Tầng lớp thương là gì

Tầng lớp thương là gì

Giới thiệu

"tầng lớp trung lưu" được định nghĩa là tầng lớp kinh tế xã hội bao gồm người dân thịnh vượng hơn về mặt kinh tế, tinh thần và văn hoá so với tầng lớp thấp hơn nhưng kém về mặt kinh tế so với tầng lớp thượng lưu (Các nhà tư bản và chính trị gia). Theo Max Weber (1864-1920), tầng lớp trung lưu là nhóm người nằm ở giữa hệ thống xã hội giữa tầng lớp thượng lưu và tầng lớp lao động. Nói chung, một hộ gia đình được coi là thuộc tầng lớp trung lưu nếu hộ gia đình có một phần ba thu nhập là dành cho chi phí tùy ý. Thuật ngữ các tầng lớp trung lưu tầng lớp thượng lưu và tầng lớp thấp hơn là các khái niệm xã hội học đề cập đến những người thuộc tầng lớp thượng lưu và hạ lưu tương ứng của phân khúc giai cấp trung lưu của một xã hội nhất định tại một thời điểm nhất định. Sự phân chia giữa tầng lớp trung lưu tầng lớp thượng lưu và tầng lớp thấp có thể nhìn thấy rõ ràng trong mọi xã hội, dù là của một nước phát triển hay đang phát triển. Bài báo này là một nỗ lực nhằm đưa ra ánh sáng về một số khác biệt quan trọng giữa tầng lớp thượng lưu và tầng lớp trung lưu. Vì các thuật ngữ này mang tính chủ quan và có thể có những ý nghĩa khác nhau cho các xã hội khác nhau, nên đã cố gắng đưa ra một cái nhìn khái quát về các thuật ngữ.

Theo Max Weber, nhà xã hội học nổi tiếng, tầng lớp trung lưu thượng lưu bao gồm những người có trình độ học vấn tiên tiến và bị chiếm trong những công việc cổ áo trắng hoặc các nghề tự kiểm soát. Những người này không chỉ có thu nhập cá nhân cao hơn mức trung bình và trình độ học vấn mà còn được hưởng mức độ tự chủ cao hơn ở nơi làm việc. Hầu hết các hộ gia đình tầng lớp trung lưu thuộc sở hữu.

Theo Dennis Gilbert, nhà xã hội học nổi tiếng, tầng lớp trung lưu thấp hơn bao gồm những người như thợ thủ công và semiprofessionals với thu nhập trung bình và một số giáo dục đại học. Trong phân cấp xã hội, tầng lớp trung lưu thấp hơn ở trên lớp thấp hơn hoặc tầng lớp nghèo.

Trình độ học vấn: Người thuộc tầng lớp trung lưu thường có trình độ sau đại học, trong khi một số có trình độ chuyên môn hoặc chuyên môn. Ở các nước đang phát triển, nhiều tầng lớp trung lưu có trình độ từ Mỹ, Canada, Anh, và các trường đại học nước ngoài khác.

Hầu hết những người tầng lớp trung lưu hoặc không có bằng đại học hoặc một số giáo dục đại học. Một số tầng lớp trung lưu thấp hơn được cho là bỏ học để kiếm sống thông qua các công việc đau khổ hoặc buôn bán nhỏ.

Quy mô gia đình: Quy mô gia đình trung bình của các hộ gia đình tầng lớp trung lưu thấp hơn thường lớn hơn so với các hộ gia đình tầng lớp trung lưu. Một lý do quan trọng cho sự khác biệt đó là việc thực hiện hôn nhân sớm giữa những người tầng lớp trung lưu thấp hơn.

Tính chất công việc:

Nghề nghiệp của tầng lớp trung lưu cao cấp là trí tuệ, sáng tạo, có tính hướng dẫn, hay hành chính, mang lại nhiều quyền tự chủ hơn. Những người từ tầng lớp trung lưu thấp hơn tham gia vào các công việc như vậy, ít sáng tạo, lặp đi lặp lại và theo dõi, và do đó ít tự chủ hơn trong công việc.

Triết học: Những người thuộc giai cấp trung lưu nói chung là tự do và tiến bộ về tôn giáo, nhân quyền, quyền của phụ nữ, quyền và nghĩa vụ của nhà nước, và các tư tưởng xã hội khác. Cuộc hôn nhân liên tôn và liên tôn thường được chấp nhận bởi tầng lớp trung lưu. Những người thuộc tầng lớp trung lưu thấp hơn nói chung là bảo thủ và không ủng hộ những tư tưởng tiến bộ.

Văn hóa: Trong tất cả các khía cạnh của quang phổ văn hoá, đó là âm nhạc, thơ, văn học, nghệ thuật và kịch, sự hiện diện của người từ tầng lớp trung lưu cao là một tình huống phổ biến trong tất cả các xã hội. Sự tham gia của người dân từ tầng lớp trung lưu thấp hơn là không đáng kể trong những lĩnh vực như vậy.

Chính trị: Người thuộc tầng lớp trung lưu có quyền lực chính trị nhiều hơn so với người thuộc tầng lớp trung lưu. Ở hầu hết các nước, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, các cơ quan chính trị và hành chính nằm trong tay tầng lớp trung lưu thượng lưu.

Sở hữu tài sản: Một tỷ lệ phần trăm tốt của những người thuộc tầng lớp trung lưu thuộc tầng lớp trung lưu. Một tỷ lệ phần trăm thấp hơn những người thuộc tầng lớp trung lưu ở tầng lớp trung lưu thấp hơn.

Sự tham gia vào lực lượng lao động: Sự tham gia vào lực lượng lao động của tầng lớp trung lưu thấp hơn nhiều so với tầng lớp trung lưu. Một lý do cho sự khác biệt đó là việc tự làm việc giữa những người tầng lớp trung lưu.

Tóm tắt Người thuộc tầng lớp trung lưu thượng có thu nhập cá nhân cao hơn so với người tầng lớp trung lưu thấp hơn.

Người tầng lớp trung lưu nói chung có trình độ học vấn cao hơn người tầng lớp trung lưu. Người tầng lớp trung lưu được hưởng quyền tự chủ cao hơn trong công việc so với người tầng lớp trung lưu thấp hơn.

Những người tầng lớp trung lưu cao hơn tự do hơn những người tầng lớp trung lưu.

  1. Về mặt văn hoá, tầng lớp trung lưu cao cấp hơn những người tầng lớp trung lưu thấp hơn.
  2. tầng trên trung lưu có quyền lực chính trị lớn hơn tầng lớp trung lưu thấp hơn.
  3. Những người từ tầng lớp trung lưu nói chung sở hữu tài sản thừa kế, không giống như những người thuộc tầng lớp trung lưu thấp hơn.
  4. Người tầng lớp trung lưu có sự tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động so với tầng lớp trung lưu.

12:54, 23/09/2018 (GMT+7)

* Trong một lễ cúng cô hồn hôm tháng 7 âm lịch vừa rồi, tôi nghe trong bài văn tế có hai câu “Trên đến bậc vương hầu khanh tướng/ Dưới đến người sĩ cổ nông công”. Xin cho biết, từ “cổ” trong “sĩ cổ nông công” ở đây nghĩa là gì? (Nguyễn Hải Lý, Sơn Trà, Đà Nẵng).

Tầng lớp thương là gì
Một cảnh buôn bán ở Hà Nội xưa. Nguồn: Internet

- Hai câu trên nằm trong bài Văn tế Cô hồn, được lưu truyền ở nhiều chùa Phật giáo ở Việt Nam, nguyên văn đoạn đầu như sau:

“Từng nghe đạo cả, kỉnh thuật lời quê Cõi giang sơn thủy lục ê hề Nỗi hồn phách tử vong ngao ngán Trên đến bậc vương hầu khanh tướng Dưới đến người sĩ cổ nông công Nào kẻ ti nào người tôn Nào là nam, nào là nữ Hoặc có kẻ buộc mình trong linh ngữ Hoặc có người sẩy bước chốn sa trường Hoặc sa hầm, sa mương

Hoặc trúng thang, trúng thuốc...”.

Sĩ cổ nông công là bốn loại nghề, sắp hạng thứ bậc sang hèn trong xã hội ngày xưa gồm: Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ cổ (Nhất sĩ: hạng trí thức; nhì nông: người làm nghề nông; tam công: người làm thợ; tứ cổ: người buôn bán).

Cũng có tài liệu ghi “Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương”. Bởi lẽ, nhà buôn hay thương nhân, trong tiếng Hán gọi là “thương cổ”[商賈] hoặc ngắn gọn hơn gọi là cổ [賈].

Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu giảng rõ hơn: “Cửa hàng, tích hàng trong nhà cho khách đến mua gọi là cổ, như thương cổ [商賈] buôn bán, đem hàng đi bán gọi là thương [商], bán ngay ở nhà gọi là cổ [賈].
Sĩ nông công thương là bốn tầng lớp chính trong xã hội xưa dưới các triều đại quân chủ, còn gọi là tứ dân, nghĩa là 4 tầng lớp dân.

Tuy nhiên, nhiều tài liệu ghi “Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ cổ” bởi âm điệu nghe thuận tai hơn (là tứ thương).

Dấu vết “tam công, tứ cổ” có thể tìm thấy trong bản Hương sử ca của làng Quảng Xá, xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bài thơ 164 câu song thất lục bát này mở đầu bằng hai câu giới thiệu hết sức kiêu hãnh: “Làng Quảng Xá là làng trù mật/Cách phong lưu văn vật ai tày”. Dân làng tự hào bởi quê mình có nhiều nghề: “Tuy muôn dặm nước non cách trở/ Đã thu lời khắc cả Tây Đông/ Bốn nghề nhất sĩ nhì nông/ Tam công tứ cổ đủ trong làng này”.

Một vài tài liệu ghi nhầm thành tứ cố (dấu sắc). Ví dụ: “Nhất sĩ nhì nông tam công tứ cố/ Làm giàu có số ăn cỗ có phần/ Có phúc thời mới có phần/ Một lần không chín chín lần không nên”.

Ở đây, từ cổ [賈] là buôn bán đã chép sai thành cố [顧] nghĩa là quay lại nhìn ngắm. Như trong thành ngữ “tứ cố vô thân” [四顧無親] nghĩa là “người đơn độc, không có ai thân thích”. Trong đó, tứ cố [四顧] nghĩa là ngắm kỹ cả bốn mặt.

ĐNCT

(TG) - Một trong những điều hay của Tiếng Việt chính là sử dụng từ ngữ nhằm biểu đạt thái độ và “cấp độ” ứng xử văn hóa, cao hơn là nhãn quan chính trị của người viết, người nói.

Tầng lớp thương là gì
(Ảnh minh họa)

Ngày xuân, ôn cố tri tân, theo thói quen nghề nghiệp, lại nghĩ về chữ và nghĩa của cái nghề viết và nói. Tự tổng kết “thu lượm” của bản thân trong một năm, vẫn thấy có những lúc, những khi viết và nói chưa thật “tròn ngôn rõ ngữ”. Âu cũng là cái “duyên nợ” với nghề! Ngày xuân, xin “gom nhặt” lại một vài “hạt sạn” chữ nghĩa vô tình “nhặt” được trên báo chí ta, đặng coi đó là bài học kinh nghiệm cho bản thân. Và cũng là để góp vui cùng quý độc giả. Vì là những ví dụ “gom nhặt” nên mang tính chất “liệt kê” là chính, những nhận định, bàn luận của người viết chưa hẳn đã là chuẩn chỉ. Rất mong được nhận sự chỉ giáo, phản hồi của bạn đọc.

MONG MANH RANH GIỚI ĐÚNG - SAI

1..

Ở trích dẫn trên, tác giả đã nhầm lẫn rất cơ bản, “Sĩ - Nông - Công - Thương - Binh” là 5 (hoặc tầng lớp) chính trong xã hội chứ không phải là 5 . Đặc biệt, (có thể hiểu là trí thức) xưa nay vẫn được gọi là chứ không phải ; (quân đội), từ cổ chí kim, bất cứ quốc gia nào, kể từ khi có nhà nước, thì quân đội là công cụ phục vụ cho giai cấp cầm quyền, nên thành phần này phải mang tính giai cấp cầm quyền, chứ không thể và không có “.

2.

Xin thưa, Hồng Kông cũng sử dụng đơn vị tiền tệ là , nhưng viết tắt của không phải là USD mà là HKD. Có lẽ tác giả - cũng như rất nhiều người - vì “nghe nhiều quen tai” nên “mặc nhiên hiểu nhầm” chữ là nói chung. Không nên quên rằng USD là viết tắt của cụm từ - có nghĩa là đô la Mỹ. Vì vậy, câu trên cần phải được biên tập lại cho chuẩn là (hoặc muốn viết tắt cho “hiện đại” thì phải sửa là ).`

3. .

Rõ ràng là tác giả của mấy dòng “bình văn” trên đang “tán” quá đà, hoặc là chỉ cốt viết cho câu chữ “bay bướm” mà không chịu đào sâu suy nghĩ. Xưa nay chúng ta ca ngợi chủ yếu là ca ngợi tài năng văn chương của cụ Nguyễn Du - người đã có công đưa thể loại thơ lục bát của dân tộc lên một tầm cao bác học. Nếu có “bình, bàn, tán” về phẩm giá và vẻ đẹp Thúy Kiều cũng chỉ là gắn với hoàn cảnh cụ thể của nhân vật. Hoặc khi “luận bàn” về Từ Hải thì cũng là bình về chí khí và sự “lụy tình” của một “đấng mày râu”. Chứ hình tượng Thúy Kiều và Từ Hải không phải là “mẫu số” hay biểu tượng đại diện cho phẩm giá của người Việt. Bởi, như chúng ta đã biết, Thúy Kiều, Từ Hải là nhân vật bên Tàu do ông Thanh Tâm Tài Nhân bên ấy sáng tác ra trong cuốn tiểu thuyết . Mặc dù sau khi được Đại Thi hào Nguyễn Du “chuyển thể” và trở thành tác phẩm văn học kinh điển, “thuần Việt”, nhưng không phải vì thế mà những những nhân vật trong được coi là hình tượng - giá trị điển hình của người Việt Nam.

NGÔN TỪ CẦN BIỂU ĐẠT ĐƯỢC THÁI ĐỘ, Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA NGƯỜI CẦM BÚT

1. .

là lối tự xưng khoa trương xem mình là “trung tâm vũ trụ” của các vương triều Trung Hoa xưa. Và đó cũng là cách tự xưng thể hiện thái độ, ý đồ coi thường, uy hiếp, muốn thôn tính nước ta. Xem lại trong sử sách thì thấy cha ông ta không gọi các triều đại phương Bắc là (mà nếu các nhà viết sử hiện đại có nhắc đến hai từ này thì cũng để trong ngoặc kép: ). Điều đó thể hiện tinh thần và ý thức tự tôn quốc gia - dân tộc. Vì thế, e rằng cách viết nêu trên của nhà báo là thiếu cẩn trọng về mặt ý thức, nhận thức. Tại sao lại không thể viết rõ tên triều đại đang trị vì bên Trung Quốc ở thời điểm (hoặc cũng có thể viết lànhư nhiều sách kể chuyện lịch sử vẫn viết)(?!) Ấy là chưa kể cái cách dùng từ rất chủ quan, ấu trĩ của người viết, khi kể lại - ca ngợi tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc của một nhân vật lịch sử nước nhà.

2. Đưa tin về trường hợp máy bay chiến đấu của Nga gặp nạn trong khi luyện tập, có tờ báo đã giật tít: . Rõ ràng là cái cách dùng từ trong dòng tít trên thể hiện thái độ rất thiếu tôn trọng, thậm chí là bỡn cợt, miệt thị của người viết trước một tai nạn nghiêm trọng, thương tâm. Hơn thế nữa, về mặt ngoại giao, việc thêm từ bỡn cợt vào đây, dễ khiến cho người đọc cảm thấy thái độ chính trị không đúng mực của chúng ta đối với một quốc gia có mối quan hệ truyền thống, tin cậy và là đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam.

Cũng cùng nội dung trên, ở một tờ báo khác, sau khi đưa tên chủng loại máy bay gặp nạn còn cố tình mở ngoặc đơn “chua” thêm: “(đây là loại máy bay chiến đấu hiện đại mà Việt Nam đã đàm phán, đặt mua với Nga hồi năm…)”. Không hiểu cách đưa tin “tỏ ra khách quan” của người viết có “dụng ý câu view” đến đâu, hay chỉ là sự “lời phời” về mặt nhận thức và ý thức chính trị của phóng viên - biên tập viên, nhưng nó khiến không ít người đọc có cảm giác “gờn gợn” về điều gì đó không tích cực, theo kiểu “chỉ tang mạ hòe”(chỉ cây dâu mắng cây hòe)!

Ngoài ra, không biết tôi có quá khắt khe và nhầm lẫn khi cho rằng, nếu dòng tít trên không dùng hai từ mà thay vào đó là, thì có lẽ sẽ trang trọng, ý nghĩa, tình cảm và có ý thức chính trị hơn.

3. .

Khi viết về quân ta, bộ đội ta thì không nên dùng là . Và thực tế, trong nghệ thuật quân sự Việt Nam thì phương pháp - cách đánh là một chứ không phải . Thông thường, người ta chỉ sử dụng từ “thủ đoạn” để gán cho những kẻ có tâm địa xấu, làm những việc phi nghĩa, bất chính. Trong trường hợp nêu trên thì “bộ đội ta” là bên chính nghĩa, chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, chống quân “đối phương” đi xâm chiếm, xâm lược. Vì vậy, sử dụng từ “thủ đoạn” để nói về / của quân ta là thể hiện sự thiếu tôn trọng, không phân biệt rõ địch - ta, chính nghĩa - phi nghĩa.

Một trong những điều hay của Tiếng Việt chính là sử dụng từ ngữ nhằm biểu đạt thái độ và “cấp độ” ứng xử văn hóa, cao hơn là nhãn quan chính trị của người viết, người nói. Nhưng dường như lâu nay điều này đang bị nhiều bạn trẻ “lẫn lộn”, thậm chí là nhầm lẫn đến mức “thảm họa”, nhất là trên các trang mạng xã hội. Ví dụ, khi kể về những kỷ niệm tốt đẹp, giàu tính nhân văn trong hoạt động tình nguyện mùa hè, có bạn sinh viên viết lên facebook:; hoặc . Ô hay, sao lại là và (!?). Từ xưa đến nay, người Việt chúng ta chỉ sử dụng từ “ và “khi viết hoặc nói về những nhóm người xấu, những kẻ phạm tội (như “hắn và đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp”, “Nguyễn Văn A chính là kẻ nhóm trấn lột…”). Kể cả trong trường hợp viết vì mục đích vui vẻ, hài hước, thì trước những hoạt động mang tính chính trị - xã hội nghiêm túc, tốt đẹp, cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng. Bởi, như trên đã nói, ngôn ngữ thể hiện thái độ và nhận thức chính trị của người viết, người nói./.

Minh Triết