng máu lớn. Huyết tương kết tủa lạnh: Là chế phẩm có chứa các yếu tố đông máu và được dùng cho những trường hợp bị bệnh hemophilia A, thiếu fibrinogen, bệnh nhân mắc Von Willebrand. Việc truyền máu để đạt hiệu quả điều trị tốt nhất cần làm theo chỉ định của bác sĩ 2.4. Chế phẩm từ máu khối bạch cầu hạt trung tínhLoại chế phẩm này được gạn tách từ đơn vị máu toàn phần, là một chế phẩm đậm đặc tiểu cầu. Nếu được bảo quản ở nhiệt độ từ 20 độ C đến 24 độ C, thì có thể sử dụng trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm lấy máu. Trên đây là những thông tin về các chế phẩm từ máu cũng như mục đích sử dụng của các chế phẩm này. Nếu muốn tìm hiểu thêm thông tin hoặc có nhu cầu thăm khám, bạn có thể gọi đến số 1900 56 56 56 để được các bác sĩ MEDLATEC tư vấn chi tiết và đặt lịch khám sớm cho bạn.
9/13/2019 12:35:32 AM
Nguy cơ truyền mầm bệnh bằng huyết tương tươi đông lạnh cũng giống như đối với máu toàn phần
Huyết tương tươi đông lạnh thu được sau khi các yếu tố tế bào đã được loại bỏ khỏi toàn bộ máu bằng cách ly tâm. Plasma được đông lạnh trong vòng sáu giờ sau khi tách. Mặc dù việc sử dụng huyết tương tươi đông lạnh để hồi sức truyền dịch thông thường không được khuyến cáo, nhưng nó có thể được sử dụng như một biện pháp bổ trợ cho truyền máu lớn ở những bệnh nhân bị rối loạn đông máu tiềm ẩn. Năm trăm ml huyết tương tươi đông lạnh mở rộng khoang plasma hiệu quả như dextran hoặc polygeline nhưng ít hơn hetastarch. Nguy cơ truyền mầm bệnh bằng huyết tương tươi đông lạnh cũng giống như đối với máu toàn phần. Tuy nhiên, các quá trình khử hoạt tính hóa học đang được phát triển có thể làm giảm nguy cơ lây truyền virus bằng các sản phẩm plasma.
Sử dụng khối tiểu cầu tập trung
Khối tiểu cầu tập trung cũng đôi khi được sử dụng trước khi phẫu thuật xâm lấn, đặc biệt với tuần hoàn ngoài cơ thể đối > 2 giờ (thường làm cho rối loạn chức năng tiểu cầu). Một đơn vị tập trung tiểu cầu sẽ làm tăng số lượng tiểu cầu lên 10.000/mcL, sự cầm máu cần thiết đạt được những bệnh nhân có số lượng tiểu cầu khoảng 10.000/mcL (10 × 109/L) mà không có tình trạng phức tạp và khoảng 50.000/mcL (50 × 109/L) nếu cần phẫu thuật. Do đó, khối tiểu cầu tập trung ở từ 4 đến 5 đơn vị máu toàn phần thường được sử dụng ở người lớn.
Số lượng tiểu cầu tập trung tăng lên nếu sử dụng thiết bị tự động thu hoạch các tiểu cầu (hoặc các tế bào khác) và trả lại các thành phần không cần thiết (ví dụ hồng cầu, huyết tương) cho người cho máu. Phương pháp này được gọi là tách tiểu cầu, sẽ cung cấp đủ tiểu cầu từ một người cho (tương đương 4 đến 5 đơn vị tiểu cầu) để truyền cho người lớn, vì nó làm giảm thiểu các nguy cơ lây nhiễm và gây miễn dịch, nên được ưa chuộng hơn đối với việc truyền của nhiều người cho trong một số điều kiện nhất định.
Một số bệnh nhân có thể không đáp ứng với việc truyền tiểu cầu (gọi là thể dai dẳng), có thể do hấp thu lách, tiêu thụ tiểu cầu do đông máu nội mạch rảu rác, hoặc bị phá hủy do tạo miễn dịch đồng loài với HLA hoặc kháng nguyên tiểu cầu (sự phá huỷ qua trung gian miễn dịch). Nếu bệnh nhân truyền không hiệu quả, càn làm các xét nghiệm về miễn dịch đồng loài nếu có thể. Bệnh nhân có sự phá hủy trung gian miễn dịch có thể đáp ứng với khối tiểu cầu pool (được tổng hợp từ nhiều đơn vị máu toàn phần do đó có thể có đơn vị hòa hợp HLA), khối tiểu cầu từ các thành viên trong gia đình, hoặc hòa hợp HLA và ABO. Có thể giảm sự tạo miễn dịch đồng loài với HLA băng truyền khối tiểu cầu nghèo hồng cầu bạch cầu.
Các tiểu cầu bất hoạt mầm bệnh, bất hoạt bằng cách sử dụng một hóa chất (amotosalen), cũng có sẵn để sử dụng lâm sàng.
Việc truyền máu và chế phẩm máu là nhằm mục đích chữa bệnh. Vì vậy máu và chế phẩm máu phải được sử dụng cho đúng bệnh nhân và vào thời điểm thích hợp. Tổ chức Y tế thế giới có khẩu hiệu là truyền đúng loại, cho đúng bệnh nhân cần, và đúng thời điểm. Nếu không cần thiết phải truyền máu hay chế phẩm, nếu còn có biện pháp khác để thay thế thì việc truyền máu và chế phẩm là chống chỉ định. 1. Tác dụng của truyền máu:
2. Các nguy cơ do truyền máu: Lây bệnh truyền qua đường máu ( các virus, ký sinh trùng, xoắn khuẩn...) Tai biến truyền máu + Do bất đồng miễn dịch + Do quá tải + Do máu bị nhiễm khuẩn + Do các chất trung gian hình thành khi lưu trữ Ứ sắt do truyền máu Gây phản ứng miễn dịch tiềm tàng. 3. Máu và các chế phẩm máu: 3.1. Máu toàn phần: Là máu lấy từ mạch máu người cho máu được bảo quản trong túi (chai) có chất chống đông và bảo quản máu. Hiện nay dung dịch bảo quản máu thông thường là CPDA gồm citrate, phosphat, đường dextrose, adenin. Mỗi đơn vị máu toàn phần 250 ml có khoảng 30-40 g huyết sắc tố. Ở Việt Nam có các loại đơn vị máu 250ml, 350ml, 450ml. Ngoài ra còn một số đơn vị có dung tích ít hơn (50,100,150 ml) cho trẻ em. Bảo quản máu toàn phần ở 2-60C, thời gian bảo quản tối đa là 42 ngày (với dung dịch bảo quản là CPDA). Máu toàn phần lưu trữ chứa thành phần chính là hồng cầu, nếu mới thu nhận còn có tiểu cầu và một số yếu tố đông máu. Bạch cầu đoạn nhanh chóng bị huỷ và giải phóng ra các chất trung gian. Ngoài ra trong đơn vị máu toàn phần còn chứa các tế bào lympho và yếu tố huyết tương. Chỉ định: Trường hợp bệnh nhân mất nhiều máu (mất ≥1/3 lượng máu cơ thể) Không nên dùng: Bệnh nhân suy thận, suy tim, chỉ thiếu máu đơn thuần. 3.2. Khối hồng cầu: Là máu toàn phần đã được ly tâm và tách phần huyết tương ở trên sang 1 túi khác. Tuỳ cách sản xuất mà có các loại khối hồng cầu sau: Khối hồng cầu đậm đặc: Sản xuất đơn giản bằng cách ly tâm, tách phần lớn huyết tương trên sang 1 túi khác , để lại trong túi là khối hồng cầu có Hematocrit khoảng 75%.
Khối hồng cầu có dung dịch bảo quản: Sau khi tách huyết tương khỏi hồng cầu, trả lại dung dịch bảo quản.
Khối hồng cầu nghèo bạch cầu Là máu toàn phần được tách huyết tương và tách thành phần Buffy coast (lớp giữa huyết tương và hồng cầu)
Khối hồng cầu rửa: Máu toàn phần hoặc khối hồng cầu được ly tâm bỏ hết huyết tương rồi thay thế nước muối trộn đều ly tâm tiếp để rửa 3 lần.
ở 22 °C : ≤ 6 giờ
Khối hồng cầu lọc bạch cầu và khối hồng cầu chiếu xạ: Là khối hồng cầu đã được dùng màng lọc bạch cầu hay tia xạ hoặc cả hai.
Thông thường để đảm bảo an toàn, người ta sử dụng cả chiếu xạ và lọc bạch cầu cho đơn vị máu sẽ truyền cho bệnh nhân ghép. 3.3. Khối tiểu cầu: Có hai loại khối tiểu cầu: Khối tiểu cầu tách từ máu toàn phần: Bằng ly tâm các túi máu toàn phần, gạn lấy lớp Buffy coast rồi ly tâm tách lấy tiểu cầu. Thường từ 3-4 đơn vị máu toàn phần cùng nhóm ABO có thể chuẩn bị (sản xuất) được 1 đơn vị pool tiểu cầu (tập hợp tiểu cầu từ nhiều người cho máu).
Khối tiểu cầu tách chiết ( apheresis) Dùng máy tách tế bào với bộ kit ( dụng cụ) chuyên dụng để lấy tiểu cầu từ một người cho
Đối với xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch, chỉ định khối tiểu cầu khi xuất huyết, nguy cơ xuất huyết nặng, hoặc số lượng tiểu cầu thấp (< 20.109/l). 3.4. Huyết tương tươi đông lạnh Phần huyết tương tách ra từ máu toàn phần trong thời hạn 6 giờ kể từ lúc lấy máu gọi là huyết tương tươi (HTT). Huyết tương tươi bảo quản đông lạnh gọi là huyết tương tươi đông lạnh (HHTĐL).
Lượng huyết tương tách từ một đơn vị máu hiện nay có dung tích khoảng 125-150ml. Người ta thường pool (gộp) lượng HTT của hai đơn vị máu toàn phần cùng nhóm và như vậy dung tích khoảng 250-300ml.
3.5. Tủa (cryo). Để HTTĐL ở 4 °C, huyết tương tan ra có 1 phần tủa, li tâm thu nhận các tủa này đó là cryo (tủa VIII)
+ Bệnh nhân Hemophilia A. 3.6. Huyết tương tươi đã tách tủa: Phần huyết tương tách ra sau khi lấy tủa ở HTTĐL có thể bảo quản lại - 25°C.
Tai biến quá liều kháng vitamin K. 3.7. Huyết tương đông lạnh:
3.8. Các chế phẩm khác: Khối bạch cầu hạt: Tách từ phần Buffy Coast và tập hợp (pool) của nhiều người cho máu.
Chế phẩm huyết tương bất hoạt virus Dùng các hóa chất, hoặc tia cực tím chiếu bất hoạt virus - Yếu tố VIII cô đặc: bất hoạt virus và cô đặc từ nhiều người cho - Các chất chiết từ huyết tương: Albumin, globulin. 4. Sử dụng máu hợp lý - Chỉ sử dụng khi cần cho điều trị - Chỉ định loại thành phần hợp lý nhất - Lựa chọn chế phẩm ít pool (từ ít người cho) - Tìm các biện pháp tránh truyền máu
- Lưu ý các tác dụng phụ sau truyền máu
- Một số biện pháp giảm truyền máu đồng loại
PGS. TS. Phạm Quang Vinh |