Nguyên nhân cải cách Minh Mạng

Nguyên nhân cải cách Minh Mạng

Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng 明命

Minh Mạng (còn gọi là Minh Mệnh) sinh năm 1791, tên húy là Phúc Đảm, con trai thứ tư của vua Gia Long. Từ khi còn là Hoàng tử và đến năm 1816 được lập là Hoàng Thái tử (25 tuổi), ông luôn ý thức rõ vị trí và trách nhiệm lịch sử của mình. Năm 1820 được lên ngôi vua, trong 21 năm trị vì từ 1820 - 1841, ông đã thật sự tiến hành một công cuộc cải cách hành chính toàn diện từ Trung ương đến cơ sở. Vua Minh Mạng từng bộc lộ ý định trên trong một lời dụ: “Nhà nước đặt phép tắc, định chế độ mong để lâu dài, Trẩm tuân giữ phép cũ mà sửa sang thêm, chủ yếu cũng là theo thời xây dựng, chấn chỉnh mối giềng để đời sau noi theo...”

Minh Mạng cũng là người rất quan tâm đến việc tạo lập thói quen sống, làm việc tuân theo pháp luật đối với toàn xã hội. Với ông mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, từ hoàng thân quốc thích tới binh lính, thứ dân. Ông cách chức Đề đốc kinh thành Huế chỉ vì bắn nhầm làm bị thương một người lính. Ông xử rất nặng tội lỗi của quan lại, ngay cả với những người thân cận, đặc biệt với tội tham nhũng, đòi ăn hối lộ và biển thủ công quỹ. Áp dụng nguyên tắc “Sát nhất nhân, vạn nhân cụ” (giết một người, để những người khác sợ mà tránh). Minh Mạng xét tội tử hình với những quan lại đong thóc cho dân kém vài hộc hoặc đòi ăn tiền làm khó dân. Minh Mạng cũng rất quan tâm phòng chống triệt để các tệ nạn xã hội như đánh bạc, mại dâm, trộm cắp, cướp giật, hút và buôn bán thuốc phiện. Các quan lại, quân dân ai hút, buôn bán thuốc phiện tang vật từ một cân (0,4 kg) trở xuống phạt 100 trượng, phát lưu 3.000 dặm. Tang vật từ một cân trở lên xử giảo giám hậu, tịch thu gia sản. Cha anh biết không ngăn cấm con em, hàng xóm biết không báo đều phạt 100 trượng. Thuyền ngoại quốc đến đậu tại cửa biển nếu chứa thuốc phiện mà không nộp cũng bị xử nặng.

Là người đứng đầu triều đình, Minh Mạng luôn làm gương trong việc tuân thủ pháp luật, ông từng nói "Ta từ khi lên ngôi đến nay, dùng người làm việc, giữ một mực công bằng, dẫu có kể tôi con thân tín từ trước cũng chỉ dùng theo tài năng chứ không tư vị người nào. Kẻ nào có tội cũng theo pháp luật trừng trị, chứ không tư vị bao giờ”.

Sách Đại Nam thực lục, tập 3, sđd, tr.697 cho biết ở 6 tỉnh phía nam, vua Minh Mạng cấp quan phòng, ấn, triện mới cho Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát, Lãnh binh… vì “phần nhiều không biết thất lạc vào đâu” và “để tỏ ra đổi mới”. “Duy ấn quan phòng Tổng đốc An - Hà, ấn triện tỉnh Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường hãy còn, thì không thay đổi”.

Nguyên nhân cải cách Minh Mạng

Vua Minh Mạng (bên trái) qua nét vẽ của người châu Âu

Bấy giờ, chức vụ trọng yếu ở các tỉnh là Tổng đốc và Tuần phủ đa phần do võ quan nắm giữ, điều này chỉ thay đổi vào giai đoạn cuối triều Minh Mạng. Đầu thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa Nam kỳ cũng trải qua giai đoạn dài do các Thống soái quân sự đứng đầu, mãi đến năm 1879 mới xuất hiện Thống đốc dân sự đầu tiên.

Sau khi vua Minh Mạng đặt tên gọi cho “Nam Bắc trực, Tả Hữu kỳ và Nam Bắc kỳ (Quảng Nam, Quảng Ngãi là Nam trực; Quảng Trị, Quảng Bình là Bắc trực; Bình Định đến Bình Thuận là Tả kỳ; Hà Tĩnh đến Thanh Hoa (nay là tỉnh Thanh Hóa) là Hữu kỳ; Biên Hòa đến Hà Tiên là Nam kỳ; Ninh Bình đến Lạng Sơn là Bắc kỳ)”.

Theo Đại Nam thực lục (tập 4, nhóm dịch, NXB Giáo dục, 2007, tr.202) thì danh xưng Nam kỳ chính thức được vua Minh Mạng ra đời dù rằng đã xuất hiện trước đó trong các thư tịch, về sau dân gian quen gọi là Nam kỳ lục tỉnh (南圻六省).

Nguyên nhân cải cách Minh Mạng

Một vị quan Đại Nam ở Nam kỳ thời Minh Mạng

Và những năm đầu thập niên 1830, sau khi xóa bỏ lần lượt Bắc thành và Gia Định thành, vua Minh Mạng tiến hành cuộc cải cách hành chính quan trọng ngay sau đó. Thời vua Gia Long, bộ máy hành chính vận hành theo cơ chế phân quyền. Đàng Ngoài và Đàng Trong cũ được phân chia lại thành 27 trấn, doanh (hoặc dinh), triều đình Huế trực tiếp quản lý 4 doanh (Kinh kỳ) Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (sau đổi thành phủ Thừa Thiên), Quảng Nam và 7 trấn từ Nghệ An đến Bình Thuận.

Năm 1802, vua Gia Long thành lập Bắc thành, đặt chức quan Tổng trấn, ủy quyền cho quản lý trực tiếp 11 trấn (nội, ngoại) ở vùng đất phía bắc. Sáu năm sau, 5 trấn phía nam từ Bình Thuận trở vào được gọi là Gia Định thành. Đến năm 1826, vua cho đổi các doanh thành trấn.

Đứng đầu hai bộ máy hành chính Bắc thành và Gia Định thành là quan Tổng trấn. Năm 1831, Bắc thành chính thức giải thể, cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng bắt đầu từ tháng 10 ÂL năm 1831 ở phía bắc.

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ghi nhận: "Trong nhiều năm trị vì, vua Minh Mạng ban bố hàng loạt cải cách quốc nội. Ông đổi tên nước Việt Nam thành Đại Nam, lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở Huế, bãi bỏ chức Tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh, củng cố chế độ lưu quan ở miền núi. Quân đội cũng được chú trọng xây dựng (do liên tục diễn ra nội loạn và chiến tranh giành lãnh thổ với lân bang)".

Vua Minh Mạng còn cử quan đôn đốc khai hoang ở ven biển Bắc kỳ và Nam kỳ. Ông cũng rất quan tâm đến việc duy trì nền khoa cử Nho giáo, năm 1822 ông mở lại các kỳ thi Hội, thi Đình ở kinh đô để tuyển chọn nhân tài (...). Và rồi đúng một năm sau đó, ba tháng sau cái chết của Tổng trấn Lê Văn Duyệt, Gia Định thành cũng chịu chung số phận. Quyền lực của người Gia Định không còn, cũng kết thúc luôn quyền lực quân sự, và cả dân sự, của các viên võ quan nắm quyền Tổng trấn. (còn tiếp)

Tin liên quan

Tìm tài liệu: Nguyên nhân cải cách thời Minh Mạng

Xem Thêm