Tại sao phải giảm tốc độ gia tăng dân số

Ngày 22-3-2005, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 47-NQ/T.Ư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGÐ. Kết quả thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị có ý nghĩa quan trọng, tổng tỷ suất sinh (số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) đạt 2,11 con (1-4-2005) và 2,07 con (1-4-2007) và đang tiệm cận mức sinh thay thế.

Chất lượng dân số về thể lực, trí tuệ và tinh thần từng bước được cải thiện. Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt 0,733 điểm (năm 2005) xếp thứ 105/177 nước có số liệu để xếp hạng.

Dự kiến chỉ số phát triển con người sẽ đạt được mục tiêu của Chiến lược dân số Việt Nam đề ra cho năm 2010 (khoảng 0,700 - 0,750 điểm).

Mặc dù công tác dân số đạt những kết quả quan trọng, nhưng chưa vững chắc và chưa ổn định. Năm 2007, tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ ba tăng nhiều ở hầu hết các địa phương, trong khi kết quả giảm tỷ lệ sinh của cả nước chỉ đạt 0,25%o, không hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch Quốc hội giao là 0,3%o, trong đó 35 tỉnh/thành phố có số trẻ mới sinh trong năm 2007 tăng hơn so với năm 2006, nhiều tỉnh tăng hơn 5%, thậm chí có tỉnh tăng tới 17,1%.

Trong quý một năm 2008 số trẻ mới sinh tăng tới 7,2% so với cùng kỳ năm 2007; số trẻ mới sinh là con thứ ba trở lên tăng 17,3%, trong đó có tỉnh tăng tới 65%.

Ðáng chú ý là số tỉnh có mức sinh con thứ ba trở lên đã tăng hơn gấp đôi năm 2007, từ 16 tỉnh năm 2007 lên 34 tỉnh trong quý I-2008.

Nguyên nhân khách quan và chủ quan làm tăng nhanh mức sinh trở lại, bao gồm: Tâm lý, tập quán của người dân trong xã hội nông nghiệp, lại chịu ảnh hưởng  của tư tưởng phong kiến về việc sinh con, muốn có đông con, phải có con trai còn rất nặng nề là nguyên nhân khó khăn, phức tạp và lâu dài trong việc thực hiện mục tiêu mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con, bảo đảm cân bằng giới tính và nâng cao chất lượng dân số.

Ở nông thôn, kinh tế phát triển chậm, không đồng đều (thu nhập thấp, tỷ lệ trẻ em tử vong còn cao, chưa có bảo hiểm tuổi già...);  tỷ lệ dân số còn cao, chiếm tới 73% dân số cả nước, các dịch vụ xã hội chưa phát triển (dịch vụ chăm sóc trẻ thơ, người già...) là những yếu tố chưa bảo đảm bền vững để nhân dân chấp nhận quy mô gia đình có một hoặc hai con.

Số phụ nữ bước vào độ tuổi sinh đẻ hằng năm lớn gần gấp hai lần số phụ nữ bước ra khỏi độ tuổi này, nên tổng số phụ nữ từ 15-49 tuổi tăng nhanh, từ 21,5 triệu người năm 2000 lên 24,2 triệu người năm 2005 và 26,0 triệu người năm 2010.

Nguyên nhân chủ quan là: Có nơi, có lúc buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo và chủ quan thỏa mãn với những kết quả bước đầu trong việc khống chế tốc độ gia tăng dân số.

Một số lãnh đạo địa phương còn "xóa sổ" Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em ở cấp tỉnh, huyện để phân tán cơ sở vật chất (nhà cửa, xe cộ...) về cho các ngành khác, kể cả hệ thống máy tính chứa đựng các tài liệu về dân cư mà ngành DS-KHHGÐ đã xây dựng được trong nhiều năm qua.

Thiếu kiên định trong việc thực hiện mục tiêu mỗi cặp vợ chồng chỉ có một hoặc hai con. Việc nới lỏng nhanh chóng các biện pháp hành chính, việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một số chính sách xã hội khác thiếu chặt chẽ, chưa xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước thiếu gương mẫu vi phạm chính sách DS-KHHGÐ.

Mặt khác, các biện pháp thực hiện công tác DS-KHHGÐ thiếu đồng bộ. Công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục chưa đầy đủ, chưa huy động được lực lượng toàn xã hội tham gia.

Nội dung và hình thức tuyên truyền chưa phù hợp từng nhóm đối tượng và điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng.

Một nguyên nhân khác nữa là, tổ chức bộ máy thiếu ổn định, chưa được hoàn thiện.

Ðội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGÐ ở các cấp luôn thiếu về số lượng, lại được đào tạo từ nhiều chuyên môn nghiệp vụ khác nhau, nên còn hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ và công tác quản lý.

Về quy mô dân số: Hiện nay dân số nước ta đã đứng hàng thứ 13 trên thế giới, trong những năm tới, dân số vẫn tiếp tục tăng, trung bình mỗi năm tăng thêm một triệu người, bằng dân số của một tỉnh trung bình.

Mật độ dân số năm 2007 tăng lên tới 254 người/km2, thuộc nhóm có mật độ dân số cao nhất thế giới, gấp 1,8 lần mật độ dân số Trung Quốc (143 người/km2).

Diện tích đất canh tác bình quân đầu người ngày càng thu hẹp, hiện nay chỉ còn dưới 0,1 ha/người, chỉ bằng 2/5 mức diện tích canh tác tối thiểu để bảo đảm an ninh lương thực theo tiêu chuẩn của Tổ chức lương thực thế giới.

Về cơ cấu dân số: Tỷ số giới tính khi sinh (số trẻ trai trên 100 trẻ gái khi mới sinh ra) có dấu hiệu đáng lo ngại do có sự mất cân bằng.

Mức được coi là bình thường là khoảng 105-106 trẻ trai trên 100 trẻ gái khi mới sinh, nhưng ở nước ta, tỷ số này đang có xu hướng tăng, từ 105 năm 1989 lên 107 năm 1999 và 110 năm 2006. Có 16 tỉnh thành phố tỷ số này cao lên tới 115 - 128.

Tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên tăng từ 7,2% năm 1989 lên 9,2% năm 2006 và dự báo là 10% vào năm 2015 (bước vào ngưỡng cửa của một quốc gia có cơ cấu dân số già) với áp lực về chăm sóc sức khỏe và phúc lợi cho người già, tạo ra thách thức gay gắt đối với nền kinh tế.

Chất lượng dân số thấp đang là yếu tố cản trở sự phát triển của nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn.

Mặc dù tuổi thọ bình quân của nước ta đạt khá cao là 71,3 nhưng theo Tổ chức Y tế thế giới năm 2002 thì tuổi thọ khỏe mạnh lại rất thấp, chỉ đạt 58,2 tuổi và xếp thứ 116/174 nước.

Tỷ suất tử vong mẹ còn ở mức cao tới 80/100.000 trẻ sinh ra sống, cao gấp 2 lần so với một số nước trong khu vực. Tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi của cả nước là 17,8ọ, tỷ lệ suy dinh dưỡng theo cân nặng của trẻ em dưới 5 tuổi còn 21,2%, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi là 35%, tỷ lệ người tàn tật chiếm gần 6,3% dân số, có tới 1,5% dân số bị thiểu năng thể lực và trí tuệ. Cường độ di dân tăng nhanh, dân số lưu động ngày càng lớn tập trung ở các khu đô thị, công nghiệp... và diễn biến phức tạp.

Trước những kết quả đạt được, cũng như những khó khăn thách thức của công tác DS-KHHGÐ, trong giai đoạn tới, công tác DS-KHHGÐ tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Tập trung mọi nỗ lực, kiểm soát bằng được tốc độ gia tăng dân số, phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch hằng năm về giảm tỷ lệ sinh do Quốc hội giao, để tỷ lệ tăng dân số là 1,14% và quy mô dân số dưới 89 triệu người vào năm 2010, đồng thời phải nâng cao chất lượng dân số và giải quyết cơ cấu dân số.

Giảm nhanh tỷ lệ sinh, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên và phấn đấu đạt mức sinh thay thế vào trước năm 2015 đối với nhóm 23 tỉnh có mức sinh cao, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên, giãn khoảng cách sinh để chủ động kiểm soát tốc độ gia tăng dân số đối với nhóm 18 tỉnh đông dân có mức sinh chưa ổn định, duy trì vững chắc mức sinh thay thế đối với nhóm 23 tỉnh có mức sinh thấp.

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số. Ðây là yếu tố quyết định sự thành công của công tác dân số. Nhận thức rõ tính chất khó khăn, phức tạp lâu dài của công tác dân số, kiên quyết chống tư tưởng chủ quan thỏa mãn, thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.

Nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của các cấp các ngành, đoàn thể nhân dân.

Thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện công tác dân số. Củng cố tổ chức bộ máy và chuyên môn hóa cán bộ làm công tác DS-KHHGÐ ở tỉnh, huyện, xã, đặc biệt là cán bộ ở các xã, phường, thị trấn, cộng tác viên dân số ở các thôn,  làng, cụm dân cư.

Một nhiệm vụ rất quan trọng là, tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, giáo dục và tư vấn. Tích cực vận động và giáo dục chính sách pháp luật về dân số, cung cấp kiến thức, kỹ năng thực hành cho các nhóm đối tượng sử dụng đồng bộ và có hiệu quả các kênh truyền thông. Nâng cao vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân số ở cơ sở để đưa các nội dung về DS-KHHGÐ đến từng người dân và  từng gia đình.

Tiến sĩ NGUYỄN BÁ THỦY Thứ trưởng Bộ Y tế, kiêm Tổ

Vì sao ở nước ta tỉ lệ gia tăng dân số giảm nhưng số người tăng hàng năm vẫn lớn?

A. Qui mô dân số nước ta lớn

B. Ý thức chấp hành pháp lệnh dân số chưa tốt của người dân

C. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình triển khai chưa đồng bộ

D. Cơ cấu dân số thuộc loại trẻ

Quan sát hình 2.1 (SGK trang 7), nêu nhận xét về tình hình tăng dân số của nước ta. Vì sao tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số giảm nhưng dân số vẫn tăng nhanh?

Vì sao tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số giảm nhưng số dân vẫn tăng nhanh?

Gia tăng dân số quá nhanh dẫn đến tình trạng bùng nổ dân số, đặt một áp lực khủng khiếp lên môi trường sống và sự phát triển của nhân loại. Nguyên nhân gia tăng dân số là gì? Hậu quả và biện pháp khắc phục ra sao? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.

Gia tăng dân số và bùng nổ dân số thế giới

Gia tăng dân số là việc dân số tăng lên một cách tự nhiên. Hiện nay, vấn đề dân số là vấn đề nóng. Một phần do tỉ lệ gia tăng dân số quá cao ở một số khu vực lớn, dẫn đến tình trạng bùng nổ dân số. Ngược lại, tỉ lệ sinh quá thấp ở một số quốc gia khiến rất nhiều chính sách kích thích sinh nở ra đời để cải thiện tình trạng già hóa dân số.

Trong đó, vấn đề gia tăng dân số dẫn đến bùng nổ dân số được cả thế giới quan tâm. Từ nửa sau thế kỷ 20, dân số thế giới tăng nhanh và ngày càng nhanh. Trung bình mỗi năm, dân số thế giới tăng lên thêm 80 triệu người và tổng số dân đang dần tiến đến con số 8 triệu dân. 8 triệu dân được dự đoán là dân số thế giới ở năm 2025.

Vậy bùng nổ dân số là gì và diễn ra khi nào?

Bùng nổ dân số là sự gia tăng quá nhanh về dân số trong một khoảng thời gian ngắn. Điều này vượt ngoài tầm kiểm soát và mức độ chịu đựng của các lĩnh vực liên quan trong đời sống xã hội. Bùng nổ dân số vì thế đem đến những ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội. Trên thế giới, các quốc gia vẫn không ngừng chạy đua hàng ngày để giải quyết những vấn đề liên quan đến dân số, đặc biệt là việc gia tăng dân số quá nhanh.

Tại sao phải giảm tốc độ gia tăng dân số

Tại sao phải giảm tốc độ gia tăng dân số
Thống kê dân số nước ta

Nguyên nhân gia tăng dân số

Vậy nguyên nhân gia tăng dân số là gì? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.

Chênh lệch tỉ lệ sinh tử

Về bản chất, gia tăng dân số quá nhanh (thậm chí bùng nổ dân số) được hiểu là chênh lệch tỉ lệ sinh tử lớn. Khi số người được sinh ra nhiều hơn số người mất đi, dân số sẽ tăng.

Thế giới trong giai đoạn phát triển chính là thời điểm dân số tăng nhanh nhất. Điều kiện sống của con người được cải thiện, con người sống thọ hơn. Trong khi đó, tỉ lệ sinh vẫn giữ nguyên, thậm chí tăng lên. Đó là lí do tại sao dân số tăng.

Do nhu cầu lao động

Từ nhu cầu lao động trong phạm vị gia đình, mọi người đã có tâm lý sinh nhiều con. Ví dụ như ở các vùng điều kiện kinh tế chưa phát triển, các gia đình thường sinh con với mục đích để có người làm, đỡ đần kinh tế.

Nếu ở một quốc gia, tình trạng này phổ biến thì dân số gia tăng nhanh cũng là một điều dễ hiểu.

Quan niệm

Nguyên nhân gia tăng dân số tiếp theo chính là do quan niệm văn hóa phương Đông. Người phương Đông có tư tưởng sinh nhiều con thì sẽ có lộc, con cháu đề huề. Chính quan niệm này một phần dẫn đến việc gia tăng dân số. Nhất là khi nó lại được lưu truyền từ đời này qua đời khác.

Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình

Hầu hết các quốc gia đều thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Một trong những mục đích của việc  này là để giảm tỉ lệ sinh. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, người dân chưa được tiếp cận đến và chưa có đủ nhận thức về vấn đề này. Mặt khác, ở nhiều khu vực chính sách cũng chưa được thực hiện một cách triệt để.

Việc thực hiện tốt chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình sẽ là phương tiện đắc lực kiểm soát tình trạng gia tăng dân số hiện nay.

Gia tăng dân số để lại hậu quả gì?

Gia tăng dân số quá nhanh để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực và áp lực vô cùng lớn lên nhiều phương diện của đời sống xã hội.

Thứ nhất, bùng nổ dân số gây áp lực lên tự nhiên. Dân số đông hơn đồng nghĩa với nhu cầu về đất đai, nước sạch, không khí sạch, tài nguyên cũng lớn hơn rất nhiều. Gia tăng dân số quá nhanh dẫn đến tình trạng thiếu nước sạch, suy giảm tài nguyên ở nhiều quốc gia.

Theo thống kê, diện tích rừng giảm cũng là hệ quả của việc bùng  nổ dân số. Trong khi đó, tình trạng ô nhiễm cũng gia tăng. Ô nhiễm nước, không khí, ô nhiễm tiếng ồn, ánh sáng ngày càng phổ biến và lan rộng. Tất cả những hậu quả trên làm tồi tệ hơn hiện tượng biến đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu.

Tại sao phải giảm tốc độ gia tăng dân số
Gia tăng dân số như một quả bom nổ chậm

Thứ hai, gia tăng dân số quá nhanh gây áp lực cho nền kinh tế. Cung lớn hơn cầu dẫn đến tình trạng thất nghiệp, nghèo đói ở nhiều quốc gia. Trong khi chính phủ không có đủ nguồn chi cho các phúc lợi xã hội thì cuộc sống của chính người dân lâm vào tình cảnh khốn khó.

Hơn nữa, gia tăng dân số dẫn đến suy giảm chất lượng cuộc sống. Ở những quốc gia nghèo, điều kiện kinh tế, xã hội, y tế còn chưa phát triển, tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh còn cao. Thêm vào đó là tình trạng suy dinh dưỡng, không đủ điều kiện học tập và phát triển. Dân số quá đông khiến thế giới sẽ phải gồng mình lên khi đối mặt với tội phạm, chiến tranh và dịch bệnh.

>> Xem thêm:

  • Độ tuổi sinh đẻ ở Việt Nam
  • Bình đẳng giới ở Việt Nam

Biện pháp kìm hãm sự gia tăng dân số

Cả thế giới đang không ngừng chạy đua để giải quyết những vấn đề mang tính thời sự như gia tăng dân số. Bên cạnh nguyên nhân gia tăng dân số thì giải pháp là điều được các nhà nghiên cứu quan tâm lớn. Tuy không thể ngăn chặn hoàn toàn nhưng những biện pháp dưới đây phần nào giảm nhẹ được tình trạng này.

Tại sao phải giảm tốc độ gia tăng dân số
Kết quả điều tra dân số sơ bộ năm 2019 của Việt Nam

Thực hiện tốt chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình là biện pháp thiết thực nhất để kiểm soát tình trạng gia tăng dân số. Trung Quốc đã làm rất tốt điều này, Tuy nhiên, các chính sách, quy định phải rõ ràng, triệt để và tiếp cận rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân.

Ngoài ra, việc giáo dục và tuyên truyền để thay đổi nhận thức của người dân về vấn đề này có vai trò và ý nghĩa lâu dài hơn cả. Việc giáo dục về dân số phải được thực hiện rộng rãi, hướng tới nhiều đối tượng và ưu tiên giáo dục từ khi còn nhỏ.

Như vậy, có nhiều nguyên nhân gia tăng dân số mà các chuyên gia đang nghiên cứu để tìm cách khắc phục. Mong rằng tình trạng này sẽ cải thiện trong tương lai vì sự phát triển bền vững của thế giới.

Tại sao phải giảm tốc độ gia tăng dân số