Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp 2 violet

Skkn một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 2

  • doc
  • 39 trang
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

PHẦN 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Chương trình toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán
học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát
triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu
về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có
lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản.
Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu
tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán,
phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, suy luận đơn
giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt
sáng tạo.
Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn
toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa
học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời
sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là ''chìa khoá'' mở của cho
tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong
thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà
trường, đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho phát triển trí tuệ, óc
thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết thực trong cuộc sống
hàng ngày, để các em trở thành những người có ích cho xã hội.
Trong dạy - học toán ở lớp 2, việc cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100
chiếm một vị trí quan trọng. Có thể coi việc dạy - học và cộng trừ là '' hòn đá thử
vàng''.
Xuất phát từ thực tiễn triển khai thực hiện chương trình và các bộ môn học lớp
2 theo chương trình do bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo ban hành mà ngành
giáo dục và đào tạo hiện nay đang được toàn xã hội quan tâm ở mức cao nhất về
nội dung chương trình, chất lượng dạy học.
1

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Chất lượng giáo dục đào tạo trong các nhà trường đã được nâng cao lên song
vẫn còn hạn chế : học sinh chưa khai thác hết khả năng tiềm ẩn trong nội dung
bài học để từ đó tìm ra chìa khoá giải quyết vấn đề .
Đối với giáo viên thời gian gần đây đã được tham gia các lớp học bồi dưỡng
thay sách. Nhiều thầy cô đã được công nhận là giáo viên dạy giỏi các cấp , tuy
nhiên còn không ít thầy cô chưa khuyến khích học sinh học tập một cách chủ
động, sáng tạo đặc biệt là vận dụng kiến thức đã học trong đòi sống.
Về nhận thức mỗi giáo viên phải thấy đổi mới phương pháp dạy học là góp
phần nâng cao chất lượng dạy học.
Đáp ứng việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học năm học 20... - 20... tôi
đã thực hiện đề tài này cho thấy kết quả dạy học đã được nâng lên , bước đầu
khuyến khích học sinh học tốt hơn. Qua một năm thử nghiệm bổ sung nhiều
thiếu sót, đúc rút kinh nghiệm , năm học 20... - 20... tôi tiếp tục vận dụng đề tài
“Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 2” trong giảng dạy môn
toán 2 phần cộng , trừ có nhớ trong phạm vi 100, nhằm trang bị cho học sinh
một tư duy mới, một phương pháp mới khoa học và ưu việt.
II. Mục đích nghiên cứu
- Từ đầu năm học tôi đã chú trọng đến việc rèn kĩ năng thực hiện phép
tính cộng, trừ để học sinh tiếp thu tri thức có hệ thống, đó là việc rất quan trọng
và cần thiết của người giáo viên hiện nay nhằm giúp cho học sinh bắt kịp trình
độ khoa học kĩ thuật tiên tiến và sự đổi mới đất nước, sự cần thiết phải đổi mới
con người chính vì vậy tôi mới đặt vấn đề nghiên cứu.
III. Kết quả cần đạt

IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đề tài này áp dụng cho tập thể giáo viên lớp 2 trường Tiểu học THTH.
2

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

- Rèn cho học sinh lớp 2 kĩ năng tính toán.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
- Học sinh có hứng thú học môn toán hơn vì trước đây bài làm của các em
thường bị điểm thấp.
- Làm thay đổi suy nghĩ trước đây của đồng nghiệp, xuất phát từ những quan
điểm trên, bản thân lựa chọn phương pháp dạy toán phù hợp với trình độ phát
triển của học sinh. Rèn kỹ năng toán để góp phần nâng cao chất lượng dạy –
học môn Toán .

3

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

PHẦN 2 - NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều
được giảng dạy thông qua việc hai phép tính cộng, trừ. Giúp học sinh củng cố,
vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc thực
hiện phép tính cộng, trừ của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện
những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để
giúp các em phát huy những ưu điểm khắc phục thiếu sót.
Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện
thông qua việc cho học sinh tính toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một
cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành
cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó
trong cuộc sống.
Việc tính toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những
cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật
biện chứng.
Việc tính toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực
tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán,
tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực. Hoạt động trí tuệ có trong
việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận,
chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm
tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v...
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Giáo viên thực hiện đầy đủ các yêu cầu của tiết dạy, tăng cường luyện tập thực
hành , hình thành kĩ năng toán học cho học sinh , song việc khuyến khích học
sinh tính bằng nhiều cách, lựa chọn cách tính còn hạn chế. Học sinh thuộc bảng
4

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

cộng trừ , nắm được thuật tính, chưa thấy được sự đa dạng phong phú của các
bài tập , khả năng vận dụng cộng trừ nhẩm trong đòi sống chậm .
III. Mô tả nội dung
Đơn vị cơ bản của quá trình dạy học là các tiết dạy vì vậy trong uqá trình dạy
học giáo viên phải nghĩ đến từng tiết học .Bất cứ tiết học nào cũng có một số bài
tập để củng cố , thực hành trực tiếp các kiến thức mới, giáo viên vừa giúp học
sinh nắm chắc kiến thức kĩ năng cơ bản nhất vừa hình thành được phương pháp
học tập cho các em .
Cùng với việc đổi mới về cấu trúc, nội dung sách giáo khoa, trong mỗi tiết học
giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động học tập giúp các em nắm được
kién thức cơ bản về phép cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100, khuyến khích học
sinh tìm ra kết quả bằng nhiều cách .Đồng thời hình thành và rèn cho học sinh
các kĩ năng thực hành về cộng trừ, đặc biệt là kĩ năng tính và giải quyết vấn đề
thông qua cách cộng trừ nhẩm. Với cách cộng trừ nhẩm giúp học sinh khắc sâu
kiến thức thấy được sự đa dạng và phong phú của các bài tập , từ đó tập cho học
sinh thói quen khai thác nội dung tiềm ẩn trong từng bài tập, lựa chọn cách giải
tốt nhất cho bài làm của mình , vận dụng ngay cách cộng trừ nhẩm của tiết học
trước trong các tiết dạy tiếp liền, vận dụng trong đời sống một cách chủ động,
linh hoạt và sáng tạo.
Khi dạy toán cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100 cho học sinh lớp 2 tôi luôn
yêu cầu học sinh tính bằng nhiều cách trong đó có vận dụng tính nhẩm để tìm
nhanh kết quả .
Các bước được tiến hành như sau:
A- phép cộng :
Các bài dạng 9 +5; 29+5;49+25
* Bài 9 cộng với một số : 9+5
- Học sinh thực hiện tính 9+5 bằng các thao tác trên que tính, có thể trả lời theo
nhiều cách để tìm ra kết quả 9+5 = 14
5

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

- Đặt tính rồi tính
9
+5
14
- Học sinh nắm được thuật tính
- Dựa vào hình vẽ sgk (trang 15) khuyến khích học sinh tìm ra cách làm nhanh
nhất : “tách 1 ở số sau để có 9 cộng với 1 bằng10 , lấy 10 cộng với số còn lại của
số sau”. Cách thực hiện này yêu cầu học sinh phải huy động các kiến thức đã
học ở lớp 1 (9+1=10, 5 gồm 1 và 4) để tự phát hiện nội dung mới và chuẩn bị cơ
sở cho việc lạp bảng cộng có nhớ.
- Lập bảng cộng dạng 9 cộng với một số và học thuộc chẳng hạn
9+2=
9+3=
9+4=
...
9+9=
+ Cách 1”
Học sinh tự tìm ra kết quả bằng các thao tác trên que tính .
+ Cách 2:
Cho học sinh nhận xét về các phép tính ? ( số hạng thứ nhất của các phép tính
đều là 9) khi cộng 9 với một số tách 1 ở số sau để có 9 +1 = 10 cộng với số còn
lại của số sau rồi tính nhẩm . Với cách này học sinh khắc sâu kiến thức, tránh
lạm dụng đồ dùng trực quan.
Học thuộc công thức cũng chỉ là bước đầu chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên giúp
học sinh nhận ra: học không phải chỉ để biết mà học còn để làm, để vận dụng.
Thông qua hệ thống bài tập học sinh biết cách vận dụng những kiến thức cơ
bản đã học để làm bài, giáo viên khuyến khích học sinh tìm kết quả bằng nhiều
cách , nhận xét đưa ra cách giải nhanh nhất.
6

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

+ Chẳng hạn:
Bài tập 1: Tính nhẩm trang 15
9+3= 9+6= 9+8 =

9+7=

9+4=

3+9= 6+9= 8+9= 7+9= 4+9=

+ Cách 1: Trên cơ sở học thuộc bảng cộng học sinh tự tìm ra kết quả ở mỗi
phép tính.
+ Cách 2: Dựa vào cách tính nhẩm học sinh tự nêu kết quả rồi đọc (chẳng hạn :
9+1 =10, 10 +2 =12)
- Diền ngay 9+3=12 (vì khi đổi chỗ các số hạng trong một tổng thì tổng
không thay đổi)
- Bài tập 3 Tính (trang 15)
9+6+3= 9+9+1= 9+4+2=

9+5+3=

- Giáo viên yêu cầu học sinh chọn phương pháp giải, chẳng hạn : 9+9 +1 =18
+1 =19
- Hay 9+9+1=9+10=19
- Bài 29 +5
+ Cách 1 (SGK) 29 +5 =?
29

*9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1

+ 5

*2 thêm 1 bằng 3, viết 3.

34
+ Cách 2 Vận dụng cách tính nhẩm của bài 9+5 các em có thể tính như sau: 29
+5 =
29 +1+4=30+4=34
- Bài 49 +25
+ Cách 1 (SGK) 49 +25 =
49
+25

* 9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1.
*4 cộng 2 bằng 6, thêm 1 bằng 7, viết 7.

74
+ Cách 2 Tính nhẩm: 49+25=49+1+24=50+24=74
7

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

*Các bài dạng 8+5;7+5;6+5; 28+5;47+5;26+5; 38+25;47+25;36+15
+ Thực hiện tương tự dạng như trên :
Học sinh ghi nhớ: muốn cộng nhẩm hai số ta làm tròn chục một số. Khi thêm
vào số có hàng đơn vị lớn hơn bao nhiêu đơn vị để số đó tròn chục thì phải bớt
đi ở số hạng kia bấy nhiêu đơn vị.
B. Phép trừ
- Các bài dạng 11-5 ; 31- 5 ;51-15
+ Bài 11trừ đi một số 11-5
- Học sinh thực hiện tính 11-5 bằng các thao tác trên que tính, có thể trả lời
bằng nhiều cách để tìm ra kết quả 11-5
đặt tính rồi tính
11

(Học sinh nắm được thuật tính)

-5
6
- Dựa vào hình vẽ SGK trang 48 học sinh tìm ra cách tính nhẩm: 11-5 =11-14=10-4=6
- Hướng dãn thực hiện các thao tác
11-5 =(11+5)-(5+5)
= 16

- 10

= 6

- Phát hiện cách trừ nhẩm : muốn trừ nhẩm ta làm tròn chục số trừ: khi thêm
vào số trừ bao nhiêu đơn vị để số đó tròn chục thì phải thêm vào số bị trừ bấy
nhiêu đơn vị.
+ Bài tập 1: Tính nhẩm trang 48
9+2=

8+3=

7+4= 6+5= 2+9= 3+8= 4+7= 5+6=

11-9= 11-2= 11-8= 11-3= 11-7= 11-4= 11-5= 11-6=
- Cách 1 : trên cơ sở thuộc bảng cộng trừ học sinh tự tìm ra kết quả mỗi phép
tính
8

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

- Cách 2: Dựa vào kiến thức đã học học sinh có thể điền ngay 9 +2 = 11 ; 2 +9
=11
Còn 11-9 ; 11-2, cần được đặt trong mối quan hệ với phép cộng 9 +2=11; 2+9
=11 và cách tìm một số hạng khi biết số hạng kia và tổng. Các cột còn lại thực
hiện tương tự.
Dựa vào cách tính nhẩm bài 11-5, học sinh vận dụng tính nhẩm trong các bài
tiếp theo.
+ Bài 31-5
- Cách 1 Đặt tính 31-5 =?
31

*1 không trừ được 5 lấy 11 trừ 5 bằng 6 viết 6 nhớ 1

- 5
26

*3 trừ 1 bằng 2 viết 2

- Cách 2 tính nhẩm
31-5 =(31+5) -(5+5)=
36 -

10 = 26

+ Bài 51-15
- Cách 1 (SGK) 51 -15=?
52

*1 không trừ được 5 lấy 11-5 bằng 6 viết 6 nhớ 1.

-15

*1 thêm 1 bằng 2, 5 trừ 2 bằng 3, viết 3

36
- Cách 2 tính nhẩm:
51-15 =(51+5) -(15+5)=
56 -

20

= 36

* Các bài dạng 12-8;32-8; 52-28;13-5;33-5;53-15;14-8;34-8;54-18
Thực hiện tương tự như trên.
IV. Kết quả nghiên cứu
9

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Với cách dạy cộng trừ nhẩm lồng vào từng bài học phần cộng trừ có nhớ , học
sinh hứng thú học tập, tích cực chủ động học tập theo năng lực cá nhân, học sinh
biết vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt sáng
tạo.
Học sinh có thói quen lựa chọn cách giải tốt nhất cho bài làm của mình, tạo
điều kiện phát triển tư duy, năng lực tự học, góp phần nâng cao chất lượng
Ở cuối học kì một chất lượng cả khối đạt như sau:

Thời gian

Tổng số

kiểm tra

học sinh

Kết quả
Giỏi

Khá

TB

Đầu năm

199

SL
65

Giữa kỳ I

199

81

44,1

85

52,7

33

Cuối kỳ I

199

53,5

64

32,3

29

14,2

Yếu

%
16,4

SL
71

%
45,1

SL
54

%
32,9

SL
9

3,2

0

%
5,6

106
Qua thực nghiệm dạy tính nhẩm ta thấy hiệu quả rất khả quan, số học sinh giỏi
được tăng lên đáng kể, số học sinh yếu không còn.
V. Bài học kinh nghiệm:
Hướng dẫn và giúp học sinh cộng, trừ nhanh nhằm giúp các em phát triển
tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, rèn
luyện tốt phương pháp suy luận lôgric.
Do vậy, việc giảng dạy tính toán một cách hiệu quả giúp các em trở thành
những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc
sống thực tế hàng ngày.

10

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu
không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bậc tiểu học, song
lại là cái mới đối với tổ khối 2. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã phát
hiện và rút ra nhiều điều lý thú về nội dung và phương pháp dạy học môn toán
có lời văn ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng. Chúng tôi cảm thấy
mình được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì, nhẫn nại, sự ham muốn, say xưa với
việc giảng dạy. Tuy nhiên đề tài này của chúng tôi là giai đoạn đầu nghiên cứu
trong lĩnh vực khoa học nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng
tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, của các bạn
đồng nghiệp.
Qua thời gian nghiên cứu, đồng thời áp dụng trong thực tế giảng dạy trên
lớp, chúng tôi nhận thấy đề tài có thể áp bước đầu trong khối lớp 2 và có thể
nhân rộng ra ở các khối lớp khác đặc biệt là khối 3.
Qua cách dạy đã nêu trên đây, so với các lớp học theo chỉ dẫn của sách
giáo khoa và sách giáo viên, tôi nhận thấy học sinh dễ hiểu bài hơn, dễ áp dụng

11

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

hơn. Qua kết quả học tập của học sinh lớp 2, các đồng nghiệp trong khối cũng
nhận thấy cách hướng dẫn trên là hay và có hiệu quả.
Nếu tính khả thi cao có thể áp dụng trong cụm chuyên môn bằng hình
thức báo cáo chuyên đề, thao giảng … để chúng tôi cùng với các anh chị đồng
nghiệp ở các trường bạn rút kinh nghiệm, giúp đề tài ngày càng hoàn thiện hơn,
tính khả thi ngày càng được nâng cao hơn.
II. Một số kiến nghị, đề xuất:
Qua thực tế giảng dạy môn toán ở Trường tiểu học nói chung và lớp 2 nói
riêng, chúng tôi thấy người giáo viên phải luôn luôn tìm tòi học hỏi, trau dồi
kinh nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức như:
trò chơi, đố vui.... phù hợp với đối tượng học sinh của mình: " Lấy học sinh để
hướng vào hoạt động học, thầy là người hướng dẫn, tổ chức, trò nhận thức chủ
động trong việc tính toán ''.
Không nên dừng lại ở kết quả ban đầu, mà nên có yêu cầu cao hơn đối với
học sinh. Trong khi giải phải yêu cầu học sinh đặt câu hỏi: ''Làm phép tính đó để
làm gì ?'' , từ đó có hướng cách tính đúng, chính xác.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà chúng tôi đã nghiên cứu và vận dụng
trong quá trình giảng dạy thực tế của khối lớp mình. Tuy kết quả bước đầu
chưa cao lắm, nhưng với nhiệt tình và nổ lực theo khả năng, chúng tôi cũng
đã tích lũy được một số bài học thực tiễn. Rất mong được nhận ý kiến đóng
góp của Ban giám hiệu cùng các bạn đồng nghiệp, để việc rèn cho học sinh kĩ
năng giải toán có lời văn ngày càng được quan tâm hơn, giúp các em tư duy
một cách toàn diện hơn.
…………., ngày … tháng … năm 20…
Người viết
12

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

MỤC LỤC
(Bạn có thể thay đổi - thêm bớt nên số trang thay đổi do vậy chúng tôi chỉ để
sẵn danh mục. Bấm phím tab sẽ ra các dấu … cách đều)
PHẦN I. MỞ ĐẦU
.........................................................................................................................
Trang 3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................4
2.......................................................................................................................
3.......................................................................................................................
4.......................................................................................................................
5.......................................................................................................................
13

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2
PHẦN II. NỘI DUNG .....................................................................................

1.......................................................................................................................
2.......................................................................................................................
3.......................................................................................................................
4.......................................................................................................................
PHẦN III. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ........................................................
1. KẾT LUẬN ...............................................................................................
2. KIẾN NGHỊ...............................................................................................
PHỤ LỤC.......................................................................................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán 2, NxbGD
2. Sách hướng dẫn giảng dạy Toán 2 (Sách Giáo Viên), NxbGD
3. Sách chuẩn kiến thức kĩ năng (Lớp 2) , NxbGD
4. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học
5. Giáo trình tâm lý học Tiểu học
6. Giáo trình giáo dục học ở Tiểu học
7. Chuyên đề giáo dục Tiểu hoc
8. Thế giới trong ta 101 câu hỏi – đáp về dạy môn Toán lớp một mới.
9. Báo Toán học tuổi trẻ.
10. Bộ GD&ĐT, Các đề thi có ma trận mẫu, www.thi.moet.gov.vn
11. Bộ GD&ĐT, Hướng dẫn nhiệm vụ năm học.
14

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

12. Nguyễn Cảnh Toàn, Luận bàn và kinh nghiệm về tự học, Tủ sách tự học,
1995
13. Nguyễn Cảnh Toàn, Tự giáo dục, tự nghiên cứu, tự đào tạo, NXB ĐHSP,
2001
14. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên môn toán chu kỳ 2004-2007
15. Trần Phương và Nguyễn Đức Tấn, Sai lầm thường gặp và các sáng tạo khi
giải toán, NXB Hà Nội – 2004
16. Số học bà chúa của toán học – Hoàng Chúng.
17. Một số tài liệu khác và tranh ảnh sưu tầm trên internet.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

BẢN CAM KẾT
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ
Họ và tên: ………………………
Ngày, tháng, năm sinh: …………
Đơn vị: Trường tiểu học ………..
Địên thoại: 0912345678
E-mail:
II. TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
15

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Tên SKKN:
III. NỘI DUNG CAM KẾT
Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng thành công trong
giảng dạy tại trường ………………………………... . Trong trường hợp có xảy
ra tranh chấp về quyền sở hữu đối với một phần hay toàn bộ sản phẩm sáng kiến
kinh nghiệm này mà tôi là người vi phạm, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo sở GD&ĐT. Sáng kiến kinh nghiệm này tôi cũng đã
phổ biến cho đồng nghiệp nên nếu có bạn đọc học tập, nghiên cứu, sử dụng, áp
dụng sáng kiến này tôi cũng không khiếu nại hay đòi hỏi quyền sở hữu.
…………, ngày … tháng … năm
20….
Người cam kết
(Ký, ghi rõ họ tên)

1. HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SƯ PHẠM ỨNG DỤNG
A.

Bảng so sánh sự giống và khác nhau giữa SKKN và NCKHSPƯD

Nội dung
Mục đích

Sáng kiến kinh nghiệm
Cải tiến/tạo ra cái mới nhằm thay
đổi hiện trạng, mang lại hiệu quả
cao
Căn cứ
Xuất phát từ thực tiễn, được lý
giải bằng lý lẽ mang tính chủ quan
cá nhân
Quy trình Tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của
mỗi cá nhân
Kết quả

Mang tính định tính chủ quan

NCKHSPƯD
Cải tiến/tạo ra cái mới nhằm thay
đổi hiện trạng, mang lại hiệu quả
cao
Xuất phát từ thực tiễn, được lý giải
dựa trên các căn cứ mang tính khoa
học
Quy trình đơn giản mang tính khoa
học, tính phổ biến quốc tế, áp dụng
cho mọi GV/CBQL.
Mang tính định tính/ định lượng
16

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

khách quan.
B. HƯỚNG DẪN CỤ THỂ
B1. Xác định đề tài nghiên cứu
Khi xác định đề tài nghiên cứu, cần tiến hành theo các bước sau:
1. Tìm hiểu hiện trạng
Căn cứ vào các vấn đề đang nổi cộm trong thực tế giáo dục ở địa phương như
những khó khăn, hạn chế trong D&H, QLGD làm ảnh hưởng đến kết quả dạy và
học/giáo dục của lớp mình, trường mình, địa phương của mình:
Ví dụ:
Hạn chế trong thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra đánh giá;
Hạn chế, yếu kém trong sử dụng thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học;
Chất lượng, kết quả học tập của học sinh ở một số môn học còn thấp (ví
dụ: môn Toán ; Tiếng Việt …);
Học sinh chán học, bỏ học;
Học sinh yếu kém, HS cá biệt trong lớp/ trường;
Sự bất cập của nội dung chương trình và SGK đối với địa phương

Trong rất nhiều vấn đề nổi cộm của thực tế giáo dục ở địa phương, chúng ta
chọn một vấn đề để tiến hành NCKHSPƯD nhằm cải thiện/ thay đổi hiện trạng,
nâng cao chất lượng.
Ví dụ:
Làm thế nào để giảm số học sinh bỏ học…?;
Làm thế nào để tăng tỉ lệ đi học đúng giờ đối với số học sinh hay đi học
muộn?;
Làm thế nào để nâng cao kết quả học tập của học sinh học kém môn Toán ?
Làm thế nào để giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số học tốt hơn môn Tiếng
Việt?.


17

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Sau khi chọn vấn đề nghiên cứu chúng ta cần tìm hiểu liệt kê các nguyên nhân
dẫn đến những hạn chế trong thực trạng và chọn một nguyên nhân để tìm biện
pháp tác động.
Ví dụ:
Nguyên nhân của việc học sinh học kém môn toán là:
Do chương trình môn toán chưa phù hợp với trình độ của học sinh;
Phương pháp dạy học sử dụng trong môn toán chưa phát huy được tính tích
cực của HS;
Điều kiện, đồ dùng, thiết bị dạy học Toán chưa đáp ứng;
Phụ huynh HS chưa quan tâm đến việc học của con em mình;

Từ các nguyên nhân trên, ví dụ ta chọn nguyên nhân thứ hai để nghiên cứu, tìm
biện pháp tác động.
2. Tìm các giải pháp thay thế
Khi tìm các giải pháp thay thế nên tìm hiểu, nghiên cứu, tham khảo các kinh
nghiệm của đồng nghiệp và các tài liệu, bài báo, SKKN, báo cáo NCKH có nội
dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu của mình. Đồng thời suy nghĩ, điều chỉnh,
sáng tạo tìm ra các biện pháp tác động phù hợp, có hiệu quả.
Ví dụ: Giải pháp thay thế cho nguyên nhân thứ hai ở trên là:
Sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn toán.
3. Xác định vấn đề nghiên cứu
Sau khi tìm được giải pháp tác động ta tiến hành xác định vấn đề NC, câu hỏi
cho vấn đề nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu.
Với ví dụ trên ta có tên đề tài là:
Sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn toán sẽ nâng cao kết quả
học tập môn toán của HS tiểu học ( lớp 2B trường … tỉnh…) hoặc
Nâng cao kết quả học tập môn toán cho HS thông qua việc sử dụng PP trò
chơi ( lớp 2B trường … tỉnh…)
Với đề tài này chúng ta có các câu hỏi cho vấn đề nghiên cứu sau:
Sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn toán có nâng cao kết
quả học Toán cho HS tiểu học không?
18

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Giả thuyết của Vấn đề nghiên cứu trên là: Có, sử dụng phương pháp trò chơi
trong dạy học môn Toán sẽ nâng cao kết quả học Toán cho HS tiểu học.
B2. Lựa chọn thiết kế
Trong phần thứ nhất, tài liệu đã giíi thiÖu các dạng thiết kế. Tuỳ vào điều kiện
thực tế: quy mô lớp học, thời gian thu thập dữ liệu, đặc điểm cấp học/m«n häc và
vấn đề nghiên cứu ®Ó lựa chọn thiết kế phù hợp.
- Thiết kế 1: Thiết kế kiểm tra trước và sau tác động đối với nhóm duy nhất.
Là thiết kế đơn giản, dễ thực hiện, đặc biệt đối với giáo viên tiểu học. Bởi vì
thiết kế này không làm ảnh hưởng ®Õn kÕ ho¹ch d¹y häc cña líp/ trêng, có thể sử
dụng học sinh của cả lớp, tất cả học sinh đều được tham gia vào nhóm nghiên
cứu. Hơn nữa với thiết kế này, ngoài việc thu thập dữ liệu qua bảng hỏi/bài kiểm
tra, người NC dễ quan sát nhận biết sự thay đổi qua hành vi, thái độ cña HS...
Tuy vậy, thiết kế này chứa đựng nhiều nguy cơ ảnh hưởng, kết quả kiểm tra sau
tác động tăng lên so với trước tác động có thể do một số yếu tố khác (ví dụ như
học sinh có kinh nghiệm hơn trong việc làm bài kiểm tra; tâm trạng của người sử
dụng công cụ đo ở những thời điểm khác nhau nên kết quả khác nhau,…). Do
đó, nếu sử dụng thiết kế này thì nên kết hợp c¨n cø vµo kÕt qu¶ cña bộ phiếu
hỏi/bài kiểm tra và qua quan sát, lập hồ sơ cá nhân.
VÝ dô đề tài: “Tác động của việc học sinh THCS hỗ trợ lẫn nhau trong lớp học
đối với hành vi thực hiện nhiệm vụ môn Toán” (do GV Singapore thùc hiÖn). Ở
đề tài này, nhóm NC đã tiến hành khảo sát trước tác động và sau tác động (qua
bảng phiếu hỏi và qua nhật kí của học sinh) về hành vi của học sinh trong việc
thực hiện nhiệm vụ trong học tập môn Toán đối với tất cả học sinh tham gia vào
qu¸ tr×nh nghiên cứu.
- Thiết kế 2: Thiết kế kiểm tra trước và sau tác động đối với các nhóm tương
đương.
Thiết kế này sử dụng 2 nhóm nguyên vẹn (toàn bộ 2 lớp học sinh) có sự tương
đương để làm nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm. .
Đây là thiết kế mang tính thực tế, dễ thực hiện đối với giáo viên, đặc biệt là
giáo viên THCS, THPT. Song đối với giáo viên tiểu học thì sẽ gặp khó khăn. Bởi
mỗi giáo viên chỉ dạy học trong một lớp (trừ giáo viên các môn ®Æc thï: Mĩ
thuật, Âm nhạc…).
VÝ dô đề tài: “Nâng cao kết quả học tập các bài học về không khí thuộc chủ đề
“Vật chất và năng lượng” cho học sinh thông qua việc sử dụng một số tệp có
19

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

định dạng FLASH và VIDEO CLIP trong dạy học”. Nhóm NC chọn 2 lớp: lớp
4A1 làm nhóm thực nghiệm và lớp 4A2 làm nhóm đối chứng. Hai nhóm có sự
tương đương nhau về khả năng học tập và tỉ lệ giới tính, dân tộc…
- Thiết kế 3: Thiết kế kiểm tra trước tác động và sau tác động đối với các nhóm
được phân chia ngẫu nhiên.
Yêu cầu bắt buộc là các nhóm ngẫu nhiên phải đảm bảo sự tương đương.
Có thể tạo lập 2 nhóm ngẫu nhiên ở các lớp khác nhau hoặc có thể phân lớp
thành 2 nhóm ngẫu nhiên nhng vÉn ph¶i ®¶m b¶o sù t¬ng ®¬ng. Đây là một thiết
kế hiệu quả nhưng rất khó thực hiện, vì nó ảnh hưởng tới hoạt động bình thường
của lớp học.
VÝ dô ®ề tài: “Nâng cao khả năng đánh giá và khả năng giải toán cho học sinh
lớp 8 thông qua việc tổ chức cho học sinh đánh giá chéo bài kiểm tra môn
Toán”. Nhóm nghiên cứu: chia lớp (trong lớp có 30 em HS) thành 2 nhóm, mỗi
nhóm 15 HS. Trình độ của học sinh trong 2 nhóm được xem là tương đương trên
cơ sở lựa chọn từ kết quả học tập do giáo viên bộ môn đánh giá. Nhóm nghiên
cứu tổ chức kiểm tra trước tác động và sau tác động cho cả nhóm đối chứng và
nhóm thực nghiệm.
- Thiết kế 4: Thiết kế chỉ kiểm tra sau tác động đối với các nhóm được phân chia
ngẫu nhiên. Không cần khảo sát/kiểm tra trước tác động vì các nhóm đã đảm bảo
sự tương đương (c¨n cø vµo kÕt qu¶ häc tËp cña häc sinh tríc khi t¸c ®éng ).
Người NC chỉ kiểm tra sau tác động và so sánh kết quả.
VÝ dô ®ề tài: “Tăng kết quả giải bài tập toán cho học sinh lớp 5 thông qua việc tổ
chức cho học sinh học theo nhóm ở nhà”. Nhóm nghiên cứu đã: phân chia lớp
(lớp có 30 học sinh) thành 2 nhóm ngẫu nhiên (đảm bảo sự tương đương), mỗi
nhóm 15 học sinh và chỉ kiểm tra sau tác động để so sánh kÕt qu¶ cña 2 nhãm.
- Thiết kế cơ sở AB/thiết kế đa cơ sở AB
Trong lớp học/trường học nào cũng có một số học sinh được gọi là “ HS cá
biệt”. Những HS này thường có các biểu hiện khác thường như không thích tham
gia vào các hoạt động tập thể; không thích học; thường xuyên đi học muộn; bỏ
học hoặc hay gây gổ đánh nhau; kết quả học tập yếu kém…Vậy làm thế nào để
có thể thay đổi thái độ, hành vi, thói quen không tốt của học sinh? Đây là một
20

Tải về bản full

SKKN MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.7 KB, 9 trang )

PHềNG GIO DC- O TO HUYN I LC
TRNG TIU HC TRNH TH LIN
.
SNG KIN KINH NGHIM
SNG KIN KINH NGHIM
ti:
ti:




















Ngửụứi thửùc hieọn
Ngửụứi thửùc hieọn
:
:






Nguyn Th Chớn
Nguyn Th Chớn


Chửực vuù:
Chửực vuù:
Giỏo viờn
Giỏo viờn


N
N
m hc
m hc
: 2014-2015
: 2014-2015
I/ TÊN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT
MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 2
II/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
- Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt, nó giúp học
sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những
ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những
tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
- Để làm được một bài tập làm văn, học sinh cần phải huy động các kiến
thức về tập đọc, từ và câu, về những kiến thức đã học, về môi trường xung
quanh, về vốn hiểu biết, … nói chung môn tập làm văn đòi hỏi là tổng hợp

các kiến thức mà học sinh đã học được ở các phân môn tiếng việt khác. Bởi
vậy, tập làm văn mang tính thực hành toàn diện, tổng hợp.
- Tập làm văn còn mang tính hiện thực sáng tạo vì một bài tập làm văn thể
hiện sự suy nghĩ, tư duy của cá nhân, là tác phẩm không trùng lặp của mỗi
học sinh.
- Khi dạy một bài tập làm văn, giáo viên hay gặp khó khăn là học sinh thụ
động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh khá giỏi là hoạt động
hoặc các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn, diễn đạt
lủng củng, ý tưởng nghèo nàn… Nói đã khó, viết càng khó hơn. Do đó, sau
một thời gian giảng dạy, tôi suy nghĩ nên làm cách nào để giúp các em hứng
thú khi học môn này. Chính vì vậy nên tôi chọn đề tài: “ MỘT SỐ BIỆN
PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 2”
III/ CƠ SỞ LÝ LUẬN :
- Phân môn TLV trong nhà trường giúp HS hình thành năng lực và thói
quen viết đúng, văn hoá, tiếng Việt chuẩn mực. Ở bậc tiểu học, phân môn
tập làm văn càng có vị trí quan trọng. Bởi vì, giai đoạn tiểu học là giai đoạn
then chốt trong quá trình hình thành kĩ năng viết văn cho HS. Phân môn này
có nhiệm vụ giúp HS nắm vững các qui tắc và hình thành kĩ năng viết hoàn
chỉnh một câu. Ngoài ra, phân môn tập làm văn còn rèn cho HS một kĩ năng
sống,biết giao tiếp với người lớn,dùng ngôn ngữ đối xử với bạn bè.
- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng nói, viết, nghe, đọc, phục vụ cho học
tập giao tiếp cụ thể là giúp các em :
- Nắm được các nghi thức lời nói như : chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn,
xin lỗi, nhờ, cậy, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành, từ chối, chia
vui, chia buồn, … Biết sử dụng chúng trong một số tình huống giao tiếp
ở gia đình, trong trường học và nơi công cộng
- Nắm được một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày như
khai bản tự thuật ngắn, viết những bức thư để nhắn tin, chia vui hoặc chia
buồn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh sách học sinh, tra mục lục
sách, đọc thời khoá biểu, đọc và lập thời gian biểu …

- Kể một sự việc đơn giản, tả sơ lược người, vật xung quanh theo gợi ý
bằng tranh, bằng câu hỏi.
- Nghe hiểu được ý kiến của bạn, có thể nêu ý kiến bổ sung nhận xét.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN :
Tình hình thực tế của lớp:
- Qua thực tế bài làm của học sinh tôi thấy chất lượng bài viết của học sinh
chưa cao, một số em có chịu khó tìm tòi, suy nghĩ, chọn lọc để viết ra những
câu văn nhưng chưa có nhiều sáng tạo . Còn lại phần lớn bài làm của các em
có bố cục chưa cân đối, mang tính liệt kê các chi tiết, bộ phận một cách đơn
giản. Trình tự chưa hợp lí, chọn lọc chi tiết chưa tiêu biểu, đặc sắc, thiếu từ
ngữ , học sinh thiếu sự tưởng tượng, ít cảm xúc về đối tượng , cách diễn đạt
chưa mạch lạc. Đa số học sinh còn lạm dụng quá nhiều vào bài văn mẫu, đặc
biệt là học sinh hiểu nhưng lại không diễn đạt được . Nhiều học sinh khi làm
bài văn cảm thấy khó, thấy bí, thấy không biết viết gì, nói gì , một số em
thường ngại làm văn hoặc chỉ làm cho xong mà không cần biết bài viết của
mình đúng hay sai, thiếu hay đủ.
- Học sinh còn luyện tập quá ít, các kĩ năng chưa hình thành nhưng vẫn cứ
phải sử dụng vào viết văn. Vì thế gây ra nhiều loại lỗi không đáng có
Qua khảo sát chất lượng đầu năm đối với môn tập làm văn, kết quả cụ thể
như sau:
Lớp Sĩ số Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu
2A 34 SL TL SL TL SL TL SL TL
2 5,9% 5 14,7% 8 23,5% 19 55,9%
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU :
1. Giới hạn của đề tài:
- Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh nghiệm
nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài
văn dành cho học sinh lớp 2 nhằm giúp học sinh nâng cao chất lượng khi
làm bài văn. Đây là một trong những kiểu văn trọng tâm trong chương trình
tập làm văn ở Tiểu học nói chung và phân môn tập làm văn ở lớp 2 nói

riêng.Việc giúp học sinh học tốt môn tập làm văn là điều tôi mong muốn các
em làm được bài văn ở các lớp trên sau này.
* GV định hướng cho học sinh biết cách quan sát đối tượng .
* Bồi dưỡng cho học sinh tâm hồn nhạy cảm và giàu cảm xúc.
* Bồi dưỡng vốn từ và giúp học sinh biết lựa chọn từ ngữ và sử dụng một số
biện pháp đã học vào việc viết văn.
* Giúp học sinh biết thể hiện tính sinh động và tạo hình trong bài văn.
* Giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc và tính chân thực trong bài văn .
* Giúp học sinh biết cách sáng tạo khi viết văn.
2. Các biên pháp tổ chức thực hiện
1/ Nghi thức lời nói :
- Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàng ngày.
Tuy nhiên , có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ít
nói. Bởi vậy, giáo viên phải dùng những biện pháp tích cực để các em
nhút nhát nói ra những điều mà các em suy nghĩ trong đầu. Có thể là
sắm vai, có thể là trò chơi hay thi đua cùng nhau … mỗi em có một
suy nghĩ khác nên lời nói cũng khác, giáo viên cứ để các em tự do
bộc lộ nhưng giáo viên cũng nên thống nhất những điểm chung sau :
• Đại từ xưng hô với đối tượng của bản thân mình phải phù hợp.
• Thái độ , cử chỉ, lời nói phải phù hợp với tình huống.
• Lịch sự, tự nhiên khi nói cũng như khi viết .
a/ Chào hỏi, tự giới thiệu, xin lỗi, mời nhờ, yêu cầu, đề nghị, chia buồn,
khen ngợi, chia vui…
- Đây là những câu nói thường ngày các em giao tiếp. Đa số các em đã
biết nói. Tuy vậy, để các em có thể nói rõ ràng, rành mạch hơn giáo
viên nên cho các em nhập vai bằng cách giao cho học sinh những tình
huống cụ thể
- Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh khi nói với từng
đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có
những đại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ thể hiện cũng khác

tùy tình huống vui hay buồn.
- Khi nói và viết lưu ý học sinh nên thêm những từ chỉ tình cảm để câu
văn thể hiện sự lễ phép, lịch sự như : nhé, nha, a …
b/ Đáp lời chào, đáp lời cảm ơn, xin lỗi, từ chối, chia vui …
- Tất cả những lời đáp trên rất hay gặp trong đời sống nhưng các em lại
rất ít nói, có em chẳng hề nói nên các em thấy hơi xa lạ. Thế nên, giáo
viên không chỉ dạy thực hành trong tiết học mà còn phải giáo dục các
em mọi lúc mọi nơi với một thời gian dài.
- Đối với lời đáp này các em thường ngại ngần không muốn nói nên
giáo viên cần cho các em sắm vai. Quan trọng hơn nữa là giáo viên
cần cho các em nắm rõ tình huống vì khi viết các em hay lầm lẫn giữa
lời đáp và lời nói.
Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì đã làm dơ áo em. Các em
có thể bị lầm và nói là : - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn.
Nguyên nhân là do các em chưa đọc kỹ đề, sự suy xét của các em còn
non nớt. Bởi vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kỹ đề bài. Đặt
mình vào tình huống của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có
vậy, các em mới không bị lầm lẫn.
- Ngoài ra giáo viên cũng cần lưu ý các em về thái độ lời nói với từng
đối tượng tương tự phần a .
c/ Nói và đáp lời khẳng định, phủ định:
- Có lẽ dạng này đối với các em tương đối dễ, các em chỉ cần nói có
hoặc không. Tuy nhiên, giáo viên cần giải thích cho các em thuật ngữ
khẳng định, phủ định. Vì nếu không giải thích, các em chỉ làm theo
mẫu trong sách giáo khoa mà không thể phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh. Còn nếu ta giải thích thì khi vừa gặp dạng bài này
các em sẽ tự giác hiểu và làm bài tốt.
- Riêng về đáp lời khẳng định, phủ định thì trong đời sống hàng ngày
các em ít khi nói. Bởi vậy giáo viên cần cho các em thực hành và sắm
vai. Ngoài ra, cần lưu ý tình cảm thể hiện qua thái độ.

Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ
định thể hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình
cảm của mình.
- Mặc dù đây là những kỹ năng phục vụ cho học tập và đời sống hàng
ngày nhưng các em lại ít được tiếp xúc. Bởi vậy, giáo viên cần cho
các em thấy một cách trực quan, thật rõ ràng. Khi dạy bản khai tự
thuật, danh sách học sinh, mục lục sách, thời gian biểu. Giáo viên phải
có một bản mẫu thật to để các em được nhìn và nghiên cứu. Giáo
viên phải chỉ rõ cách xem, cách lập, từ đó các em mới biết cách sử
dụng những kiến thức đã học được mà áp dụng vào cuộc sống hàng
ngày.
d/ Bản khai tự thuật
- Các em chỉ cần điền từ vào bản khai nên điều giáo viên cần lưu ý nhất
là khi cho các em chuẩn bị trước ở nhà những thông tin về lý lịch bản
thân. Lúc này cũng rất cần sự quan tâm của phụ huynh thì học sinh
mới làm bài tốt được. Đặc biệt, giáo viên cần nhắc nhở thường xuyên
về việc các em cần viết hoa các từ cần thiết như : tên riêng, tên địa
phương, … có những em chưa nắm được cách viết hoa chữ cái, có
những em viết sai chính tả tên địa phương. Vì bài này nằm ở đầu
chương trình nên học sinh còn chưa có thói quen.
e/ Viết tin nhắn, bưu thiếp
- Khi gặp dạng bài này các em rất ham thích. Giáo viên nên tận dụng
điều này để giúp học sinh nắm bố cục của bài là đầu tiên phải có thời
gian, địa điểm, có nội dung tin nhắn và cuối cùng là ký tên … Ngoài
ra, giáo viên có thể cung cấp thêm một số hình ảnh để người đọc tin
nhắn thêm vui vẻ.
Ví dụ: Khi nhắn tin cho ba mẹ là con đi học nhóm, các em có thể vẽ
thêm một cây bút, một quyển vở …
g/ Nhận và gọi điện thoại
- Trong thời đại ngày nay, việc nhận và gọi điện thoại là quá quen thuộc

với học sinh. Do đó, các em nói rất dễ dàng. Tuy nhiên khi viết các
em gặp nhiều trở ngại vì các em chưa nắm được khi nào là bản thân
mình nói, khi nào là người đầu dây bên kia nói. Bởi vậy, khi các em
viết ra sẽ nhầm lẫn và sai sót. Nên giáo viên phải giúp các em xác
định nhân vật . Có thể giúp các em hứng thú hơn bằng cách các em
chuẩn bị những chiến điện thoại, cho các em sắm vai, đọc kỹ đề và
tưởng tượng mình là nhân vật. Có thế khi các em viết mới không bị
nhầm lẫn.
2/ Viết đoạn văn
- Đây là dạng bài nòng cốt trong môn tập làm văn. Nó đòi hỏi ở người
học sinh vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi mắt quan sát tinh
tường, óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy, khi dạy dạng bài
này giáo viên cần nắm rõ tâm lý tuổi học sinh. Ở lứa tuổi này học sinh
nhìn nhận sự vật thế nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có em
rất tỉ mỉ quan sát, có em rất hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh khi
con muốn tả bất cứ cái gì thì các con phải hiểu rõ về cái đó. Con phải
tìm hiểu thông tin về cái đó. Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cô hay
quan sát thực tế qua môn tự nhiên xã hội, qua đọc sách, đọc báo, …
Giáo viên cần phối hợp nhiều phương pháp và hình thức dạy sao cho
bảo đảm với mục tiêu.
- Giáo viên yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện
tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì
qua thực tếm đôi khi tôi cho các em một bài tập tả một con vịt, có em
bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy con vịt thật. Quả đúng như vậy, vì
các em được sinh ra và lớn lên ở thành phố nên các em không nhìn
thấy con vịt là cũng đáng. Bởi thế giáo viên cũng cần sưu tầm những
phim ảnh để có thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát vật
thật, tham quan dã ngoại … hoặc vào dịp tết các em hay được ba mẹ
cho đi tham quan tắm biển, nhân đó, giáo viên có thể yêu cầu học sinh
quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển.

- Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ
phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết
vận dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên
chính là người cung cấp.Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài
tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc
đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó.
- Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ
ý và chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn.
Từ đó học sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ
sau này vận dụng. Ví dụ : qua bài Tôm Càng và Cá Con học sinh rút
ra được đoạn văn tả về chú Cá Con trong bài “Con vật thân dẹt, trên
đầu có đôi mắt tròn xoe, toàn thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh”.
Vốn từ còn có trong phân môn luyện từ và câu. Giáo viên có thể cho
các em chơi trò chơi, thi đua tìm từ ngữ tả về chú cá. Các em sẽ rất
hứng thú và tìm được rất nhiều từ.
- Tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục 3 phần : mở bài
(giới thiệu), thân bài (nội dung), kết luận (tình cảm) và lập sơ đồ trước
khi làm tập làm văn. Tôi xin gợi ý một cách lập sơ đồ thông qua một
trò chơi “em và chú gà” như sau . Ví dụ : Khi tả một chú gà, giáo
viên cho hai em lên sắm vai, một em là “chú gà”, một em là “người
tả”. Cùng lúc đó, giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở nháp.
• “Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà “nhà em có nuôi
một chú gà”
• Còn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tà : “tôi có bộ lông nhiều màu
sắc. Tôi có cái màu trên đầu. Tôi gáy rất to …”
• Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà : “Em
thường rải thóc cho gà ăn …”
Hoặc có thể tinh giảm em “người tả” chỉ cần một em sắm vai “chú
gà”.
- Sau khi nghe tả và quan sát xong các em thành lập ra một sơ đồ như

sau :
- Từ đó các em đã nắm được đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển
thành một đoạn văn. Hoặc ta có thể cho em hình thành một đoạn văn
qua trò chơi “tiếp sức”.
- Từ sơ đồ mạng đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo
thành câu, cứ thể nối tiếp nhau thành lập thành đoạn văn. Trong lúc
đó, giáo viên có thể ghi lại trên bảng, thế là đã có bốn đoạn văn mẫu.
Có thể câu văn lúc ấy còn lủng củng nhưng ta có thể sửa chữa.
- Trong phần giới thiệu, ta có thể gặp trường hợp sau :
Ví dụ : học sinh thành lập câu “Nhà em có nuôi một con gà”. Ta có
thể lưu ý rằng câu của con đúng nhưng chưa hay và có thể bị trùng lắp
với các bạn khác. Vậy con hãy thành lập một câu khác sao cho vừa
giới thiệu được chú gà, vừa lồng tình cảm của con vào để người đọc
cảm thấy thích thú như câu “Chú gà trống tía nhà em trông mới oai
vệ làm sao !” hoặc “ Ôi! Chú gà con nhà em sao mà ngộ nghĩnh
quá! …”
- Trong phần nội dung (quan trọng nhất) giáo viên luôn nhắc nhở học
sinh rằng nội dung thường có hai phần đó là : tả hình dáng và tả hoạt
động của con vật. Đây chính là lúc giáo viên phải khai thác triệt để
vốn sống của học sinh, đồng thời gợi mở để học sinh lĩnh hội kiến
thức mới. Đưa một số trò chơi như : viết tiếp sức một đoạn văn, sắm
vai người thân …. Để tạo sự hứng khởi trong học tập cho học sinh
đồng thời tiếp thu kiến thức một cách tự giác. Thông qua trò chơi,
Chú gà ở nhà em
Mào đỏ
Lông nhiều màu
Gáy to
Ăn thóc
Em yêu mến chú gà
Con gà

học sinh còn được phát triển cả về thể lực và nhân cách, giúp cho học
sinh học tiếng Việt một cách nhẹ nhàng hơn và tạo sự thân thiết giữa
thầy trò với nhau. Trò chơi về chú gà đã phần nào nói lên đặc điểm
của chú gà mà các em cần vận dụng để tạo thành đoạn văn. Khuyến
khích học sinh lồng cảm xúc vào bài.
- Khuyến khích học sinh diễn đạt tự do, suy nghĩ chân thật, thể hiện
thoải mái. Sau đó mới dần dần uốn nắn thì cách hành văn của các em
mới tự nhiên. Ví dụ : Khi các em nói về hoạt động của chú gà trống
như sau : “Nó đập cánh và gáy to lắm”. Ta có thể khuyến khích các
em là con tả đúng rồi nhưng nếu con sử dụng một số từ gợi tả hơn thì
chắc chắn câu văn của con sẽ hay hơn nhiều như “ nó vỗ cánh và
rướn cổ gáy vang “
- Để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh : Nhiều
từ ngữ gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình … Ví dụ : Mặt biển
xanh và rộng thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối
các câu văn lại thành những từ ngữ liên kết như : và, thì, nếu, vậy là
….
- Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay
những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự , ví dụ: Bác Hồ
thành Bác, Người… thay những từ ngữ thông thường thành những từ
ngữ trau chuốt hơn. Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình
minh. Ví dụ: Sau khi thành lập sơ đồ mạng, có thể các em sẽ thành
lập một đoạn văn như sau : “Nhà em có nuôi một chú gà . Nó có bộ
lông màu đỏ tía. Nó gáy rất to. Em rất yêu nó”. Giáo viên có thể
khuyến khích học sinh là “con làm đúng nhưng chưa hay. Từ những ý
tưởng ban đầu của con, chúng ta sẽ hình thành một đoạn văn hay hơn
nhé : “Chú gà trống nhà em trông mới oai vệ làm sao ! Toàn thân
nó phủ một lớp lông vũ màu đỏ tía. Sáng sáng, trống tía nhảy tót
lên ụ rơm đầu hè mà rướn cổ gáy vang ò ó o. Mỗi khi đi học về,
em thường rải cho nó một ít thóc và vuốt ve cái đuôi dài, cong

cong của nó”. Khi đó, học sinh sẽ thấy được vẫn là ý tưởng cũ nhưng
đoạn văn đã được lột xác, thêm thắt những từ ngữ trau chuốt hơn làm
cho đoạn văn đẹp hơn, nghệ thuật hơn.
- Giáo viên có thể sưu tầm những bài văn hay và đọc cho học sinh nghe
để học sinh học hỏi. Trưng bày những bài văn hay của các bạn trong
lớp để các em noi gương. Tập ghi chép những từ hay, ý đẹp khi bắt
gặp ở đâu đó vào một quyển từ điển riêng của mình. Từ đó, vốn từ của
các em sẽ ngày càng nhiều, càng phong phú.
VI/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
- Qua quá trình bồi dưỡng các em đối với môn tập làm văn tôi thấy các em
học tập tích cực hơn, hứng thú hơn, tự giác hơn. Các em không còn thấy
“sợ” học tập làm văn như trước đây nữa.
- Môn tập làm văn vì thế mà ngày càng có tác dụng giáo dục quan trọng góp
phần rất hiệu quả vào việc nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường.
- Qua kiểm tra khảo sát chất lượng cuối kì I năm học 2014-2015với đề văn
yêu cầu . Đây cũng là một trong những kết quả qua điểm số thống kê được
đối với môn tập làm văn tôi thấy chất lượng lượng môn tập làm văn đã được
nâng cao rõ rệt cụ thể như sau:
Lớp
2A
Sĩ số
34
Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung
bình
Điểm yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
10 29,4% 16 47,1% 8 23,5% 0 0%
Như vậy với việc áp dụng biên pháp giúp nâng cao chất lượng bài văn miêu
tả trong dạy môn tập làm văn ở lớp 5 tôi thấy chất lượng bài làm đã được
nâng cao, cho thấy việc áp dụng thử nghiệm trên là có hiệu quả.

VII/ KẾT LUẬN
- Đề tài giúp học sinh có những bài viết sinh động,sáng tạo và mang
tính riêng biệt đã khép lại nhưng nó đã mở ra cho ta thấy việc dạy Tập
làm văn hay bất cứ phân môn nào khác dựa trên tính tích cực của học
sinh là vấn để rất cần thiết hiện nay. Nó đòi hỏi người giáo viên cải
tiến phương pháp dạy học của mình nhằm mục đích nâng cao chất
lượng và hiệu quả đào tạo. Đảm bảo mục tiêu cuối cùng của nhà
trường là đào tạo ra những con người phát triển toàn diện, hoàn thiện
năng lực ngôn ngữ của học sinh bao gồm việc làm giàu tiếng mẹ đẻ
cho các em.
- Từ đó, ta thấy được vai trò của người giáo viên rất quan trọng, chính
người giáo viên là người hướng dẫn, gợi mở, cố vấn trong các hoạt
động học tập, người mở ra khả năng tiềm ẩn của học sinh.
- Qua đề tài này, tôi mong muốn góp một phần tích cực vào việc giúp
cho học sinh làm văn tốt hơn. Tuy nhiên, với vốn kinh nghiệm còn
hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý chân
thành của thầy cô và các bạn.