Sự khác nhau giữa đạo cao đài và đạo phật

Phật Giáo và Cao Đài Có Liên Quan Nào Không?

Tạng Thư Phật Học

Kính gởi ban biên tập,

Tôi là người đến với giáo lý của Phật giáo thời gian không lâu, nên chưa rành và am hiểu hết những giáo lý cũng như nền móng xây dựng nên nền giáo lý của Phật giáo. Xuất thân từ ngoại đạo, nhưng tôi lại rất thích tìm hiểu về giáo lý của đạo Phật. Sức thu hút không chỉ là sự tìm hiểu có tính cách tò mò mà nó đã có cái gì đó trong siêu hình đã cuốn hút tôi vào và tiếp tục tìm hiểu sâu hơn về giáo lý của đạo Phật. Vì thiện duyên ít ỏi, nên chưa thông hiểu hết những gì mà chính bản thân còn nghi vấn.

Gần đây, có một người bạn thân xuất thân là tín ngưỡng của đạo Cao Đài cũng là đạo mà gia đình tôi đã tin tưởng, nhưng tôi thì lại thấy giáo lý của đạo Cao Đài có gì đó đã không phù hợp với lối suy tư của bản thân. Người bạn tôi cho biết, là tin Phật hay không thì trong Cao Đài cũng đã bao trọn Phật giáo trong đó, nên khuyên tôi không cần phải thọ giới Tam Quy. Nhưng trên đường tìm hiểu giáo lý của Phật giáo, tự bản thân của tôi nhận thấy, giáo lý của Phật giáo là con thuyền đưa người đến thẳng điểm rốt ráo giải thoát.

Vậy điều tôi muốn hỏi là, Phật giáo và Cao Đài có liên quan gì với nhau không, và Phật giáo có thừa nhận giáo lý Cao Đài là một phần đại diện cho Phật giáo hay không?

Tôi kính xin ban biên tập từ bi mà giải thích rõ cho tôi hiểu giúp tôi chọn đúng đường tu tập, gởi lòng tôn kính của mình nơi bậc giác ngộ.

Xin biết ơn nhiều.

Trương Thái Hòa


Kính gởi đạo hữu Trương Thái Hòa,

Trước khi chúng tôi mạo muội trả lời các câu hỏi của đạo hữu, xin cho chúng tôi đôi lời bày tỏ trước.

Để tránh đụng chạm đến những giáo lý của ngoại đạo. Chúng tôi xin không bàn đến những giáo lý của họ. Nhưng vì đạo hữu hỏi chúng tôi sự khác biệt giữa Phật giáo và Cao Đài, và Phật giáo có thừa nhận Cao Đài là một phần đại diện của Phật giáo hay không? Vấn đề này vì liên quan đến giáo lý của Phật giáo, nên chúng tôi cần phải làm sáng tỏ. Chớ không hề cố tâm đụng chạm hay phản bác, cho nên mong đạo hữu cùng những ai sẽ có thắc mắc tương tự tự hiểu và hoan hỷ cho, chúng tôi vô cùng biết ơn.

Kính thưa đạo hữu,

Chúng tôi thân phận là người con Phật mạnh dạng trả lời rằng, giữa giáo lý của Phật giáo và Cao Đài không hề có sự liên quan nào cả. Phật giáo cũng sẽ không thừa nhận rằng Giáo lý Cao Đài là một phần đại diện nào đó cho giáo lý của Phật giáo. Tuy biết rằng trong giáo lý Cao Đài đã vinh danh chư Phật (nhưng còn rất hạng hẹp, trói buộc, thiển cận và kém hiểu biết về quả vị của Phật, khi đặt đức Phật dưới quyền lãnh đạo của Thượng Đế), và đã lấy phần nào kinh điển của Phật giáo để làm nền tảng giáo lý của Cao Đài, với cái định nghĩa của họ là:

“Các tín đồ Cao Đài cho rằng sau một thời gian phổ độ, các giáo lý được Thượng đế truyền dạy theo thời gian đã bị các tín đồ diễn giải sai lạc, không còn mang đúng giáo lý nguyên thủy của Ngài. Vì vậy, Thượng đế một lần nữa đã truyền dạy cho các đệ tử của mình ở các nơi trên thế giới, thực hiện nhiệmvụ chấn hưng nền đạo. Từ đó hình thành Phật giáo Đại thừa, Đạo giáo, Khổng giáo, Thiên Chúa giáo. Thời kỳ này các tôn giáo được chấn hưng và phát triển mạnh mẽ, vượt ra khỏi ranh giới vùng miền quốc gia, dần truyền bá ra thế giới“.

Thật là tội lỗi khi cho rằng Đức Phật là một trong những tín đồ, thừa lệnh của thượng đế để giảng đạo, và đã giảng sai lệch, nên nay mới gôm tựu lại hết những giáo lý của những tôn giáo khác v.v….

Phật giáo không bao giờ tin tưởng vào Thượng Đế, thì làm sao Cao Đài có thể là một phần tử đại diện cho giáo lý nhà Phật được hay có liên quan gì? Giáo lý của Phật giáo là chính từ kim khẩu của đức Thế Tôn nói ra, còn giáo lý của Cao Đài là do ứng cơ mà thành lập, thì quá là xa vời đối với giáo lý của Phật giáo. Người tự xưng là Cao Đài Tiên ông cũng là giáo chủ của đạo này, khi cho rằng đức Phật cũng là một trong những tín đồ thừa lệnh giảng pháp tuỳ vào thời cơ, nên nay đã đến lúc Tiên Ông mới giáng cơ và thâu tóm về một tôn giáo (Cao Đài).

Thật tội lỗi, khi cho đức Phật còn hạng hẹp dưới quyền lãnh đạo của Cao Đài Tiên Ông. Người giáng cơ này thật sự là ai? Muốn biết thì phải học Phật thì sẽ rõ. Giáo lý đó chưa được đức Thế Tôn thừa nhận, nên Phật giáo không bao giờ thừa nhận rằng Cao Đài là một phần tử đại diện cho Phật giáo. Giữa Phật giáo và Cao Đài tuyệt đối chẳng có liên quan gì với nhau, giáo lý của Phật giáo và kinh điển của Phật giáo mà họ lấy làm một trong những giáo lý của Cao Đài thì tuỳ họ, họ thích thì cứ lấy, nếu có thể theo đó mà tu tập thì là tốt thôi, việc này không có gì trở ngại cả. Nhưng nếu muốn chứng được sự giác ngộ giải thoát rốt ráo thì họ cần phải trải qua một thời gian rất lâu xa, họ phải đi vòng quanh, rồi trở lại tu hành theo những pháp môn rốt ráo của Phật, mới có thể bước vào tòa nhà giải thoát. Tuyệt đối Phật giáo không thừa nhận rằng họ là phần đại diện nào cho giáo lý rốt ráo của nhà Phật.

Phật giáo lấy Duyên Khởi, Nhân Quả, Luân Hồi, Nghiệp Báo làm nền tảng căn bản. Đức Phật đã bác bỏ tin tưởng vào một đấng thần linh tối cao, có năng lực sáng tạo ra vạn vật và vũ trụ, và Ngài khẳng định: “ Nếu quả thật có một đấng Thượng Đế, có thể sáng tạo ra vạn vật và vũ trụ, thì chính người này là người tội lỗi vô cùng. Vì con người chỉ vâng mệnh hành theo ý của ông ta mà thôi”.

Cái gọi là Thượng Đế tối cao vô thượng của ngoại đạo, chính là vị vua trời Đế Thích (Đế Thích Hoàn Nhân) trong Phật giáo. Đế Thích chủ chính là vị chúa trời của tầng trời Đao Lợi, vị chúa trời này cai quản hết 33 tầng trời của cõi trời Đao Lợi trong Dục giới và ông ta cai quản luôn cõi nhân gian, bao gồm luôn cả cõi của chúng ta đang sinh sống. Ông ta là một vị chúa trời có đầy quyền lực, nhưng trong Phật giáo thì ông ta cũng chỉ là một vị hộ Pháp mà thôi. Vẫn còn nằm trong vòng sinh tử, cái tội lỗi lớn hơn khi cho đức Phật là một vị thần của Thượng Đế, ngồi dưới biểu tượng của Thượng Đế là Thiên Nhãn của đạo Cao Đài.

Để tránh đi sâu vào vấn đề, đụng chạm đến những người hiếu chiến, cuồng tín, nên chúng tôi xin nói rõ rằng, nếu quả thật chư Phật hay một vị Bồ tát nào mà tùy duyên hóa độ, phương tiện ứng thân, hóa thân ngoài Phật giáo, thì đều phải ẩn danh và mang tích khác. Tuyệt đối không thể mang hóa thân, ứng thân Phật hay Bồ tát, huống gì là chuyện giáng cơ mà đối với Phật giáo là tà pháp, vì sao. Vì tất cả những việc đó là biểu thị vấn đề ngoài Phật giáo, nên không thể xưng rằng là Bồ tát, hay Phật (giác ngộ) được. Vì danh từ Bồ tát, hay Phật đều mang ý là giác ngộ, mà giác ngộ thì là người của Phật giáo, tuyệt đối chẳng phải là biểu tượng của ngoại đạo.

Bồ tát Quán Thế Âm là một vị bồ tát vốn đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, vì lòng đại từ ẩn đại bày tiểu để cứu vớt muôn loại. Ngài là người đã giác ngộ thì không thể nào giáng cơ thuyết pháp như những gì tín đồ của Cao Đài đã đặt ra. Bồ tát Quán Thế Âm có thể hiện ra muôn ngàn ức thân hình và đối tượng khác nhau, để tuỳ duyên cứu độ chúng sinh, nhưng Ngài sẽ không hiện thân phận là Bồ tát hay Phật ở trong ngoại đạo, mà chỉ có thể hiện ra những vị thần hay những loại thân hình khác mà thôi.

Vì Bồ tát hay Phật là biểu tượng của sự Giác Ngộ, giải thoát rốt ráo. Ngoài Phật giáo sẽ không có giáo pháp nào là giác ngộ, giải thoát rốt ráo cả. Thần lực của Bồ tát Quán Thế Âm thật sự to tác và rốt ráo viên mãn biết dường nào, trong những bộ Kinh lớn đức Thế Tôn đã dạy và giảng giải rất rõ ràng về đại hạnh nguyện từ bi và oai lực của vị Bồ tát này to lớn không thể nghĩ đến, nếu muốn biết xin hãy đọc bộ “Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng” thì sẽ rõ. Trái lại trong giáo lý Cao Đài lại xem Bồ tát như là một thần linh và đặt Ngài vào vị trí ngang hàng với những vị thần khác của ngoại đạo, tội lỗi hơn nữa là xem Ngài như là một tôi tớ của Thượng Đế. Tội lỗi vô cùng.

Sự tin tưởng của tín đồ đạo Cao Đài, khi cho rằng đức Phật cũng giáng cơ để giảng pháp, dựa theo lời dạy của Phật đà thì hoàn toàn không thể xảy ra. Chúng tôi không dám nói là những người ứng cơ kia là giả dối, mà chúng tôi chỉ khẳng định tính cách riêng của Phật giáo mà thôi. Xin đừng xem Đức Phật như là một thần linh, đức Phật là người hoàn toàn giác ngộ viên mãn và giải thoát.

Cao Đài là Cao Đài không liên quan gì đến giáo lý của Phật giáo, mong đạo hữu hiểu rõ điểm này. Đối với Phật giáo thì Cao Đài cũng như những tôn giáo khác, là giáo pháp ngoại đạo, tin hiểu sai lầm. Có chăng cũng là phước báo của Nhân Thiên mà thôi. Dù trong đó đã có nói đến những kinh điển và giáo lý của Phật giáo. Nhưng người sáng lập ra đạo này, chẳng hiểu gì về Phật giáo cả. Khi đặt đức Phật vào vị trí của một vị thần linh nào đó, dưới quyền lãnh đạo của Thượng Đế, và tội lỗi hơn thế nữa, xem những pháp hạng hẹp, sai lầm đầy trói buộc của ngoại đạo, sắp ngang hàng và trên giáo pháp rốt ráo của chư Phật.

Người bạn của đạo hữu đã nói sai vì không hiểu gì về Phật giáo, nên mới bảo rằng, “Dầu tin hay không tin thì Cao Đài đã bao trọn Phật giáo trong đó“. Giáo lý của đạo Phật là sự rốt ráo viên mãn, còn Cao Đài là tư tưởng của thần linh, đầy trói buộc làm gì có chuyện là Cao Đài bao trọn Phật giáo, thật là hết sức tưởng tượng, như người mù sờ voi mà thôi. Một lần nữa, chúng tôi khẳng định rằng Cao Đài chẳng liên quan gì đến giáo lý rốt ráo của đạo Phật cả.

Nói tóm lại, người Phật tử chân chánh, chỉ nương tựa và gởi hết thân mạng của mình vào ba ngôi Tam Bảo là Phật – Pháp – Tăng. Ngoài ra người Phật tử chúng tôi không tin tưởng và nương tựa vào một đấng thần linh nào khác.

Phật giáo bác sự hiện hữu của một Thượng Đế có bản năng sáng tạo ra vũ trụ và vạn vật, nhưng Phật giáo không phủ nhận sự tồn tại của chư thần. Vì Trời, cũng chỉ là một trong sáu cõi luân hồi trong lục đạo; trời, người, a tu la, Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh. Nếu muốn hiểu được những sự thắc mắc này, chúng tôi tin tưởng rằng, Ngoài Phật giáo ra không ai có thể trả lời chính xác và chân thật hơn.

Như trên đã nói, chúng tôi chỉ phân biệt giữa giáo lý của Phật giáo với Cao Đài, và chúng tôi chỉ trả lời theo tính cách của người Phật tử, chớ không muốn đụng chạm đến bất cứ một ai. Đạo hữu muốn tu học theo Phật giáo để giải thoát thì Phật giáo chính là con đường lựa chọn sáng suốt nhất, còn nếu như không muốn giải thoát ra khỏi vòng luân hồi mà chỉ muốn hưởng phước báo Nhơn Thiên, thì đạo hữu có thể chọn theo ý thích của mình. Chỉ cần giữ giới, làm thiện, không sát hại và không tạo ra những điều ác, siêng làm việc bố thí và những việc lành khác để tích phước hưởng Phước báo Nhơn, Thiên.

Xin kính chúc đạo hữu sáng suốt, tin sâu lời Phật dạy để sớm được giải thoát chân chánh.

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.

Trân trọng,


Xin chân thành cám ơn ban biên tập, đã giúp chỉ bày mối nghi. Giúp cho tôi có đủ lòng tin để đi sâu và tìm hiểu giáo lý của đạo Phật.

Kính thưa ban biên tập, tôi thường nghe đạo Phật nói là ” Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh” hay ” Ta là Phật đã thành các con là Phật sẽ thành”. Theo vậy thì những người tu hành theo tà Pháp của ngoại đạo cũng có Phật tánh nữa sao và họ cũng sẽ được thành Phật hay không?

Tôi muốn trở thành một người con Phật tử chân chánh, trước khi thọ giới Tam Quy Ngũ Giới, thì phải làm những gì, để thanh tịnh tâm và trở về nương tựa vào ba ngôi Tam bảo? Tôi rất tin tưởng vào trang nhà Tạng Thư Phật Học, qua lối trình bày và lòng từ bi của tất cả thành viên trong ban đã cho thấy lối tu hành của quý vị rất trân quý. Tôi được biết đến trang nhà là vì được vài Phật tử mà tôi quen biết giới thiệu, nên kính mong ban biên tập một lần nữa giúp tôi hiểu rõ, để thật sự trở về nương tựa nơi Tam bảo.

Xin cám ơn ban biên tập rất nhiều.

Trương Thái Hòa


Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tam Bảo!

Đạo hữu Trương Thái Hòa kính,

Chúng tôi thật không dám nhận những gì đạo hữu đã có lòng thiện cảm dành cho chúng tôi. Chúng tôi là người con Phật giúp được gì thì chúng tôi nguyện hoan hỷ làm hết khả năng, chớ không dám nhận rằng là chúng tôi giỏi hay công phu tu hành nào cả. Nếu thật sự có chút công phu thì chúng tôi không ở cõi này mà thọ khổ. Chỉ có lòng tin chắc thật đối với lời dạy của Như Lai, mong rằng được nương tựa vào lời dạy trí huệ và từ bi của chư Phật mà sớm được lên thuyền qua bờ giải thoát rốt ráo. Chúng ta nếu đã tin lời Phật thì trên bước đường tu học quyết phải vè vặt chớ để vọng niệm phát sanh, đó là điều quan trọng nhất. Cái đúng cái sai không do ở sách vở hay lời nói, mà nó thể hiện qua sự hiểu biết, sâu, cạn của người nghe nhận.

Như chúng ta thấy đó, cũng vì vậy mà trong Phật giáo có vô lượng pháp môn để thâu nhiếp tất cả chúng sinh, mà không bỏ sót một ai. Phật pháp ví như trận mưa Pháp lớn, không chỗ nào mà không đổ xuống, nhưng tuỳ theo cây lớn, nhỏ mà thu hút được lượng nước sai khác từ trận mưa Pháp. Cây lớn thì hút lượng nước lớn, cây nhỏ thì hưởng được một lượng nước nhỏ. Như vậy thì đâu phải lỗi của Phật Pháp, mà chỉ vì theo căn tánh của chúng sinh mà ra.

Cho nên người học Phật chúng ta, không nên phạm vào lỗi như nhiều người hiện nay đã vấp phải, là luận bàn thấp cao, hay dở v.v… Không thể y theo kiến thức của một bộ kinh này rồi bác bộ kinh kia, tu pháp môn này bác pháp môn nọ. Người như vậy là chưa thật sự hiểu gì, mà tất cả Kinh điển hay pháp môn đều là mối tương kết trợ giúp lẫn nhau, chớ không có sự chống trái nào hết. Có đi chăng cũng vẫn là ở lòng nhỏ hẹp của chính bản thân gây nên trở ngại.

Nhưng xét theo căn cơ và thời đại thì Pháp môn niệm Phật là một trong những Pháp môn rốt ráo nhất trong thời mạt Pháp này. Nhưng cũng chẳng phải vậy mà bảo rằng những pháp môn khác không còn có công năng đưa chúng sinh ra khỏi sông mê, mà hoàn toàn tuỳ thuộc ở người thật hành mà thôi. Sở dĩ nói Pháp môn niệm Phật là pháp môn hợp thời, hợp cơ, vì xã hội và phước báo của con người chỉ hưởng được phước báo Nhơn, Thiên. Xã hội theo thời đại thay đổi, điều kiện tu học cũng chẳng được chuyên nhất, trí huệ con người lại cũng giảm dần, xin lưu ý; trí huệ của nhà Phật nói không phải là cái trí thông minh của thế gian. Do đó, mà khó thực hành theo những Pháp môn khác để tự được giải thoát, nhưng nếu có bậc trí giả, giới luật, công phu đầy đủ thì cũng sẽ được giải thoát.

Chúng ta có thể thấy đó, sự tu chứng được đạo quả không phải do Pháp mà ở nơi người thực hành có đi đúng pháp mà Phật đà đã dạy hay không mà thôi.

Hai câu “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh” và “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành“, câu này nói cho đúng là ” Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” do từ kim khẩu của đức Thế Tôn nói ra, Đức Thế Tôn đã khẳng định như vậy.

Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, và cũng sẽ thành Phật trong đời vị lai, một khi họ y theo giáo pháp của Phật đã dạy. Phật tánh bao gồm hết hữu tình và vô tình, dù người đó là ngoại đạo hay Phật tử đều có Phật tánh đồng nhau, tất cả đều có thể thành Phật, cho đến loài súc sanh cũng vậy. Không phải vì họ là người tu theo ngoại đạo thì không có Phật tánh. Đây là chân lý thường hằng không bao giờ biến đổi, dầu có Phật hay không có Phật thì chân lý vẫn không biến đổi. Nhưng tại vì không có người đủ trí huệ để nhìn thấy biết, duy chỉ có đức Phật, đã trải qua 3 đại A Tăng kỳ kiếp tu Bồ tát đạo và chứng được Phật quả nên mới có thể thấu suốt được nguồn gốc, cội rễ của tất cả vạn vật, muôn loài chúng sinh và vũ trụ. Đức Phật đã thấy rõ nguyên nhân sự thành hình của vạn pháp, nguồn gốc dẫn đến sự hoại diệt của Vô Thường. Trong mười phương Pháp giới đức Phật đều thấy rõ nguyên nhân hết không chướng ngại chút nào, dù đó chỉ là một sự sai lạc nhỏ nhoi như giọt nước cũng không. Đây là trí tuệ viên mãn rốt ráo của một quả vị Phật, do công sức tu hành tinh tấn của Bồ tát trải qua 3 Tăng Kỳ Kiếp mà chứng được.

Như luật Nhân Quả vậy, không phải người Phật tử tin thì có, mà người ngoại đạo không tin thì không có. Dù tin có hay không thì luật Nhân Quả vẫn hiện hành, đức Phật là bậc đại trí và hoàn toàn giác ngộ, thấy rõ nguyên nhân dẫn đến quả khổ và vui nên nói ra, chớ không phải có Phật mới có luật Nhân Quả hay do chính Phật đã tạo ra luật này.

Phật đà là đấng trí huệ và hoàn toàn giác ngộ, đức Phật có thể thấy rõ tất cả nguyên nhân của vạn vật từ đâu có và sau khi diệt hoại sẽ đi về đâu của tất cả muôn loài chúng sinh, như thấy lằn chỉ trong lòng tay. Ngoài trời mưa bao nhiêu hạt đức Phật đều thấy biết chớ không bị chướng ngại. Quả vị Phật là sự rốt ráo viên mãn như thế đó.

Trong giáo lý của Phật tùy theo căn tánh của từng mỗi chúng sinh mà nói, hợp căn cơ mà thành lập. Giáo lý của đạo Phật như biển cả mênh mông, thâu nhiếp tất cả, pháp rốt ráo và pháp không rốt ráo đều thâu nhiếp vào đây. Giáo lý của Phật giáo đã bao gồm hết tất cả giáo lý của ngoại đạo, trái lại giáo lý của ngoại đạo tuyệt đối không thể bao quát được giáo lý của đạo Phật. Đây là nói theo tinh thần của Kinh Pháp Hoa tức là rốt ráo viên mãn, rồi tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật.

Đó là tinh thần rốt ráo viên mãn, phá chấp, nhưng khi thực hành thì Pháp ngoại đạo thì vẫn là ngoại đạo, vì là pháp trói buộc, tin hiểu sai lầm. Phật giáo vẫn là Phật giáo biểu trưng của sự giác ngộ và giải thoát. Muốn thông hiểu được những điều này, chỉ có học Phật mới có thể thấu suốt hết cội nguồn của pháp.

Tất cả chúng sinh hiện đang sống trong Pháp thân thường trụ của chư Phật, và tất cả muôn loài chúng sinh đều có đầy đủ đức tướng và trí huệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng, phân biệt và chấp trước tạo ra nhiều nghiệp ác cũng chính là tự tô dầu hắc lên mình nên không thể chứng đắc cũng chẳng thấy được sự thật. Nhưng nếu một khi y theo lời chỉ dạy của Phật thì tất cả đều viên mãn và thành Phật đạo rốt ráo như chư Phật không sai khác chút nào.

Chúng ta có thể thấy đôi chút qua mười đại hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền trong Kinh Hoa Nghiêm. Hai câu đầu trong mười câu đã nói lên ý nghĩa này rồi, và thật sự quá tuyệt hảo.

Thứ nhất lễ kính Chư Phật

Thứ hai xưng tán Như Lai

Hai câu này đã nói lên hết những thắc mắc và hoài nghi của đạo hữu. Đã giải tỏa hết bao sự thắc mắc của muôn loài chúng sinh.

Tại sao, không nói là xưng tán chư Phật mà lại bảo là xưng tán Như Lai. Đạo lý này thật ẩn chứa một diệu nghĩa vô cùng rốt ráo. Vì Phật là biểu trưng của sự tướng, Như Lai là biểu tượng của vô tướng. Nói đơn giản dễ hiểu hơn là, Phật là biểu tượng có Pháp có thể nói, Như Lai là biểu thị cho pháp không thể dùng lời nói hay trí hạng hẹp của sinh tử mà diễn đạt.

Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật nếu một khi họ đủ duyên giác ngộ và tu hành đều thành Phật cả. Nên khi thực hành bất luận là ai đều phải cung kính hết, nhưng không xưng tán, vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tánh nhưng chúng sinh chưa thành Phật, vọng niệm, đảo điên tin hiểu sai lầm, trôi lăn trong lục đạo.

Xưng tán Như Lai là vì biểu trưng cho sự giác ngộ viên mãn và giải thoát rốt ráo tận cùng. Đức Phật đã thật hành đúng Pháp và đã trở về với bản tánh thanh tịnh, không sinh cũng không diệt, không ở cũng không đi, không nói cũng không phải không nói, mà viên mãn rốt ráo tận cùng qua sự tu tập trải vô lượng kiếp tinh tấn hành Bồ tát đạo nên phải xưng tán.

Chúng ta phải có lòng cung kính đối với tất cả muôn loài chúng sinh, ngoại đạo, vì tất cả đều có Phật tánh. Nhưng tuyệt đối không xưng tán họ, hay giáo lý của họ cũng bởi ý nghĩa này. Nếu muốn hiểu được đạo lý này chúng ta phải thực lòng tu học Phật pháp.

Đạo hữu muốn thọ giới quy y, trước tiên là nên tìm một ngôi chùa thích hợp thường lui tới để gần gũi bên cạnh chư Tăng, và học hỏi những giáo lý căn bản, đạo hữu nên nhớ rõ rằng, giáo lý căn bản mà chúng tôi nói không phải như nhiều người nhằm lẫn là giáo lý hạng hẹp, nhỏ, mà chúng tôi nói giáo lý căn bản là nói đến những giáo lý tất cả người học Phật cần phải trải qua, phải thực hành, đây là đều bắt buộc chớ không phải giáo lý căn bản là pháp nhỏ, hạng hẹp dành cho người hạ căn đâu.

Sau một thời gian tìm hiểu và đã rõ được những giaó lý căn bản, cũng trong lúc đó tâm thành đều hướng về Tam Bảo, sám hối nghiệp chướng, cầu Phật gia hộ cho. Rồi mới thọ Tam Quy, Ngũ giới. Sau khi thọ Tam Quy Ngũ Giới phải quyết tâm giữ giới cho giới được thanh tịnh, làm những việc lành không làm việc xấu. Không được thờ hay xưng tán, lễ lạy quỷ thần. Chỉ có hướng về nương tựa ba ngôi Tam Bảo mà thôi. Làm được vậy là không phạm giới Tam Quy.

Hiện tại, có nhiều người đã là Phật tử, nhưng lại thờ những vị thần linh nữa, đây là đã Phạm vào Tam Quy “Con quy y Phật rồi, nguyện không quy y thiên thần, quỷ vật“.

Người Phật tử mới phát tâm, phải theo trình lớp mà giữ, chớ chưa được gì mà làm đủ thứ chuyện, như thờ, lạy nhiều vị thần v.v.. khi bảo thì họ bảo là phá chấp. Đúng và rất đúng, đó là phá chấp nhưng phải hỏi lại chính bản thân, chúng ta là ai? Còn những việc phá chấp là của hàng Bồ tát đạo. Những việc này trong vị lai chúng ta cũng vẫn phải trải qua. Việc làm đó, giới luật đó ai ai học Phật cũng đều phải trải qua nhưng tuyệt đối không phải là ở lúc này, nên hiểu rõ điểm này. Do đó, mà chúng tôi thường bảo rằng, tất cả đều do sự tu học và hiểu biết của cá nhân, chớ không lỗi ở pháp.

Đạo hữu hãy học để hiểu hết bộ Phật Học Phổ Thông của Hòa Thượng Thiện Hoa, để nắm rõ hơn những giáo lý căn bản của một người con Phật chân chánh.

Sau đó chọn một pháp môn thích hợp với bản thân rồi chuyên tâm hành trì, để được nhất tâm. Niệm Phật vãng sanh là pháp môn thích hợp nhất trong thời đại này. Nhưng cũng tùy theo căn duyên của mỗi người mà thôi, đó là hoàn toàn vào sự thích hợp với bản thân của đạo hữu. Ngoài ra cũng có thể phụ thêm những pháp khác, như trì chú, tụng kinh v.v… thật công đức không thể nghĩ bàn, nhưng phải chí thành, chân thật và nhất tâm.

Ngoài ra, thường nên đọc những bài khai thị của Hòa Thượng Tuyên Hóa, những bài pháp của Hòa Thượng Tịnh Không, những lời khai thị của Đại Sư Ấn Quang, để có lòng tin chân chánh cũng là nơi có thể y theo lời dạy quý báu của quý Ngài, để tinh tấn thực hành trên bước đường giải thoát.

Là người Phật tử chân chánh thường phải biết hổ thẹn, thường nghĩ đến công ơn của chư Phật, Cha Mẹ, Sư trưởng và xã hội. Phát đại nguyện, nguyện cho tất cả chúng sinh sớm viên mãn đại hạnh nguyện mà sớm thành Phật quả. Như thế nào đi chăng nữa, học Phật là quý ở chỗ thực hành, chớ chú trọng vào các sự tướng bên ngoài, hay dụng công ở đầu môi, phải sáng suốt và tinh tấn.

Chúc đạo hữu sớm thành sở nguyện, xin cầu chư Phật, Bồ tát và thánh chúng dẫn dắt đạo hữu vào con đường sáng suốt và tinh tấn, tin sâu lời Phật dạy, thực hành đúng Pháp, và sớm được giải thoát.

Xin nguyện cầu cho tất cả muôn loài chúng sinh, thường gặp duyên lành, trồng thiện căn, kết duyên vãng sanh, gặp Phật nghe chánh Pháp, đồng trọn thành Phật đạo.

Nam mô A Di Đà Phật!

Trân trọng,

Sự khác nhau giữa đạo cao đài và đạo phật

—————————————

Những Dòng Góp Ý và Cảm Nhận của Quý Thiện Hữu Phật tử

Chia sẽ:

  • Twitter
  • Facebook
  • Skype
  • Print
  • WhatsApp
  • Telegram
  • Email
  • LinkedIn
Thẻ:Tạng Thư Phật Học

Mục lục

  • 1 Lược sử hình thành và phát triển
    • 1.1 Những môn đồ đầu tiên
    • 1.2 Hợp nhất khai đạo
    • 1.3 Thăng trầm nền đạo
    • 1.4 Trong cơn động loạn của dân tộc
    • 1.5 Hợp tan - Tan hợp
    • 1.6 Hiện nay
  • 2 Tổ chức
  • 3 Các yếu tố từ các tôn giáo khác
    • 3.1 Phương Đông
      • 3.1.1 Phật giáo
      • 3.1.2 Lão giáo
      • 3.1.3 Thần Giáo
      • 3.1.4 Nho giáo
      • 3.1.5 Tín ngưỡng dân gian
      • 3.1.6 Ngũ chi Minh đạo
    • 3.2 Phương Tây
      • 3.2.1 Thiên Chúa Giáo
      • 3.2.2 Hồi giáo
      • 3.2.3 Thông linh học
  • 4 Giáo lý cơ bản
    • 4.1 Tam kỳ phổ độ
    • 4.2 Tam giáo QUY NGUYÊN CAO ĐÀI
    • 4.3 Thiên nhãn
  • 5 Những tính chất khác
  • 6 Một số tín đồ nổi tiếng
  • 7 Xem thêm
  • 8 Chú thích
  • 9 Tham khảo
  • 10 Liên kết ngoài

Lược sử hình thành và phát triểnSửa đổi

Lịch sử của đạo Cao Đài gắn liền với sự phổ biến Cơ bút tại Việt Nam đầu thế kỷ XX. Có thể nói, Cơ bút là nền tảng căn bản cũng như mọi yếu tố liên quan đến quá trình hình thành và phát triển của tôn giáo Cao Đài từ quá khứ đến hiện tại, từ việc thu nhận tín đồ, phong chức sắc, ban hành luật đạo, các nghi thức cúng tế, phẩm phục, kinh điển, thậm chí đến các thiết kế cơ sở thờ tự cũng được thông qua bởi hình thức Cơ bút.

Hai hình thức Cơ bút ảnh hưởng đến sự ra đời của tôn giáo Cao Đài là thuật Xây (xoay) Bàn (la table tournante) theo thuyết Thông linh học (Spiritisme) của Allan Kardec đến từ Pháp, và Đại ngọc cơ (大玉機) xuất xứ từ Trung Quốc.

Những môn đồ đầu tiênSửa đổi

Các tài liệu về tôn giáo Cao Đài đều thừa nhận người được xem là tín đồ đầu tiên của đạo là ông Ngô Minh Chiêu. Là một viên chức trong chính quyền thực dân Pháp, vốn chịu ảnh hưởng của Minh Sư đạo, một nhánh của Tam giáo, thường sử dụng hình thức cơ bút để giao tiếp với giới thần tiên, trong những năm 1921 đến 1924, ông đã thông qua các cơ bút để hình thành những nền tảng đầu tiên của đạo Cao Đài và truyền bá cho nhóm bạn hữu công chức tại Sài Gòn, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi một nhóm tu tập tịnh luyện, chứ chưa phát triển thành một Tôn giáo.

Cùng giai đoạn này, một nhóm công chức gốc Tây Ninh làm việc trong chính quyền thực dân Pháp khác ở Sài Gòn, chịu ảnh hưởng của phong trào Thông linh học[6] gồm Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang và Phạm Công Tắc, thường xuyên tổ chức cầu cơ ở đường Arras[7]. Do các thành viên ban đầu mang họ Cao và họ Phạm, nên còn được gọi là nhóm Cao - Phạm. Nhóm còn có một thành viên nữ là bà Nguyễn Thị Hiếu, tức Hương Hiếu, vợ ông Cao Quỳnh Cư. Nhóm này cũng được cho là tiếp xúc với Thượng đế qua danh hiệu AĂÂ vào khoảng tháng 7 năm 1925[8]. Nhóm cũng độc lập xây dựng nền tảng giáo lý riêng và cũng phát triển thêm nhiều người, quan trọng nhất là việc thu nhận thêm ông Lê Văn Trung, cựu Nghị viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, người có giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển đạo Cao Đài.

Hợp nhất khai đạoSửa đổi

Qua các liên hệ cá nhân, giữa các nhóm hầu cơ bắt đầu có sự liên hệ hợp nhất. Ngày 21 tháng 2 năm 1926, một bài thơ được lưu truyền là cơ giáng của Thượng đế, trong đó có tên của 13 người, về sau được tín đồ Cao Đài xưng tụng là những tín đồ đầu tiên của đạo, với tên ông Ngô Văn Chiêu được tôn xưng Anh Cả. Kể từ đó, những nền tảng giáo lý của Cao Đài được bổ túc và hoàn thiện dần. Chỉ trong mấy tháng, số lượng tín đồ nhanh chóng phát triển lên mấy trăm người. Một đàn cơ quy mô được thành lập ở Cầu Kho [9], về sau hình thành nên Thánh thất Cầu Kho.

Việc phát triển số lượng tín đồ nhanh chóng đòi hỏi phải có người lãnh đạo với quyền vị chính thức. Vì vậy, giữa cuối tháng 4 năm 1926, thông qua việc giáng cơ, các tín đồ đầu tiên đã tôn xưng ông Chiêu là Giáo tông và may sẵn bộ đạo phục riêng cho ông. Tuy nhiên, ông Chiêu từ chối ngôi vị Giáo tông, do những bất đồng trong việc hình thành giáo hội[10], và từ đó không tham gia cũng như không có liên quan gì đến các hoạt động phát triển của giáo hội Cao Đài.

Để có tư cách chính thức với chính quyền thực dân, ngày 7 tháng 10 năm 1926, các tín đồ gởi đến Thống đốc Nam Kỳ Le Fol một bản tuyên cáo khai đạo bằng tiếng Pháp với chữ ký của 28 tín đồ có địa vị cao nhất trong xã hội, kèm theo tờ khai tịch đạo của 245 tín đồ. Sau đó, các tín đồ tổ chức 3 nhóm truyền đạo khắp Nam Kỳ. Và ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần (tức ngày 19 tháng 11 năm 1926), các tín đồ Cao Đài đã tổ chức Đại lễ Khai Đạo tại chùa Gò Kén, còn gọi là Thiền Lâm Tự, Tây Ninh và ra mắt Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (tổ chức Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài) với sự hiện diện của quan chức chính quyền của cả người Pháp lẫn người Việt và đồng bào các giới.

Thăng trầm nền đạoSửa đổi

Tuy vậy, giữa các tín đồ đã xuất hiện những quan điểm bất đồng về cách thức tu tập, tổ chức giáo hội, hoặc do những mục đích cá nhân, cũng dần tách ra để hình thành các nhánh Cao Đài độc lập. Một số nhánh thành lập tổ chức giáo hội (Hội Thánh), một số khác hoạt động độc lập, cũng không thành lập tổ chức giáo hội. Ngoài ra, còn một số tổ chức của các tín đồ Cao Đài mang tính chất đoàn thể cũng được thành lập.

Lý giải cho hiện tượng này, các tín đồ Cao Đài tin rằng việc hình thành các nhánh Cao Đài khác nhau đã được Thượng đế tiên tri ngay từ lúc sơ khai chưa chính thức lập thành Cao Đài giáo, sẽ hình thành 12 nhánh Cao Đài. Tuy nhiên, với các nhà nghiên cứu, trong đó có cả tín đồ, số lượng các nhánh Cao Đài khác nhau tùy theo thời điểm chứ không cố định là 12 phái. Theo thời gian, các nhánh Cao Đài diễn ra nhiều cuộc chia tách, sáp nhập, thống kê trong lịch sử có hơn 30 tông phái khác nhau[11]. Rất nhiều nỗ lực hoạt động để thống nhất giáo hội nhưng đều bất thành do những chỉ trích và trở ngại từ nhiều phía, kể cả giữa các tín đồ.

Trong cơn động loạn của dân tộcSửa đổi

Sự phân chia các hệ phái không làm giảm tốc độ phát triển tín đồ trái lại càng mau chóng gia tăng số lượng tín hữu, Cao Đài nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng lớn ở Nam Kỳ, thậm chí phát triển ra cả ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ và cả Cao Miên. Các lãnh đạo Cao Đài đều là những người có học thức, có địa vị xã hội và rất có ảnh hưởng đến dân chúng. Vì vậy, Cao Đài luôn là đối tượng hoặc lôi kéo, hoặc đả kích của các thế lực nắm chính quyền.

Người Pháp ra tay trước tiên. Một tôn giáo có tổ chức và có nhiều khả năng lôi kéo quần chúng đe dọa đến sự cai trị của chính quyền thực dân. Dưới áp lực của thực dân Pháp, các chỉ dụ cấm đạo ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Campuchia và Lào đã được ban hành. Đỉnh điểm, ngày 28 tháng 6 năm 1941, lo ngại việc một tôn giáo hoạt động mạnh ở Sài Gòn và phụ cận có thể rơi vào ảnh hưởng của người Nhật, bấy giờ đã xâm nhập Đông Dương và ra sức lôi kéo các nhóm tôn giáo, chính trị người Việt ủng hộ Chính sách Đại Đông Á, chính quyền thực dân Pháp bất ngờ tấn công vào các tín đồ Cao Đài, bắt giữ Hộ pháp Phạm Công Tắc và đày đi Madagascar. Nhiều chức sắc Cao Đài khác cũng bị bắt giam hoặc quản thúc. Tòa Thánh Tây Ninh bị chiếm đóng. Nhiều thánh thất Cao Đài các cũng bị chiếm đóng hoặc phá hủy.

Cả người Nhật lẫn Việt Minh đều tranh thủ ra sức lôi kéo các nhóm Cao Đài. Do sự vận động của các cán bộ Việt Minh, một nhóm các chức sắc Cao Đài, nòng cốt ở các phái Tiên Thiên, Ban Chỉnh Đạo và Minh Chơn Đạo, đã bí mật thành lập Hội Cao Đài Cứu Quốc. Hội hoạt động chủ yếu ở các vùng xa ở Tây Nam Bộ, bí mật tập hợp lực lượng trên nền tảng Thanh niên Đạo đức đoàn dưới sự lãnh đạo của Cao Triều Phát cố vấn Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, có xu hướng chống cả Pháp lẫn Nhật. Người Nhật thì can thiệp mở lại Tòa Thánh Tây Ninh, đổi lại việc Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh), người tạm thời thay mặt Hộ pháp Phạm Công Tắc lãnh đạo các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, tập hợp các tín đồ hợp tác với quân đội Nhật để chống Pháp. Khá đông tín đồ Cao Đài được tuyển làm nhân công của xưởng đóng tàu Nichinan của quân đội Nhật tại Nam Bộ. Một lực lượng bán vũ trang Cao Đài được ra đời với tên gọi Nội ứng nghĩa binh, dưới danh nghĩa được Hoàng thân Cường Để chỉ thị thành lập để liên minh với Nhật Bản.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, lực lượng bán vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh mặc đồng phục trắng, đội mũ bê-rê, vũ trang bằng gậy tre vọt nhọn tham gia hỗ trợ Nhật đảo chính Pháp tại Sài Gòn. Bên cạnh đó, ngày 24 tháng 6 năm 1945, được sự hậu thuẫn của Hội Cao Đài Cứu Quốc, một đại hội các hệ phái Cao Đài (không có Tòa Thánh Tây Ninh) được tổ chức tại Sài Gòn, thành lập tổ chức Cao Ðài Hiệp Nhứt 11 Phái và bầu ông Cao Triều Phát làm Chủ tịch. Trong Cách mạng tháng Tám, nhiều nhóm bán vũ trang Cao Đài đã gia nhập Cao Đài Cứu Quốc và tham gia giành chính quyền ở khắp Nam Bộ.

Sau khi giành được chính quyền cuối tháng 8 năm 1945, nhiều chức sắc Cao Đài được chính quyền Việt Minh mời ra tham chính. Tại Tây Ninh, một tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là ông Trương Văn Xương được mời làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh, một chức sắc Cao Đài thuộc Tòa Thánh Tây Ninh khác là Giáo sư Thượng Chữ Thanh (Đặng Trung Chữ) được mời làm cố vấn.

Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, các nhóm lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tham chiến tại các mặt trận số 1 và số 2, chiến đấu ở mặt Đông và Bắc Sài Gòn. Sau khi vào Nam, đặc phái viên Trung ương Nguyễn Bình đã tổ chức hội nghị An Phú Xã, thống nhất tổ chức các đơn vị vũ trang thành các chi đội Vệ Quốc đoàn. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được tổ chức thành 2 chi đội số 7 do Nguyễn Thanh Bạch chỉ huy và chi đội số 8 do Nguyễn Hoài Thanh chỉ huy.

Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp, các mặt trận nhanh chóng tan vỡ. Nhiều đơn vị vũ trang tan rã, hoặc trở thành những lực lượng quân phiệt cát cứ, không chịu sự chỉ huy thống nhất. Một số chức sắc cao cấp và chỉ huy quân sự Cao Đài đã đưa lực lượng của mình rút về Tây Ninh và xây dựng các căn cứ để bảo vệ Tòa Thánh Tây Ninh. Hành động cát cứ này là lý do để các phần tử Việt Minh lên án các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là phản bội. Một vài cuộc xung đột đẫm máu đã nổ ra bắt nguồn từ những tín đồ Cao Đài và các phần tử Việt Minh. Chi đội số 7 và số 8 do Cao Đài chỉ huy bị Việt Minh tước khí giới trong những vụ bắt giữ. Hàng chục tín đồ Cao Đài bị chết trong các trận đánh với Việt Minh, nhiều nhất tại tỉnh Quảng Ngãi (miền Trung) và Trung Lập (miền Nam).[12] Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) cũng bị bắt tại Chợ Đệm và bị giải giam tại Cà Mau cùng với Giáo sư Hồ Văn Ngà, Chủ tịch Việt Nam Độc lập Đảng.[12]

Nắm được sự mâu thuẫn này và để tranh thủ thêm đồng minh trong cuộc chiến chống Việt Minh, chính quyền Pháp cho phép Hộ pháp Phạm Công Tắc trở về Tòa Thánh Tây Ninh, đổi lại các tín đồ Cao Đài sẽ không tấn công người Pháp và được quân Pháp bảo trợ. Thậm chí, chính quyền Pháp còn cho phép các lãnh thổ do Tòa Thánh Tây Ninh kiểm soát có quyền tự trị. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được chính quyền Pháp bảo trợ và trang bị vũ khí, do Trung tướng Trần Quang Vinh làm Tổng tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Văn Thành làm Tham mưu trưởng[13], có vai trò như một lực lượng bổ sung (Forces supplétives), hỗ trợ quân Pháp trong các chiến dịch tấn công Việt Minh.

Bất đồng với sự hợp tác này, một số chức sắc Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tham gia kháng chiến đã gia nhập Cao Đài Cứu Quốc, mở rộng thành Cao Ðài Cứu Quốc 12 phái Hiệp Nhứt. Các lực lượng vũ trang của Cao Đài Cứu Quốc được tập hợp thành Trung đoàn 124, chiến đấu cho đến hết cuộc Kháng chiến chống Pháp dưới quyền chỉ huy của Việt Minh. Phản ứng trước việc này, lãnh đạo Tòa Thánh Tây Ninh tuyên bố trục xuất các chức sắc và tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh nào tham gia Cao Đài Cứu Quốc.

Hợp tan - Tan hợpSửa đổi

Sau năm 1954, tổ chức Cao Đài Cứu Quốc tuyên bố giải thể. Các phái liên hiệp trước đây trở về sinh hoạt riêng rẽ. Một số chức sắc tập kết ra Bắc, hình thành Hội Thánh Duy Nhất thuần túy sinh hoạt tôn giáo dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại miền Nam, Tòa Thánh Tây Ninh dưới sự hậu thuẫn của người Pháp đã trở thành Hội Thánh Cao Đài lớn nhất, đại diện cho cả tôn giáo Cao Đài, có quân đội riêng, có ảnh hưởng chính trị mạnh, đã trở thành cái gai lớn thời Quốc gia Việt Nam dưới Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Để dẹp các trở ngại trong việc thâu tóm quyền lực, Thủ tướng Diệm đã mua chuộc, gây chia rẽ trong nội bộ, và cuối cùng tấn công lực lượng quân đội Cao Đài, buộc Hộ pháp Phạm Công Tắc phải lưu vong sang Campuchia cho đến ngày ông liễu đạo.

Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh chỉ được công nhận trở lại tại miền Nam từ năm 1965 theo sắc lệnh Số 3 ngày 12 Tháng Bảy của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia.[14] Sang thời Đệ Nhị Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, các tín đồ chỉ thuần túy sinh hoạt tôn giáo, không nên can thiệp vào chính trị, vì vậy các tổ chức Cao Đài không còn ảnh hưởng mạnh đến chính trị và xã hội như trước.

Các tín đồ Cao Đài một lần nữa phải chịu thử thách khi những người Cộng sản nắm quyền kiểm soát toàn bộ Việt Nam. Nhiều chức sắc Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh bị chính quyền mới buộc tội là đã cộng tác với những kẻ thù, thậm chí đã tham gia chống đối chính quyền mới. Năm 1979, một Hội đồng Chưởng quản Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được thành lập, đại diện cho giáo hội, đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền. Các tổ chức, hệ phái Cao Đài khác cũng là đối tượng công kích khi bị chính quyền mới buộc tội mê tín dị đoan. Các hoạt động tôn giáo hoàn toàn bị hạn chế, chỉ giới hạn những sinh hoạt trong nhóm nhỏ tín đồ.

Hiện naySửa đổi

Tòa Thánh Tây Ninh
Thánh thất Đa Phước tại Đà Lạt
Thánh thất tại New South Wales - Úc

Cùng với chính sách mở cửa của chính quyền Việt Nam, các tôn giáo, trong đó có cả Cao Đài giáo cũng hoạt động dễ dàng hơn. Tòa Thánh Tây Ninh được mở cửa lại cho các hoạt động tôn giáo lớn của hàng triệu tín đồ, thậm chí được xem như một điểm di tích tham quan du lịch nổi tiếng của Việt Nam. Từ năm 1995 đến 2011, chính quyền bắt đầu công nhận các tổ chức tôn giáo Cao Đài như những tổ chức hợp pháp, gồm 9 Hội Thánh Cao Đài, 1 tổ chức giáo hội Cao Đài Việt Nam (Bình Đức), 1 Pháp môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi và 18 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập. Ước tính hiện tại, toàn đạo có khoảng gần 3 triệu tín đồ trong cả nước, sinh hoạt tại 38 tỉnh thành, tập trung chủ yếu ở Nam Bộ. Ngoài ra, có khoảng 30.000 tín đồ nữa sống ở Hoa Kỳ, Canada, Campuchia, Châu Âu và Úc.

Các tổ chức giáo hội[15] Cao Đài được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân[16] xếp theo số lượng tín đồ:

  1. Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh: là tổ chức Hội Thánh Cao Đài nguyên thủy, được thành lập năm 1926, và cũng là Hội Thánh lớn nhất, là đại diện của tôn giáo Cao Đài, với hơn 2,5 triệu tín đồ, 400 Họ đạo với 387 Thánh thất, 145 Điện thờ Phật mẫu, phân bổ trong 39 tỉnh thành trong cả nước.[17] Khoảng 3 vạn tín đồ đang cư trú tại nước ngoài như Bắc Mỹ, Châu Âu, Úc, Campuchia. Địa bàn có đông tín đồ nhất là tỉnh Tây Ninh. Được Việt Nam công nhận pháp nhân hai lần, lần thứ nhất vào ngày 12 tháng 7 năm 1965 dưới thời Việt Nam Cộng hòa[18] và lần thứ 2 được công nhận vào ngày 9 tháng 5 năm 1997 dưới thời Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trung ương Hội Thánh đặt tại Tòa Thánh Tây Ninh (phường Long Hoa, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh).
  2. Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo: là tổ chức giáo hội Cao Đài lớn thứ hai, được thành lập năm 1934, quản lý hơn 80 vạn tín đồ, với hơn 299 thánh thất ở 25 tỉnh thành. Một số lượng nhỏ tín đồ cư trú tại nước ngoài. Địa bàn có đông tín đồ nhất là tỉnh Bến Tre. Được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân ngày 8 tháng 8 năm 1997. Trung ương Hội Thánh đặt tại Tòa Thánh Bến Tre (phường 6, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre).
  3. Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên: là tổ chức giáo hội Cao Đài lớn thứ ba, được thành lập năm 1932, quản lý hơn 8 vạn tín đồ, với hơn 127 thánh tịnh ở rải rác 15 tỉnh thành. Là Hội Thánh Cao Đài được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân sớm nhất vào ngày 29 tháng 7 năm 1995. Trung ương Hội Thánh đặt tại Tòa Thánh Châu Minh (xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre).
  4. Hội Thánh Truyền giáo Cao Đài: là tổ chức giáo hội Cao Đài lớn thứ tư, được thành lập năm 1956, quản lý gần 1,5 vạn tín đồ, với 61 thánh thất nằm rải rác 17 tỉnh thành. Địa bàn có đông tín đồ nhất tại Quảng Nam, Đà Nẵng. Được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân vào ngày 24 tháng 9 năm 1996. Trung ương Hội Thánh đặt tại Trung Hưng Bửu Tòa (phường Thạch Thang, quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng).
  5. Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo: là tổ chức giáo hội Cao Đài đứng thứ năm, được thành lập năm 1935, quản lý 47 thánh thất phân bổ trong 4 tỉnh. Địa bàn có đông tín đồ nhất tại Cà Mau. Được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân vào ngày 2 tháng 8 năm 1996. Trung ương Hội Thánh đặt tại Tòa Thánh Ngọc Sắc (xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau).
  6. Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý: là tổ chức giáo hội Cao Đài đứng thứ sáu, được thành lập năm 1931, quản lý khoảng 1 vạn tín đồ trên khắp 32 tỉnh, thành phố trực thuộc hệ thống 38 tỉnh, thành có cơ sở thờ tự Cao Đài, với 30 thánh thất và các trường quy[19]. Địa bàn có đông tín đồ nhất là tỉnh Tiền Giang, địa phương có nhiều thánh thất nhất là tỉnh Long An. Được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân vào ngày 14 tháng 3 năm 2000. Trung ương Hội Thánh đặt tại Tòa Thánh Chơn Lý (xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang)
  7. Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho Tam Quan: là tổ chức giáo hội Cao Đài đứng thứ bảy, được thành lập năm 1960, quản lý 33 thánh sở. Địa bàn có đông tín đồ nhất tại Bình Định. Được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân vào ngày 28 tháng 4 năm 2000. Trung ương Hội Thánh đặt tại Tòa Thánh Cầu Kho Tam Quan (xã Tam Quan, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định).
  8. Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu: là tổ chức giáo hội Cao Đài đứng thứ tám, được thành lập năm 1956, quản lý 16 thánh tịnh. Địa bàn có đông tín đồ nhất tại Hậu Giang, Cần Thơ. Được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân vào ngày 27 tháng 7 năm 1996. Trung ương Hội Thánh đặt tại Tòa Thánh Long Châu (xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang).
  9. Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý: là tổ chức giáo hội Cao Đài đứng thứ chín, được thành lập năm 1955, quản lý 14 thánh sở. Địa bàn có đông tín đồ nhất tại Kiên Giang. Được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân vào ngày 8 tháng 7 năm 1998. Trung ương Hội Thánh đặt tại Tòa Thánh Ngọc Kinh (xã Mông Thọ B, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang).

Ngoài ra còn 2 tổ chức Cao Đài cũng được công nhận tư cách pháp nhân là:

  1. Pháp môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi là một tổ chức pháp nhân đại diện của các tín đồ Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh[20], thành lập năm 1926, quản lý 8 cơ sở và khoảng 6.000 tín đồ. Địa bàn có đông tín đồ nhất tại Cần Thơ và Hậu Giang. Được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân vào ngày 26 tháng 4 năm 2010. Trị sở trung ương đặt tại Thánh Đức Tổ đình (phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ).
  2. Giáo hội Cao Đài Việt Nam Bình Đức: là một tổ chức giáo hội Cao Đài, được thành lập vào năm 1961, quản lý có 9 cảnh, 6 thánh thất, 16 cảnh Trường qui với hơn 2.300 tín đồ ở các tỉnh Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp và Thành phố Hồ Chí Minh[21]. Được nhà nước Việt Nam công nhận pháp nhân vào ngày 17 tháng 7 năm 2011. Trung ương giáo hội đặt tại Thiên Tòa Hoàng Đạo (xã Bình Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang).

chuabuuchau.com.vn,chuabuuchau, chua buu chau, chùa bửu châu, chua buu chau cu chi

Sự khác nhau giữa đạo cao đài và đạo phật
  • Danh mục
  • TRANG CHỦ
  • GIỚI THIỆU
    • Hòa Thượng Khai Sơn
    • Đôi nét về Chùa Bửu Châu
    • Sinh hoạt nội bộ
  • TIN TỨC
  • TỪ THIỆN
  • TU HỌC
    • Thiền
    • Tịnh Độ
    • Mật Tông
    • Duy Thức học
    • Phật Pháp vấn đáp
    • Sức khỏe - Sống - Chết - Tái sinh
  • KINH SÁCH
    • Kinh giảng
    • Luật giảng
    • Luận giảng
    • Kiến thức Phật pháp
  • LIÊN TÔNG TINH ĐỘ NON BỒNG
  • PHÁP ÂM
    • Video
      • Thích Nhật Từ
      • Thích Trí Huệ
      • Thích Pháp Hòa
      • Pháp Sư Tịnh Không
      • Hòa Thượng Tuyên Hóa
      • Thích Trí Quảng
      • Thích Phước Tiến
      • ĐĐ. Thích Minh Thành
      • Thích Thiện Thuận
      • Thích Thiện Xuân
      • Thích Nhất Hạnh
      • Thích Thanh Từ
      • Thích Chân Quang
      • Thích Chân Tính
      • Thích Giác Hạnh
      • TT. Thích Minh Thành
      • Thích Bửu Chánh
      • Thích Thiện Tuệ
      • Thích Vạn Mãn
      • Thích Nữ Hương Nhũ
      • Thích Nữ Như Lan
      • Thích Thiện Chơn
      • Thích Thông Phương
      • Thích Tuệ Hải
      • Thích Viên Minh
      • Thích Thiện Hữu
      • Thích Minh Niệm
      • Thích Giác Hóa
      • Thích Tâm Đức
      • Thích Phước Tịnh
      • Thích Chiếu Khánh
      • Thích Nữ Tâm Tâm
      • Thích Nữ Hạnh Chiếu
      • Thích Nguyên Hạnh
      • Thích Quang Thạnh
      • Thích Trí Siêu
      • Thích Thiện Pháp
      • Thích Chân Hiếu
      • Thích Pháp Đăng
      • Thích Trí Chơn
      • Thích Nguyên An
      • Thích Giác Đăng
      • Thích Minh Hiếu
      • Thích Giác Khang
      • Thích Trúc Thái Minh
      • Thích Giác Tây
      • Thích Đồng Thành
      • Thích Trung Đạo
      • Thích Thái Hòa
      • Thích Giới Đức
      • Thích Giác Toàn
      • Thích Thông Triết
      • Thích Khế Định
      • Thích Nữ Như Thủy
      • Thích Minh Đạo
      • Thích Giải Hiền
      • Thích Nguyên Hiền
      • Thích Minh Chơn
      • Thích Trí Đức
      • Thích Tánh Tuệ
      • Thích Giác Giới
      • Thích Phước Đức
      • Thích Viên Trí
      • Thích Thiện Chấn
      • Ấn Quang Đại Sư
      • Thích Minh Thông
      • Thích Giác Nhiên
      • Thích Trúc Thông Phổ
      • Thích Quảng Thiện
      • Thích Thiện Huệ
      • Thích Từ Thông
      • Thích Pháp Hải
      • Thích Ngộ Thông
      • Thích Chánh Định
      • Thích Phước Nghiêm
      • Thích Duy Lực
      • Thích Nữ Huệ Liên
      • Thích Chân Giác
      • Thích Pháp Quang
      • Thích Thiện Hoa
      • Thích Minh Nhãn
      • Thích Tịnh Quang
      • Thích Tâm Hải
      • Giảng sư khác
    • Kinh tụng
    • Nhạc Phật giáo
    • Phim Phật giáo
    • Hòa tấu - Thiền Phật giáo
  • NGHIÊN CỨU
    • Các mảng khác
      • Chuyên đề
      • Gương sáng Đời Tu
      • Giáo dục Hoằng Pháp
      • Phật giáo và Khoa học
      • Phật giáo và Tuổi trẻ - Đời sống
      • Phật giáo và Môi sinh
      • Phật giáo và Nữ giới
      • Phật giáo và Hôn nhân
      • Phật giáo và Triết học
      • Phật giáo và Cuộc sống
    • Nghi thức tổng hợp
    • Sử Phật giáo
    • Văn hóa
    • Truyện tích Phật giáo
    • Lời tiền nhân
    • Văn học
    • Góc suy ngẫm
    • Lời Phật dạy
    • Nghệ thuật sống
    • Luận văn - Hội thảo
  • HÌNH ẢNH
    • Ảnh Phật và Bồ Tát
    • Tập ảnh Chùa Bửu Châu
×
  • Trang chủ
  • TU HỌC
  • Phật Pháp vấn đáp
  • Đạo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Đạo Mẫu, Đạo Dừa có phải là Đạo Phật không? Đạo nào là tốt nhất?
  • Đạo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Đạo Mẫu, Đạo Dừa có phải là Đạo Phật không? Đạo nào là tốt nhất?

    Sự khác nhau giữa đạo cao đài và đạo phật

    VẤN: Con chỉ là một Phật tử vừa mới biết đến cửa đạo và thú thật con cũng không biết những điều mình đang thực hành hay tin tưởng là đúng không? Nhìn trên mạng và xung quanh thấy có quá nhiều pháp môn, nhiều tôn giáo cũng bảo là Phật giáo, có nguồn gốc từ Phật giáo nhưng con thấy đủ thứ khác biệt làm con càng thắc mắc hơn. Con muốn hỏi đạo Cao Đài, Đạo Phật giáo Hòa Hảo, các đền thờ Mẫu, Đạo Dừa có phải cũng là đạo Phật không? Nếu không thì sự khác nhau là ở đâu? Cách thờ cúng ở những đạo này có giống hay khác với đạo Phật?

    ĐÁP:Vị trí Việt Nam chúng ta thuộc bán đảo Hoa Ấn, nơi tập trung nhiều mối đạo, nhiều môn phái, có hằng trăm tổ chức tín ngưỡng, màu sắc tôn giáo, có đạo tập hợp thành nhiều tổ chức như Đạo Phật Việt Nam, trước ngày hòa bình có đến 45 giáo hội, giáo phái lớn nhỏ, đạo Cao Đài có trên 20 Giáo hội v.v…

    Sư sẽ dẫn giải một số nguồn gốc tôn giáo đặc biệt nội sanh tại Việt Nam theo lời của các bạn hỏi

    Đạo Cao Đài:Là đạo nội sanh được khai sanh chính thức vào năm 1926, Cao Đài nhanh chóng phát triển về quy mô và số lượng tín đồ. Theo thống kê năm 2009 của các tổ chức Cao Đài, đạo Cao Đài có trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc, khoảng 5 triệu tín đồ, với 958 tổ chức Họ đạo cơ sở được công nhận ở 35/38 tỉnh, thành phố có đạo Cao Đài, thành lập 65 Ban Đại diện, 1.290 cơ sở thờ tự (hàng năm có khoảng 4 ngàn tín đồ mới nhập môn vào đạo Cao Đài). Ngoài ra, có khoảng 30.000 tín đồ nữa sống ở Hoa Kỳ, Châu Âu và Úc.

    Trong những năm 1921 đến 1924, Cụ Ngô Minh Chiêu đã thông qua cơ bút để hình thành nền tảng đầu tiên của đạo Cao Đài theo đường lối dung hợp Tam giáo Nho, Lão, Phật.

    Về giáo điển: Một số kinh cúng như ba bài dâng tam bửu (hoa, rượu trắng, trà).

    Với những nền tảng đạo đầu tiên, ông bắt đầu khai đạo cho nhóm bạn hữu Vương Quang Kỳ (tùng sự Soái phủ Nam Kỳ, ngạch Tri phủ), Nguyễn Văn Hoài (ngạch thông phán), Võ Văn Sang (ngạch thông phán), Đoàn Văn Bản (đốc học Đa Kao). Sau đó các ông này cũng có độ thêm một số đệ tử nữa cùng tu luyện với Ngô Văn Chiêu, nhưng những hoạt động giai đoạn nầy còn trong phạm vi một nhóm tu đơn tịnh luyện, chứ chưa phát triển thành một Tôn giáo.

    Phật giáo Hòa Hảo:Hay còn gọi là đạo Hòa Hảo, là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia. Theo thống kê năm 2009 có khoảng 1.433.252 tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo khiến tôn giáo này trở thành tôn giáo có số tín đồ đông thứ 4 tại Việt Nam. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ. Đặc biệt là An Giang với 936.974 tín đồ Phật Giáo Hòa Hỏa là tỉnh có số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đông nhất cả nước chiếm 44% dân số toàn tỉnh và chiếm 65% tín đồ Phật giáo Hòa Hảo trong cả nước, tiếp đến là Cần Thơ (227.117 tín đồ) và Đồng Tháp (196.143 tín đồ). Hiện nay, trong thư viện của hơn 30 quốc gia trên thế giới vẫn còn giữ những tài liệu sách báo về đạo này.

    Đạo thờ Mẫu:Trong tín ngưỡng của người Việt và của một số dân tộc thiểu số khác ở trên lãnh thổ Việt Nam, việc tôn thờ nữ thần, thờ mẫu thần, thờ mẫu tam phủ tứ phủ là hiện tượng khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy tât cả đều là sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, mẫu thần, mẫu tam phủ tứ phủ không hoàn toàn đồng nhất

    Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh hưởng ngoại lai từ đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trữ và che chở cho con người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ, là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến

    Trong truyện kể dân gian về bà chúa Liễu Hạnh lưu truyền trong dân gian khá phong phú, sau này một số được ghi chép lại trong các sách cổ như Việt điện u linh, ngoài ra còn có các truyện kể dân gian khác về các vị nữ thần được các sách sau này tập hợp và ghi chép lại.

    Ngoài các ghi chép-sáng tác như trên, cũng có một nguồn tư liệu khác được dân gian sáng tác từ các huyền thoại, truyền thuyết và thậm chí là các truyện, thơ về các Thánh Mẫu. Đó là các bài hát văn ở Mẫu Tam phủ Tứ phủ với phần cốt lõi của các bài hát văn là lai lịch, sự tích các vị thần, nhất là các Thánh Mẫu. Ngoài ra còn nhiều tình tiết khác về khung cảnh, dung nhan, tướng mạo của các vị thần được những người sáng tác vô danh diễn tả, tô vẻ thêm để bảo trì sự tín ngưỡng.

    Đạo Dừa:Ông Đạo Dừa, tên thật là Nguyễn Thành Nam (1909-1990), là người sáng lập Hòa đồng Tôn giáo hay còn được dân gian quen gọi là Đạo Dừa; là một tín ngưỡng tại miền Nam Việt Nam, ở Bến Tre, Việt Nam.

    Năm 1950, ông trở lại xã Phước Thạnh dựng đài bát quái cao 14 thước, đêm đêm lên ngồi hành đạo trên đài, choàng một manh áo, chịu đựng mưa nắng. Cuộc sống tu hành đơn sơ, đạm bạc, thức ăn chỉ là trái cây, chủ yếu là dừa (nên mới có biệt danh là Ông Đạo Dừa). Mỗi năm ông chỉ tắm một lần vào ngày Phật Đản.

    Năm 1958, ông gửi thư phản đối Tổng thống Ngô Đình Diệm về một chính sách nào đó, nên bị bắt giam, sau được thả ra...

    Năm 1963, ông Nguyễn Thành Nam đến Cồn Phụng thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xây dựng chùa Nam Quốc Phật'', và tại đây ông lập ra đạo Dừa. Ông đặt mua một xà lan lớn có sức chứa hàng trăm tấn, thiết kế làm ba tầng đưa về neo đậu bên một khu đất, trên đó xây dựng một số tháp, đài, nhà khách, vườn hoa...

    Ông tự xưng là Thiên nhơn giáo chủ Thích Hòa Bình, tuyên bố theo cả ba tôn giáo là Nho, Phật, Lão. Đạo của ông không cần tụng kinh, gõ mõ mà chỉ cần ngồi tham thiền và ăn chay, tưởng niệm... và khuyến khích người đời sống tôn trọng lễ nghĩa và yêu thương nhau, cư xử hòa mục với nhau. Về thực phẩm, Đạo Dừa khuyên nên ăn dừa và uống nước dừa.

    Kinh nghiệm sanh và sống tại Việt Nam các bạn không nên thắc mắc nhiều, khi nghiên cứu đến tôn giáo, tôn giáo là chỗ dựa tinh thần của con người, khi sống thì cầu an, tai qua nạn khỏi, tật bệnh tiêu trừ, thoát mọi chướng duyên khi gặp nạn. Đến lúc qua đời thì cũng cầu cho an, siêu sanh về nơi thế giới tịnh hóa, thánh thiện, cao siêu, giải thoát.

    Tuy nhiên, cứu cánh của mỗi đạo, không đạo nào giống đạo nào:Đạo Phật thì mọi người con Phật cầu về với Phật. Đạo Cao Đài thì nguyện sanh về Tiên cảnh, cảnh Trời cao tột. Đạo Phật giáo Hòa Hảo thì tu cách xử thế, cầu về Tây phương Cực lạc theo lời chỉ dạy của Thầy Huỳnh Phú Sổ. Đạo thờ Mẫu thì cầu an cư lạc nghiệp, về với cõi khoái lạc của Mẫu mẹ. Đạo Dừa thì thờ Phật và Chúa Jésus, cứu cánh của đạo nầy là cầu cho siêu phóng tâm hồn, bá gia bá tánh an cư lạc nghiệp.

    Cứu cánh của các đạo thì không cao không thấp, nhưng người lập đạo tùy theo căn cơ cao thấp của chúng sanh mà lập đạo. Đứng về gốc độ chúng sanh thì có cao thấp, nhưng đứng về gốc độ các bậc sáng lập đạo thì vô biên.

    Sự tận thiện của hoa lan, không phải là của hoa hường gai, sự tận thiện của hoa hướng không phải là của osaka, sự tận thiện của osaka không phải là của mimosa…mỗi loài hoa vẽ đẹp tận thiện riêng của từng loài hoa cống hiến cho mọi người từng cái đẹp hiện hữu… đấy cũng chính là sự nhận định đối với các đạo giáo(Đạo đức kinh)

    Chúc các bạn tinh tiến.

    HT. Thích Giác Quang

    Giảng sư