Lý thuyết về lợi thế so sánh của d.ricardo

Tài liệu "Lý thuyết về lợi thế so sánh của DAVID RICARDO" có mã là 1536603, file định dạng docx, có 20 trang, dung lượng file 59 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Tổng hợp. Tài liệu thuộc loại Vàng

Nội dung Lý thuyết về lợi thế so sánh của DAVID RICARDO

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Lý thuyết về lợi thế so sánh của DAVID RICARDO để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 20 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Lý thuyết về lợi thế so sánh của DAVID RICARDO

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Lý thuyết về lợi thế so sánh của d.ricardo

Lý thuyết về lợi thế so sánh của d.ricardo

Lý thuyết về lợi thế so sánh của d.ricardo

Lý thuyết về lợi thế so sánh của d.ricardo

Lý thuyết về lợi thế so sánh của d.ricardo


Lý thuyết về lợi thế so sánh của d.ricardo


Lý thuyết về lợi thế so sánh của d.ricardo

Chụp hình ngoại cảnh giá rẻ tại Quảng nam Đà nẵngChụp hình ngoại cảnh giá rẻ tại tam kỳWestern Ford Đà lạt - Lâm ĐồngXe ô tô cũ đã qua sữ dụng bảo hành 1 năm - tại Ford Đà lạt - Lâm ĐồngTạo con dấu onlineECOSPORT 1.5L AT TITANIUMFord Bảo LộcĐược đăng: Thứ tư, 17 Tháng 6 2015 12:35 | Tác giả: Cù Thị Nhung, Khoa Kinh tế - QTKD | " onclick="window.open(this.href,"win2","status=no,toolbar=no,scrollbars=yes,titlvietradeportal.vnr=no,menubar=no,resizable=yes,width=640,height=480,directories=no,location=no"); return false;" rel="nofollow">In bài này | Gửi Email bài này | Lượt xem: 31452

David.Ricardo là đại biểu xuất sắc của kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Phần lớn các tài sản vô giá ông để lại xuất phát từ kiến thức kinh tế thực tế, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Một tác phẩm chủ đạo có giá trị to lớn và mang tầm ảnh hưởng quan trọng cho đến nay của Ricardo là lý thuyết lợi thế so sánh.

Bạn đang xem: Lý thuyết lợi thế so sánh

1.1.2.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith

Adam Smith 1723 – 1790, nhà kinh tế chính trị cổ điển người Anh, là người đầu tiên đưa ra sự phân tích có tính hệ thống về nguồn gốc thương mại quốc tế. Ơng đã xâydụng mơ hình thương mại đơn giản dựa trên ý tưởng về lợi thế tuyệt đối để giải thích thương mại quốc tế có lợi như thế nào đối với các quốc gia.Theo ông, nếu quốc gia A có thể sản xuất mặt hàng X rẻ hơn so với quốc gia B và quốc gia B có thể sản xuất mặt hàng Y rẻ hơn so với quốc gia A, thì lúc đó mỗi quốc gianên tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có hiệu quả hơn và xuất khẩu mặt hàng này sang quốc gia kia. Trong trường hợp này mỗi quốc gia được coi là có lợi thế tuyệtđối về sản xuất từng mặt hàng cụ thể. Lợi thế tuyệt đối có thể xuất phát từ các yếu tố về thời tiết, chất lượng và số lượngđất đai, các nguồn tài nguyên thiên nhiên hay sự khác biệt về lực lượng lao động, vốn, trình độ cơng nghệ. Vì sự khác biệt trong lợi thế tuyệt đối của từng nước, nên với điềukiện thương mại tự do, mỗi nước sẽ đi sâu chun mơn hóa từng mặt hàng mà mình có lợi thế so với các nước khác. Như vậy nguồn lực sẽ được tập trung vào sản xuất sảnphẩm chuyên mơn hóa đó một cách có hiệu quả. Nhờ vậy, các sản phẩm chun mơn hóa sẽ được sản xuất với quy mô lớn hơn dành cho xuất khẩu để tạo vốn cho nhập khẩunhững sản phẩm mà quốc gia đó sản xuất khơng có hiệu quả. Nhờ chun mơn hóa sản xuất và trao đổi mà cả hai quốc gia đều trở nên sung túc hơn.Lý thyết lợi thế so sánh được David Ricardo 1772 – 1823 đưa ra lần đầu tiên vào năm 1817. Có thể phát biểu quy luật lợi thế so sánh như sau: “Một quốc gia sẽ xuất khẩunhững mặt hàng có giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia kia. Nói cách khác, một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất vớihiệu quả cao hơn một cách tương đối so với quốc gia kia”. Một cách cụ thể, quốc gia A sẽ xuất khẩu X khi và chỉ khi:Chi phí lao động để sản xuất Chi phí lao động để sản xuấtSVTH: HOÀNG THỊ XUÂN1 đơn vị X ở A 1 đơn vị Y ở AChi phí lao động để sản xuất Chi phí lao động để sản xuất1 đơn vị X ở B 1 đơn vị Y ở BLý thuyết này được xác định trên cơ sở chi phí tương đối, khi mà trình độ sản xuất khơng đổi, các nước có thể tăng lợi ích từ thương mại quốc tế nhờ sự hợp tác và trao đổisản phẩm. Mơ hình thương mại quốc tế dựa trên lợi thế so sánh tương đối nhấn mạnh rằng một quốc gia sẽ có lợi nhờ vào thương mại quốc tế nếu chun mơn hóa vào sảnxuất những sản phẩm mà nước đó có thể sản xuất có hiệu quả hơn việc sản xuất các sản phẩm khác mà không cần phải xét đến lợi thế tuyệt đối.Nhìn chung, các lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và tương đối của một nước đều nhấn mạnh tới yếu tố cung, coi quá trình sản xuất trong nước là yếu tố quy định hoạt độngthương mại quốc tế. Dựa vào các mơ hình này, để thúc đẩy xuất khẩu, mỗi nước nên xác định rõ các lợi thế tuyệt đối và tương đối của mình để từ đó tập trung nguồn lực có lợithế đó của đất nước vào việc chun mơn hóa sản xuất sản phẩm cho xuất khẩu. Việc chuyên môn hóa sản xuất sẽ đem lại tác dụng như nâng cao chất lượng sản phẩm nhờvào trình độ chun mơn hóa tay nghề lao động trong sản xuất, sản xuất với khối lượng lớn. Từ đó, tăng được tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.Ứng dụng vào Việt Nam, dựa vào cơ sở lý luận của hai ơng, Việt Nam sẽ thích hợp trong việc tăng cường sản xuất các sản phẩm thô dựa vào điều kiện tự nhiên và các sảnphẩm sử dụng nguồn lao động dồi dào của đất nước, trong đó có sản xuất hàng dệt may.

Lý thuyết về những lợi thế so sánh (Comparative advantage) xác định những cái lợi của thương mại bằng cách chứng minh rằng trao đổi, với những sự chuyên môn hóa mà nó tạo nên,đem lại lợi ích cho tất cả những người cùng trao đổi với nhau.

Lý thuyết về lợi thế so sánh của d.ricardo

Mỗi nền kinh tế địa phương ắt sẽ có lợi trong việc chuyên môn hóa trong một hay một số khu vực có một lợi thế so sánh cho dù đó là nguồn nhân công dồi dào hay rẻ tiền, hay là tài nguyên khoáng sản và các tiềm năng về năng lượng: than đá, dầu mỏ, …

David Ricardo (1772 – 1823)

David Ricardo là con thứ 3 trong số 17 người con, trong gia đình rất thành đạt. Cha ông là người làm ngân hàng giàu có. Lúc đầu ở Hà-Lan, sau chuyển tới London. David học không nhiều và đi làm cho cha khi 14 tuổi. Khi 21, ông cưới vợ trái ý gia đình và bị tước thừa kế, ông lập công ty môi giới chứng khoán. Ricardo thành công như một hiện tượng và ông về hưu tuổi 42, tập trung viết lách và chính trị; đóng góp nhiều cho lý thuyết kinh tế; là bạn của nhiều nhà kinh tế học cổ điển Thomas Malthus và Jean-Baptiste Say. Cùng với Malthus ông mang quan điểm bi quan về tương lai lâu dài của xã hội. Tuy vậy, phần lớn tư tưởng học thuyết Ricardo ngày nay vẫn còn giá trị lớn và được giảng dạy rộng rãi. Các ấn phẩm của Ricardo đương thời không bán chạy lắm, nhưng qua thời gian loài người đã nhận thức đúng giá trị to lớn của chúng. Phần lớn các lý thuyết của ông tập trung vào lĩnh vực thị trường tiền tệ, và chứng khoán, bao gồm:

– Giá vàng cao, một bằng chứng xuống giá của giấy nợ ngân hàng (1810);

– Trả lời các quan sát của Bosanquet về báo cáo của Bullion Committee (1811);

– Đề xuất về đồng tiền an toàn và tiết kiệm (1816)

Tác phẩm quan trọng về kinh tế học thị trường:

– Luận văn về ảnh hưởng của giá ngô thấp và lợi nhuận của cổ phiếu (1815);

– Các nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khoá (1817).

Lý thuyết về lợi thế so sánh

Một học thuyết chủ đạo mà Ricardo đã phát triển ngày nay vẫn là những nền tảng quan trọng là lý thuyết thương mại quốc tế (lợi thế so sánh): Ricardo tập trung phân tích chi phí so sánh và tìm hiểu bằng cách nào để một quốc gia thu lợi được từ thương mại khi chi phí thấp hơn tương đối. Ví dụ: thương mại rượu vang và vải giữa Anh và Bồ đào nha. Ricardo chỉ ra rằng nếu một quốc gia sản xuất hàng hoá ở chi phí cơ hội thấp hơn, thì nên chuyên môn hoá vào đó. Và tham gia trao đổi hàng hoá quốc tế với quốc gia chuyên môn hoá ngành hàng khác. Chẳng mấy khó khăn để nhận ra Bồ đào nha thì nên chuyên môn hoá ngành gì trong lựa chọn Rượu vang hay vải! Lý thuyết này vẫn đúng ngày nay. Nếu tất cả các quốc gia đều chuyên môn hoá vào các lĩnh vực họ có lợi thế so sánh, mức phúc lợi toàn cầu sẽ tăng lên đáng kể.

Lợi thế so sánh là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế, khi các quốc gia tập trungchuyên môn hoá sản xuất và trao đổi những mặt hàng có bất lợi nhỏ nhất hoặc những mặt hàng có lợi lớn nhất thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi.

Thí dụ điển hình về lợi thế so sánh của Ricardo là thí dụ về trao đổi bông/rượu Porto giữa Bồ Đào Nha và Anh. Nếu Bồ Đào Nha không thể sản xuất vải trong những điều kiện thuận lợi như ở Anh, nghĩa là nếu họ phải dành nhiều thời gian và lao động hơn Anh, thì họ lại có lợi thế trong việc sản xuất rượu vang và họ dùng làm phương tiện trao đổi để mua vải bông ở Anh, nước này lại không thể sản xuất rượu vang trong những điều kiện thuận lợi như ở Bồ Đào Nha.

Như vậy lý thuyết này đối lập với lý thuyết về tự cung tự cấp. Như John Stuart Mill đã viết:

“ Nếu hai nước mua bán với nhau tìm cách tập trung cả kảh năng vật chất của mình để sản xuất ra những thứ mà họ hiện đang nhập của nhau, thì nhân công và tư bản hai nước sẽ không được sử dụng có hiệu quả, cả hai nước gộp lại sẽ không thể thu được từ nền công nghiệp của mình một lượng hàng hóa lớn như khi mỗi nước tìm cách sản xuất, cả cho bản thân mình cunx như cho nước kia, những của cải mà nhân công sản xuất của mính thành thạo hơn. Số của cải sản xuất trội ra của hai nước kết hợp với nhau tạo thành cái lợi của thương mại.”

Nói chung có thể hiểu là sản xuất trong nước cái mà nước khác có khả năng sản xuất với giá rẻ hơn thì sẽ là hoàn toàn không hợp lý.

Tuy nhiên lại đặt ra vấn đề là giải quyết lao động, bảo hộ nền công nghiệp, cán cân thương mại XNK . . .

Nói kỹ hơn, giả thiết về sự ngang nhau của các lợi thế và sự đảm bảo phát triển mà lợi thế so sánh và thương mại tạo ra có thể dễ dàng bị bác bỏ, chủ yếu bởi vì những người trao đổi với nhau không bao giờ ngang nhau, không dùng chung một công nghệ, không cùng một năng lực đầu tư, vận hành, không có những cơ cấu chính trị xã hội và kinh tế giống nhau, thậm chí đơn giản vì vị trí địa lý khác nhau.

Người ta biết cuộc tranh luận gay gắt mà Canada phải trải qua trong cả năm 1988 về thỏa ước tự do trao đổi với Mỹ. Dù cho Canada và Mỹ là hai nước có ngang nhau đi nữa, thì sự tự do hóa hoàn toàn việc trao đổi thương mại thì hiển nhiên là có vấn đề và nhiều nỗi lo ngại; liệu Canada có phải từ bỏ những chương trình xã hội của mình là những cái làm giảm sức cạnh tranh của họ hay không? Có những ngành sản xuất lớn liệu có phải bỏ đi hết không vì không tồn tại tình trạng thi đua giữa hai bên ngang nhau. Và nói chung là có rất nhiều vấn đề. . .

Thế nhưng vấn đề đặt ra ở đây là:

  1. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu vẫn chỉ là một nước luôn có được tất cả các lợi thế so sánh?
  2. Tình hình sẽ ra sao nếu một nước dễ dàng xóa đi lợi thế so sánh của các nước khác?
  3. Giữa nước X và nước Y sẽ xảy ra chuyện gì đối với kẻ không có hay không còn có một lợi thế so sánh nào?
  4. Sự giảm sút các điều kiện trao đổi sẽ dẫn tới những hiện tượng gì?

Phân tích đến cùng, chính cái giá trị gia tăng là cái cho phép đánh giá xem việc trao đổi đó là lý tưởng hay không, nó có biểu hiện một sự bất bình đẳng trong phát triển và một sự chuyên môn hóa làm nghèo đi hay không? Chính điều này theo Ricardo đã tác động bất lợi cho Bồ Đào Nha. Nước này, một là đã chuyên môn hóa trong một ngành mà có giá trị gia tăng thấp và hai là không tăng trưởng được. Còn nước Anh thì ngược lại. Nếu thực là như vậy thì đó là những tiền đề làm trì trệ kinh tế Bồ Đào Nha và ngược lại là những điều kiện tăng tiến cho nền kinh tế Anh.

Tuy nhiên đây chỉ là một khía cạnh trong thương mại. Còn rất nhiều vấn đề khác cần nghiên cứu.

Theo SAGA

Tags: Kinh tế học, David Ricardo