Vận dụng mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ trong dạy học ở trường mầm non

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂNKHOA TÂM LÝ HỌCHOÀNG THỊ QUANGMỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ TƯ DUYỞ TRẺ TỪ 1 – 3 TUỔICHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌCMÃ SỐ: 60 31 04 01LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌCNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRƯƠNG THỊ KHÁNH HÀHà Nội – 2014LỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan đề tài này là do tôi thực hiện, là một phần trong đề tàinhóm B mã số QG.12.27 do PGS.TS Trương Thị Khánh Hà làm chủ nhiệm.Những kết quả, số liệu trong đề tài là hoàn toàn trung thực và chưa đượccông bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đây.Tác giảHoàng Thị Quang1LỜI CẢM ƠNLuận văn này được hoàn thành tại khoa Tâm lý học – Trường Đại họcKhoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, dưới sự hướng dẫnkhoa học của PGS.TS Trương Thị Khánh Hà.Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giáo trong khoa Tâm lý học –Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đãtruyền dạy cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm quí báu trong thời gian tôitheo học bậc cao học tại khoa. Các thầy cô cũng đã luôn sẵn sàng hỗ trợ, giải đápthêm cho tôi những điều còn chưa rõ về mặt chuyên môn, để tôi có được cái nhìnđa chiều hơn về vấn đề nghiên cứu trong đề tài khoa học này.Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trương ThịKhánh Hà, người đã hướng dẫn, đã đi cùng tôi trong suốt quá trình nghiên cứu:từ khi hình thành ý tưởng đề tài cho đến khi tôi hoàn thiện toàn bộ luận văn tốtnghiệp này! Tôi đặc biệt ghi nhớ sự nhiệt tình, lòng tận tâm và sự tỉ mỉ của côdành cho tôi trong suốt quá trình học và trong quá trình hướng dẫn tôi làm côngtác nghiên cứu đề tài.Để thực hiện được nghiên cứu khoa học này, tôi còn nhận được sự hợp tácvà hỗ trợ nhiệt tình trong suốt quá trình nghiên cứu từ Ban giám đốc, Ban giámhiệu, các thầy cô giáo và các em nhỏ ở các trường mẫu giáo Vườn Tài Năng, ĐồRê Mí, và Jerry House.Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô giáo ở phòng đào tạo, phòngcông tác sinh viên đã có những hướng dẫn chi tiết cho tôi về thủ tục hành chínhvà tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có thể hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này!Cuối cùng, xin gửi lời tri ân đến gia đình, người thân, thầy cô giáo cũ vàbạn bè – những người đã động viên, giúp đỡ để tôi có được ngày hôm nay.Hà Nội, ngày 6 tháng 6 năm 2014Tác giảHoàng Thị Quang2DANH MỤC BẢNG SÔ LIỆU, HÌNH ẢNH TRONG ĐỀ TÀISTT12345678TÊN BẢNGBảng 1.1. Khả năng nhận thức – tư duyBảng 1.2. Khả năng ngôn ngữ - giao tiếpBảng 2.1. Các thành tựu phát triển nhận thức – tư duy của trẻBảng 2.2. Các thành tựu phát triển ngôn ngữ của trẻBảng 2.3. Tương quan giữa sự phát triển tư duy và ngôn ngữ của trẻBảng 2.4. Tương quan giữa item tư duy 9, 10 với các item ngôn ngữBảng 2.5. Tương quan giữa item tư duy 14, 15, 16 với các item ngôn ngữBảng 2.6. Tương quan giữa item tư duy 17, 18 với các item ngôn ngữTrang106 – 107108-10958 – 5970 – 72114 – 115868788DANH MỤC HÌNH ẢNH9Hình 4.1. Bé Đ. K (23 tháng tuổi) đang vươn mình để lấy bim bim trên kệ10Hình 4.2. Bé A.T (29 tháng tuổi) biết bắc ghế đứng lên để lấy bim bim11Hình 4.3. Bé C. M (26 tháng tuổi) thực hiện trò chơi thả khối hình3646466MỤC LỤCTrangLỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. 1LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ 2DANH MỤC BẢNG SÔ LIỆU, HÌNH ẢNH TRONG ĐỀ TÀI ........................... 3MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 6Chương 1. LÍ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ TƯ DUY ỞTRẺ 1 – 3 TUỔI ..................................................................................................... 91.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................... 91.1.1. Những nghiên cứu nước ngoài về ngôn ngữ, tư duy và mối quan hệgiữa chúng ở trẻ từ 1 – 3 tuổi ........................................................................ 91.1.2. Những nghiên cứu trong nước về ngôn ngữ, tư duy và mối quan hệgiữa chúng ở trẻ từ 1 – 3 tuổi ...................................................................... 211.1.3. Những quan điểm về việc giáo dục sớm ........................................... 261.2. Một số lý luận cơ bản................................................................................ 281.2.1. Lý luận về ngôn ngữ .......................................................................... 281.2.1.1. Khái niệm ngôn ngữ ............................................................... 281.2.1.2. Các loại ngôn ngữ .................................................................... 281.2.1.3. Ngôn ngữ của trẻ em từ 1 – 3 tuổi ........................................... 291.2.2. Tư duy của trẻ em .............................................................................. 331.2.2.1. Khái niệm tư duy và tư duy trẻ em .......................................... 331.2.2.2. Các loại tư duy ......................................................................... 341.2.2.3. Tư duy của trẻ em 1 – 3 tuổi .................................................... 351.2.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ở trẻ 1 – 3 tuổi ...................... 381.2.3.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ..................................... 381.2.3.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ở trẻ 1 – 3 tuổi ............ 391.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy của trẻ .................... 411.2.4.1 Di truyền ................................................................................... 411.2.4.2. Môi trường và giáo dục............................................................ 421.2.4.3. Tính tích cực hoạt động của trẻ ............................................... 4542.1. Tổ chức nghiên cứu .................................................................................. 502.1.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu ...................................... 502.1.2. Tiến trình tổ chức nghiên cứu ........................................................... 502.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 512.2.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận ........................................................ 512.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn .................................................... 512.2.2.2. Phương pháp quan sát .............................................................. 542.2.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu .................................................... 562.2.2.4. Phương pháp phân tích chân dung tâm lý ................................ 572.2.2.5. Phương pháp thống kê toán học............................................... 57CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................ 583.1. Thực trạng mức độ phát triển tư duy của trẻ em từ 1 đến 3 tuổi .............. 583.2. Thực trạng mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ em từ 1 đến 3 tuổi ......... 703.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy của trẻ từ 1 – 3 tuổi ..................... 833.4. Phân tích một số chân dung tâm lí ............................................................ 89KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................................. 991. Kết luận ........................................................................................................ 992. Kiến nghị.................................................................................................... 102TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 104PHỤ LỤC ........................................................................................................... 1075MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiBác Hồ đã từng viết:“Trẻ em như búp trên cành.Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”.Đúng vậy, trẻ em chính là niềm vui, là mầm non, là tương lai của mỗi đấtnước. Các em cần được vui chơi, học hành và cần được người lớn quan tâm dạydỗ để sau này trở thành những người có ích cho xã hội. Vì vậy, trong bất kì chếđộ xã hội nào thì công tác chăm sóc giáo dục trẻ em luôn nhận được sự quan tâmsâu sắc của toàn xã hội.Trong quá trình phát triển chung của trẻ em thì giai đoạn từ lúc lọt lòng chođến 6 tuổi là quãng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt. Nhịp độ phát triển củatrẻ trong thời kì này rất nhanh và nhịp độ phát triển nhanh như vậy không bao giờcòn thấy được trong những năm tháng về sau. Đồng thời, thành tựu phát triển màtrẻ đạt được trong những năm đầu đời có ý nghĩa rất lớn cho sự trưởng thành saunày của trẻ. Chính vì vậy, các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục đã luôn dành chogiai đoạn này sự quan tâm lớn, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển về mọi mặt củatrẻ, trong đó có vấn đề phát triển ngôn ngữ và tư duy.Tuy nhiên, trong thực tiễn chăm sóc và giáo dục trẻ em 1 – 3 tuổi hiện nay,mối quan tâm của các bậc cha mẹ đến sự phát triển ngôn ngữ và tư duy của trẻ làchưa thực sự đầy đủ. Đối với trẻ ở độ tuổi này, các bậc cha mẹ và người chămsóc trẻ chủ yếu là quan tâm về việc phát triển thể chất cho trẻ hơn là phát triển tưduy và ngôn ngữ. Và nếu có thì đa phần các phụ huynh cũng phát triển cho contheo kiểu mò mẫm hoặc theo kinh nghiệm của người đi trước mà không theo mộtnền tảng, cơ sở phát triển nào.Hiện nay ở nước ta, riêng trong ngành tâm lý học phát triển, chúng ta có thểdễ dàng nhận thấy các công trình nghiên cứu về giai đoạn lứa tuổi này nhiều hơnbất kì giai đoạn nào khác, trong đó vấn đề ngôn ngữ và tư duy cũng được đề cậpđến. Nhưng nhìn chung, các nghiên cứu về ngôn ngữ và tư duy trẻ em vẫn tậptrung vào lứa tuổi mẫu giáo (3 – 6 tuổi) hơn là giai đoạn trước đó (trẻ 1 – 3 tuổi).Bên cạnh đó, các nghiên cứu đó còn mang tính độc lập (nghiên cứu riêng tư duy6hoặc ngôn ngữ) mà chưa có nhiều nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữvà tư duy của trẻ.Như vậy, cả về mặt lí luận và thực tiễn, có thể nói rằng vấn đề phát triểnngôn ngữ và tư duy cho trẻ em giai đoạn ba năm đầu đời chưa được quan tâmđúng mực mà vẫn còn những khoảng trống nhất định. Vì vậy, tôi quyết định chọnđề tài "Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ở trẻ em từ 1 – 3 tuổi" với mụcđích góp phần nghiên cứu về ngôn ngữ và tư duy cũng như mối quan hệ giữachúng ở trẻ từ 1 - 3 tuổi. Với đề tài này, tôi hy vọng phần nào giúp đỡ được cácbậc phụ huynh cũng như các nhà giáo dục trẻ hiểu được một cách đúng đắn vềđặc điểm ngôn ngữ và tư duy của trẻ cũng như mối quan hệ giữa chúng để cóđược sự quan tâm, tác động và giáo dục đúng mực đối với trẻ. Theo đó, giúp trẻcó được sự phát triển tốt nhất, tạo cơ sở và nền tảng tốt cho sự phát triển về saucủa trẻ.2. Mục đích nghiên cứuTìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ và tư duy ở trẻ em từ 1 – 3 tuổi và mối quanhệ giữa chúng.Trên cơ sở đó giúp các bậc phụ huynh, người chăm sóc có nhận thức đúngđắn về sự phát triển ngôn ngữ và tư duy của trẻ; cũng như hiểu được mối quan hệgiữa ngôn ngữ và tư duy để có thể bồi dưỡng, phát triển toàn diện đối với trẻ.3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu- Đối tượng: đặc điểm phát triển ngôn ngữ, tư duy; mối quan hệ giữa ngônngữ và tư duy.- Khách thể: 80 trẻ em từ 1 – 3 tuổi, 10 người lớn chăm sóc trẻ.4. Giả thuyết khoa học- Tư duy của trẻ từ 1 – 3 tuổi chủ yếu là tư duy trực quan – hành động. Trẻở cuối giai đoạn này cũng bắt đầu dần hình thành tư duy trực quan – hình tượng.Ngôn ngữ của trẻ 1 – 3 tuổi phát triển mạnh mẽ về cả mặt thông hiểu lời nói; cảsự hình thành và phát triển ngôn ngữ nói .- Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ở trẻ 1 – 3 tuổi là chặt chẽ và theochiều thuận. Ngôn ngữ phát triển tạo điều kiện cho sự phát triển tư duy; và ngượclại thì sự phát triển tư duy sẽ thúc đẩy quá trình phát triển ngôn ngữ ở trẻ.75. Nhiệm vụ nghiên cứu5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu lí luận- Nghiên cứu tài liệu về đặc điểm ngôn ngữ của trẻ em từ 1 - 3 tuổi.- Nghiên cứu tài liệu về đặc điểm tư duy của trẻ em từ 1 – 3 tuổi.- Nghiên cứu tài liệu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ở trẻ 1- 3tuổi.5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn- Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ và tư duy của 80 trẻ em từ 1 – 3 tuổi trênđịa bàn Tp. Hà Nội thông qua các bảng quan sát, các tình huống...- Phân tích mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy của trẻ- Đề xuất những kiến nghị giúp phụ huynh phát triển ngôn ngữ và tư duycủa trẻ.6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu6.1. Đối tượng nghiên cứuĐặc điểm phát triển ngôn ngữ, tư duy ở trẻ em từ 1 – 3 tuổi và mối quan hệgiữa chúng.6.2. Khách thể và địa bàn nghiên cứu- 80 trẻ em từ 1 – 3 tuổi ở các nhà trẻ trên địa bàn Tp. Hà Nội, 10 người lớnchăm sóc trẻ.6.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 11/2012 đến tháng 05/20147. Các phương pháp nghiên cứu7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu7.2. Phương pháp sử dụng thang đo7.3. Phương pháp quan sát7.4. Phương pháp phỏng vấn sâu7.5. Phương pháp phân tích chân dung tâm lý7.6. Phương pháp thống kê toán học8Chương 1LÍ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ TƯ DUY ỞTRẺ 1 – 3 TUỔI1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề1.1.1. Những nghiên cứu nước ngoài về ngôn ngữ, tư duy và mối quanhệ giữa chúng ở trẻ từ 1 – 3 tuổiVấn đề về tư duy và ngôn ngữ; cũng như mối quan hệ giữa tư duy và ngônngữ đã được nghiên cứu từ rất sớm. Và, vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và ngônngữ không chỉ là mối quan tâm ở trong tâm lí học mà cả trong logic học và ngônngữ học. Theo đó, có hai quan điểm cơ bản thường được phát biểu và ủng hộnhiều hơn cả trong lĩnh vực này là:- Quan điểm thứ nhất, là quan điểm cho rằng tư duy và ngôn ngữ là đồngnhất (tư duy là ngôn ngữ thầm, là “ngôn ngữ trừ đi âm thanh”).- Quan điểm thứ hai, là quan điểm cho rằng tư duy và ngôn ngữ chỉ gắn bóbề ngoài với nhau (ngôn ngữ là lớp vỏ bên ngoài của tư duy, là phương tiện biểuhiện các ý nghĩ có sẵn nảy sinh bên ngoài hình thái các từ và các hình tượng cảmtính).Trong tâm lý học hiện đại, biểu hiện của quan điểm thứ nhất là cách giảithích theo chủ nghĩa hành vi coi tư duy là kĩ xảo ngôn ngữ vận động; còn biểuhiện của quan điểm thứ hai là những lí luận khác nhau về tư duy “thuần túy” dotrường phái Vuxbua sản sinh ra.Tác giả A. N. Xôkôlôv trong tác phẩm “Ngôn ngữ bên trong và tư duy” đãcho rằng: chúng ta thiên về việc gán cho hành động tư duy có 1 sự độc lập hoàntoàn đối với ngôn ngữ, nếu như một cá thể thành thạo được hoặc có khả năngthành thạo được các khái niệm của mình mà không cần sự hướng dẫn bằng lời từphía hoàn cảnh xung quanh. Rất có thể là tình trạng trí tuệ của cá thể như vậy,phát triển trong những điều kiện như vậy sẽ rất là nghèo nàn. Như vậy, chúng tacó thể kết luận rằng, sự phát triển trí tuệ của cá thể và con đường hình thành cáckhái niệm của cá thể này phụ thuộc rất nhiều vào ngôn ngữ. Điều này làm chochúng ta hiểu được rằng sự phát triển của ngôn ngữ đồng thời cũng là phương9tiện của sự phát triển trí tuệ. Hiểu theo nghĩa này thì tư duy và ngôn ngữ là cóliên hệ lẫn nhau. [26; tr 77 - 78]Thật vậy, việc phân tích lịch sử - xã hội vấn đề tư duy và ngôn ngữ theo cácquan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã làm bộc lộ ra tính không có căncứ khoa học của các quan niệm như trên, đã làm bộc lộ ra đặc tính máy móc vàduy tâm của các quan niệm đó và đã xác lập được mối liên hệ lẫn nhau giữa ngônngữ và tư duy, xác lập được sự thống nhất không thể tách rời được của ngôn ngữvà tư duy trong quá trình giao tiếp và hoạt động nhận thức của con người. Nảysinh ra như là phương tiện để giao tiếp và hiểu biết lẫn nhau, ngôn ngữ đồng thờicũng trở thành phương tiện tư duy. Nó khái quát hóa và ghi lại kinh nghiệm xãhội của con người và lời người ở dạng các khái niệm, phán đoán và suy luận. Mặtkhác, tư duy thể hiện ra như là phương tiện để hình thành và phát triển các ý nghĩđó, như là phương tiện để phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa và khái quát hóacác sự vật hiện tượng của hiện thực.Các nhà tâm lí học Liên Xô cũng đã đề cập đến vấn đề tư duy và mối quanhệ của nó với ngôn ngữ trong tác phẩm ''Tâm lí học" như sau:Tư duy nảy sinh trên cơ sở phản xạ định hướng ở lứa tuổi nhỏ mang tínhchất thực tiễn (giống như hành động của khỉ). Mức độ sớm nhất về tư duy của trẻđược thể hiện như sau:- Các em giải được các bài “toán” rất trực quan (các trò chơi, rút dây giày,luồn các dây nhỏ qua lỗ nhỏ…).- Các bài “toán” bắt đầu xuất hiện như “một cái mồi”. Nó lôi cuốn đứa trẻngay từ khi các em mới được nửa năm. Bài “toán” được người lớn nêu lên thànhcâu hỏi hoặc thành các mệnh lệnh làm tăng tính mục đích và tính hợp lí trong cáchoạt động trước đây không theo trật tự nào của đứa trẻ. Điều đó nói lên hoạt độngtư duy điển hình của con người.- Bài “toán” được giả bằng hành động thực tế, bằng con đường phân tíchthực tế các đối tượng hoàn chỉnh và kết hợp các bộ phận của chúng lại với nhau.- Trẻ em ngay cả khi giải đúng bằng hành động một bài “toán” thực tế đơngiản, các em cũng không nói nhiều về những cách thức mà các em đã sử dụng.10Việc nắm vững ngôn ngữ thể hiện trước hết đứa trẻ phải hiểu được, sau đónói lên lời, tích lũy nhanh chóng kinh nghiệm đời sống thực tế, đảm bảo cho sựphát triển tư duy sau này của đứa trẻ. [12]Vậy, giữa tư duy và ngôn ngữ có mối liên hệ lẫn nhau. Mối quan hệ nàycũng được thể hiện ngay cả ở tư duy và ngôn ngữ của trẻ em. Và nội dung nàyvẫn luôn có được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Các tác giả đã và đangtiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra những kết luận của mình. Trong đó, phảikể đến các tác giả nổi bật sau:* Jean Piaget (1896 – 1980), là một nhà tâm lý học nổi tiếng người ThụySĩ. Tên tuổi của ông được biết đến trên toàn thế giới vì những cống hiến to lớncủa ông cho nền tâm lý học và giáo dục học thế kỉ XX. Suốt cuộc đời nghiên cứukhoa học miệt mài, J. Piaget đã để lại một di sản khổng lồ các công trình nghiêncứu được ghi chép bằng số liệu tỉ mỉ và một kho tàng các tác phẩm nổi tiếng như“Ngôn ngữ và tư duy của trẻ” (1923), “Tâm lí học trí khôn” (1946), “Tâm lí họctrẻ em” (1966)…Những thành tựu nghiên cứu về sự phát sinh, phát triển trí tuệ của trẻ emmà ông phát hiện ra là một trong những đóng góp lớn nhất cho sự phát triển tâmlý học thế kỷ XX. Mối quan tâm lớn nhất của Piaget là cấu trúc trí tuệ và quátrình phát sinh phát triển trí tuệ của trẻ em như thế nào? Theo ông, trí tuệ của cánhân phát triển từ thấp đến cao được tuân theo trật tự chặt chẽ. Đây không phải làtrật tự thời gian mà là trật tự kế tiếp, mọi cá nhân phát triển bình thường đều phảituân theo trật tự đó. Đồng thời quá trình phát triển này theo hai quy luật: tăngtrưởng liên tục, từng tí một và phát triển nhảy vọt. Chính sự nhảy vọt cho ta kháiniệm giai đoạn. Piaget cho rằng mỗi lứa tuổi có đặc trưng riêng về chất lượng trítuệ và được coi là một giai đoạn phát triển.Một giai đoạn trí tuệ có những đặc trưng sau:- Thứ nhất, các thành tựu trí tuệ giai đoạn này là sự kế tiếp giai đoạn trước- Thứ hai, các thành tựu của gia đoạn này cũng là sự thống hợp các cấu trúcđã có từ giai đoạn trước- Thứ ba, mỗi giai đoạn là một cấu trúc tổng thể các sơ đồ chứ không phảilà sự xếp chồng các sơ đồ lên nhau11- Thứ tư, mỗi giai đoạn đều gồm các cấu trúc đã có, đang có và các yếu tốchuẩn bị cho giai đoạn tiếp sau.Dựa vào các tiêu chuẩn trên, sắp xếp các dữ kiện, Piaget chia quá trình pháttriển trí tuệ của trẻ em thành các giai đoạn lớn:- Giai đoạn cảm giác - vận động, gọi tắt là giai đoạn giác - động(từ 0 đến1.5 tuổi hay 2 tuổi). J. Piaget đã chia sự hình thành và phát triển tư duy trong giaiđoạn giác – động làm 6 thời kì nhỏ:+ Thời kì 1 (0 - 1 tháng): Các phản xạ có tính chất bẩm sinh - phản xạ bú,được phát động do sự kích thích của môi trường và chúng càng được lặp lại càngcó hiệu lực hơn. Từ đó hình thành sơ cấu cảm giác và cử động. Sự lặp lại cácphản xạ bú tạo ra phản ứng vòng tròn sơ cấp.+ Thời kì 2 (1 - 4 tháng): hình thành tri giác và thói quen vận động, quađiều kiện hoá các phản xạ đã có theo các tương tác của môi trường (động tác mútkhi nhìn thấy bầu sữa v.v…).+ Thời kì 3 (4 - 8 tháng): phản ứng vòng tròn thứ cấp được thiết lập do sựlặp lại các cư xử (các phản ứng) phối hợp giữa hệ thống tự giác với các sơ cấuvận động (lặp lại các hành vi kéo sợi dây làm lắc quả chuông để phát ra tiếngkêu.v.v…).+ Thời kì 4 (8 - 12 tháng): hình thành khả năng phối hợp phương tiện - mụcđích (nhấc tay người lớn để lấy đồ chơi v.v…) Xuất hiện dấu hiệu của trí khôn,trên cơ sở sơ đồ mục đích - phương tiện.+ Thời kì 5 (12 - 18 tháng): phát hiện ra các phương tiện mới, khả năngmục đích - phương tiện (kéo chiếu để cho búp bê lại gần. Kéo sợi dây để lấy vậtv.v…).+ Thời kì 6 (18 - 24 tháng): phát sinh các “giải pháp sáng tạo” (hiện tượngbừng hiểu) trong ứng xử (tìm cách mở nắp hộp hoặc bao diêm lấy kẹo hay vậthấp dẫn nào đó v.v…). Điều này chứng tỏ trẻ đã có sự nhập tâm các sơ đồ hànhđộng và có sự phôi hợp các sơ đồ đó ở trong đầu. Nhiều nhà tâm lý học cho rằng,trẻ 2 tuổi đạt mức trí tuệ hành động, giống như trí tuệ của khỉ hình người trongcác thực nghiệm của W. Koehler.- Giai đoạn tiền thao tác(từ 1.5 tuổi hay 2 tuổi đến 7 tuổi)12- Giai đoạn thao tác cụ thể (từ 7 - 8 tuổi đến 11 - 12 tuổi)- Giai đoạn thao tác hình thức (từ sau 11- 12 tuổi)Về sự phát triển ngôn ngữ, Piaget cho rằng: ở đứa trẻ bình thường, ngônngữ xuất hiện gần như đồng thời với những hình thức khác của tư duy kí hiệu.Theo ông, sau một giai đoạn bi bô tự phát (chung ở trẻ e thuộc tất cả các văn hóatừ 6 đến 10 – 11 tháng tuổi), thứ ngôn ngữ này bắt đầu bằng một giai đoạn saukhi thời kỳ giác động kết thúc, mà người ta thường mô tả như ngôn ngữ bằngnhững “từ - câu”. Những từ đơn nhất ấy có thể lần lượt thể hiện những hammuốn, những xúc cảm hay những nhận xét. Từ cuối năm thứ hai, người ta thấycó những câu gồm hai từ, rồi những câu nhỏ đầy đủ không chia động từ, rồi dầndần đạt tới những cấu trúc ngữ pháp.Piaget đề cập đến vấn đề ngôn ngữ tự kỷ với quan điểm: ngôn ngữ tự kỷ làsự thể hiện trực tiếp tính tự kỷ của ý nghĩ trẻ em, là sự thỏa hiệp từ ban đầu giữatính tự kỷ của tư duy trẻ em và sự xã hội hóa từ của nó, là sự thỏa hiệp có tínhchất cơ động, trong đó, tùy theo mức độ phát triển của trẻ, các yếu tố tự kỷ giảmđi và các yêu tố tư duy được xa hội hóa tăng lên, nhờ đó tính tự kỷ trung tâm cảtrong tư duy và trong ngôn ngữ dần biến mất. Về mặt chức năng, ngôn ngữ tự kỷkhông phải là cái gì khác ngoài sự phụ họa đơn giản, kèm theo giai điệu chínhcủa hoạt động của trẻ em và khong làm thay đổi điều gì trong giai điệu đó. Có lẽđó là hiện tượng kèm theo chứ không thực hiện bất cứ chức năng nào trong hànhvi và tư duy của trẻ. Và, ngôn ngữ tự kỷ là biểu hiện trực tiếp mức độ chưa hoànthiện, chưa đầy đủ của việc xã hội hóa của ngôn ngữ trẻ em.Khi bàn về ngôn ngữ và tư duy, Piaget cho rằng: những tiến bộ của tư duybiểu tượng, so với hệ thống các dạng thức giác – động, trên thực tế là nhờ chứcnăng kí hiệu nói chung mà có. Chính chức năng này làm cho tư duy tách khỏihành động và do đó tạo ra biểu tượng. Ông cũng thừa nhận rằng, trong quá trìnhhình thành ấy, ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng vì trái với những côngcụ ký hiệu khác (những hình ảnh…) được cá nhân tạo ra theo những nhu cầu,ngôn ngữ đã được xây dựng xong xuôi về mặt xã hội và đối với các cá nhân họcđể sử dụng nó trước khi góp phần làm phong phú nó, ngôn ngữ chứa đựng sẵn13một tập hợp với những công cụ nhận thức (những liên hệ, những phân loại…)phục vụ cho tư duy. [7].Tuy nhiên, đối với trẻ em thì ông vẫn quan điểm rằng ngôn ngữ không quantrọng lắm đối với sự phát triển của tư duy. Theo ông, tư duy phát triển là nhờ cóviệc trẻ hành động tực tiếp với các vật thể vật chất, phát hiện ra những thiếu sóttrong tư duy hiện có, luyện tập để sáng tạo ra phương thức tư duy phù hợp vớihiện thực (Piaget nhân mạnh tầm quan trọng của hoạt động trực quan của trẻ vớiđồ vật). Theo đó, hạn chế của Piaget là không đánh giá hết được vai trò to lớncủa ngôn ngữ trong việc thúc đẩy sự phát triển của tư duy.Quan điểm của Piaget có ảnh hưởng to lớn đến giáo dục mẫu giáo và tiểuhọc thông qua ba điểm sau:+ Chú trọng cho trẻ hoạt động tìm tòi: trẻ em được động viên tự tìm tòiphát hiện qua sự tác động ngẫu nhiên. Thay vì cung cấp cho trẻ kiến thức sẵn cóbằng lời, người ta đưa ra một loạt các hoạt động thiết kế nhằm kích thích cho trẻkhám phá, phát hiện, tìm tòi và cho phép trẻ tự do lựa chọn các hoạt động này.+ Nhận thức rõ sự sẵn sàng học tập của trẻ. Người ta không cố gắng thúcđẩy sự phát triển của trẻ em. Nội dung học tập được xác định trên mức độ pháttriển của trẻ. Giáo viên quan sát và lắng nghe học sinh của mình, giới thiệunhững kinh nghiệm cho phép trẻ thực hành những mô hình mới sửa đổi cách nhìnnhận thế giới còn sai lạc. Những kĩ năng mới không thể được áp đặt trước khi trẻhoàn toàn thích thú hay sẵn sàng.+ Công nhận sự khác biệt cá thể. Lí thuyết của Piaget cho rằng tất cả trẻ emđều trải qua trình tự phát triển như nhau nhưng trẻ em phát triển với những tốc độkhác nhau. Vì thế, giáo viên phải nỗ lực tổ chức hoạt động cho từng trẻ, hoặcnhóm không phải theo cả lớp.Lí thuyết của Piaget chú ý nhiều đến hành vi như một cách thức học tập màcoi nhẹ giao tiếp ngôn ngữ. Ảnh hưởng của Piaget đến giáo dục rất lớn; cung cấpcho giáo viên cách thức để quan sát, nhận định và tăng cường sự phát triển củatrẻ em. Ông còn trang bị những cơ sở lí luận cho cách tiếp cận theo hướng lấy trẻem làm trung tâm hoạt động và giảng dạy.14*L. X.Vưgôtxki (1896- 1934), là nhà Tâm lý học Xô Viết vĩ đại. Chỉ saugần 10 năm hoạt động với tư cách là nhà tâm lý học chuyên nghiệp ông đã để lạihàng trăm công trình nghiên cứu tâm lí học. Và ngày nay, tư tưởng của ông vẫnmang tính thời sự, những số liệu, nghiên cứu và giả thuyết của ông vẫn đangđược chứng minh. Quan điểm của ông được đánh giá cao không chỉ bởi các nhàtâm lí học hoạt động mà cả những nhà tâm lí học Âu – Mỹ. Cùng với J. Piaget,ông được coi là người sáng lập ra tâm lí học phát triển.Vấn đề tư duy và ngôn ngữ chiếm vị trí trung tâm trong các công trìnhnghiên cứu của L. X. Vugotxki cũng như tâm lý học Xô viết đã giải quyết đượcrất nhiều vấn đề trong lĩnh vực này theo quan điểm mới và khoa học triệt để:nguồn gốc của tư duy, trí tuệ và của ngôn ngữ, bản chất xã hội của tư duy ngônngữ, vai trò của ngôn ngữ trong tư duy và trí tuệ trẻ em, bản chất của khái niệmkhoa học và vai trò của phương tiện kí hiệu (ngôn ngữ) trong quá trình hìnhthành và phát triển của nó, sự hình thành và phát triển của ý và nghĩa trong quátrình hình thành phát triển từ, tức là mối quan hệ phát sinh giữa ý, nghĩa và từngữ… Toàn bộ những vẫn đề nêu trên được L. X. Vugotxki giải quyết theo tưtưởng phát triển, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc gián tiếp, lịch sử, tiếp cận theophương pháp lịch sử - phát sinh, phương pháp phân tích đơn vị, phương phápcông cụ và phương pháp kích thích kép… Nói cách khác, ở đây hội tụ đầy đủ cácnguyên lý, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể củaL.X.Vugotxki và cộng sự. Trong quá trình giải quyết những vấn đề trênL.X.Vưgotxki cũng thường xuyên đề cập và tranh luận với nhiều nhà tâm lý họcđương thời có quan điểm khác, đặc biệt là với W.Sterner, J.Piaget, Keler,J.Watson. Các kết quả nghiên cứu vấn đề này được L.X.Vưgotxki phân tích trongtác phẩm “Công cụ và kí hiệu trong sự phát triển của trẻ em” (1930) và sau nàyđược tổng kết trong tác phẩm tâm lý học lớn nhất của ông “Tư duy và ngôn ngữ”(1934). Sau đây là một số luận điểm chính của L.X.Vưgotxki về vấn đề tư duy vàngôn ngữ.- Nguồn gốc phát sinh của tư duy, ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữTheo L.X.Vưgotxki, tư duy và ngôn ngữ có nguồn gốc khác nhau và đềubắt nguồn từ hành động. Sự phát triển của tư duy và của ngôn ngữ đến một thời15điểm nhất định sẽ diễn ra sự kết hợp, trong đó tư duy có ngôn ngữ còn ngôn ngữlà ngôn ngữ trí tuệ.Sử dụng phương pháp phân tích đơn vị và phương pháp luận lịch sử phátsinh để phân tích kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học lớn đương thời nhưKeler, J.Watson, J.Piaget, Sterner v.v… L.X.Vưgotxki đã đi đến những kết luận:+ Trong quá trình phát sinh cá thể của tư duy và ngôn ngữ, chúng ta tìmthấy nguồn gốc khác nhau của hai quá trình này.+ Trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ em, chúng ta có thể thừa nhận có“giai đoạn tiền trí tuệ” cũng như trong quá trình phát triển tư duy có “giai đoạntiền ngôn ngữ”.+ Trước thời điểm nào đó, sự phát triển của tư duy và ngôn ngữ theo haiđường khác nhau, độc lập với nhau.+ Tại một thời điểm nào đó, cả hai tuyến cắt nhau, sau đó tư duy trở thànhtư duy ngôn ngữ, còn ngôn ngữ trở thành ngôn ngữ trí tuệ. [15; tr 536 - 537]- Sự phát triển tư duy, ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữ ở trẻ emL.X.Vưgotxki không tán thành các quan niệm cực đoan, hoặc cho rằng trítuệ cấp cao của người có nguồn gốc từ trí tuệ của khỉ và nó chính là sự tiếp tụctrực tiếp của các nguồn gốc đó, mà không có bước nhảy vọt sang hình thức tồntại mang tính chất xã hội; hoặc cho rằng trí tuệ cấp cao là phát kiến vĩ đại củachính đứa trẻ, qua việc tự nó tìm ra được quan hệ giữa kí hiệu và ý nghĩa của nó,nghĩa là tư duy, trí tuệ như là hành động tinh thần thuần tuý.Theo L.X.Vưgotxki, trẻ em chỉ sử dụng công cụ giống như khỉ (trong cácthực nghiệm của Keler) cho đến khi chúng vẫn còn ở giai đoạn phát triển tiềnngôn ngữ. Nhưng ngay sau khi ngôn ngữ của trẻ được xuất hiện và được đưa vàosử dụng thì việc sử dụng công cụ của trẻ được đổi mới hoàn toàn, khắc phụcđược các qui luật tự nhiên sẵn có và lần đầu tiên tạo ra hình thức sử dụng công cụđặc trưng cho loài người. Từ thời điểm này, trẻ nhỏ với sự giúp đỡ của ngôn ngữ,bắt đầu làm chủ tình huống, làm chủ hành vi bản thân, xuất hiện hình thức tổchức hành vi hoàn toàn mới cũng như quan hệ mới với môi trường. Đứa trẻ ởtrong điều kiện nảy sinh các dạng hành vi đặc trưng cho loài người, tách rời khỏi16các dạng hành vi động vật, phát triển trí tuệ và sau đó mang tính chất cơ bản đốivới lao động - hình thức sử dụng công cụ của loài người. [15; tr 537]L.X. Vưgotxki cũng cho rằng quá trình phát triển nêu trên không phải là kếtquả của chính hành động trí tuệ (như quan điểm của trường phái Vuxbua), cũngkhông phải là sản phẩm của quá trình tự động hoá, xuất hiện như là sự bừng hiểuở thời điểm của cuối quá trình hành động (như lí luận của trường phái Gestalt).Ông cho rằng: “ngay từ những ngày đầu tiên, sự thích ứng của nó với môi trườngđược thực hiện bằng các phương tiện xã hội thông qua những người xung quanh.Con đường từ đồ vật đều trẻ em và từ trẻ em đến đồ vật đều đi qua người khác.Chuyển từ con đường phát triển sinh học sang con đường phát triển xã hội, tạothành mắt xích trung tâm trong quá trình phát triển, là bước ngoặt cơ bản tronglịch sử hành vi của trẻ em. Con đường đi qua người khác là con đường trung tâmcủa sự phát triển trí tuệ”. [15; tr 539]Con đường đi từ đồ vật đến trẻ em và từ trẻ em đến đồ vật đều đi quangười khác. Nếu chúng ta chỉ đặt trẻ vào môi trường có toàn đồ vật mà không cóhướng dẫn, không có ngôn ngữ trong quá trình hướng dẫn trẻ chơi thì nó cũngchỉ là đống đồ chơi chết cứng, trẻ có thể thích một hai loại đồ chơi do màu sắc,âm thanh hay kích cỡ, nhưng trẻ cũng chỉ biết cầm nó như một vật vô tri. Vậynên vai trò của người hướng dẫn trong giai đoạn đầu đời của trẻ là hết sức quantrọng.L.X.Vưgotxki trong ''Tư duy và ngôn ngữ" đã lập luận rằng: hoạt động tinhthần của con người chính là kết quả học tập mang tính xã hội. Theo ông, khi trẻem gặp một số khó khăn trong cuộc sống, trẻ tham gia vào sự hợp tác với ngườilớn và của bạn bè có năng lực cao hơn, những người này đã giúp đỡ trẻ vàkhuyến khích trẻ. Trong mối quan hệ hợp tác này, những quá trình tư duy trongmột xã hội nhất định được truyền giao sang trẻ, mà ở đó ngôn ngữ là phươngthức đầu tiên trao đổi các giá trị xã hội. Vưgotxky coi ngôn ngữ là vô cùng quantrọng đối với sự phát triển tư duy.Cũng bàn về vấn đề ngôn ngữ tự kỷ nhưng theo quan điểm đối lập vớiPiaget, Vưgotxki cho rằng: ngôn ngữ tự kỷ của trẻ em là một trong những hiệntượng chuyển từ các chức năng tâm lý bên ngoài vào các chức năng tâm lý bên17trong. Sự chuyển tiếp này là quy luật chung tương đối với sự phát triển tất cả cácchức năng tâm lý cấp cao. Các chức năng này, ngay từ đầu, xuất hiện như là cáchình thực hoạt động hợp tác và chỉ sau đó mới được trẻ em chuyển vào lĩnh vựccác hình thức hoạt động tâm lý. Ngôn ngữ cho bản thân xuất hiện bằng conđường phân hóa chức năng ngôn ngữ có tính chất xã hội có sẵn từ đầu cho ngườikhác. Theo ông, ngôn ngữ tự kỷ có chức năng gần gũi với chức năng của ngônngữ bên trong. Đó không phải là giai điệu phụ họa mà là giai điệu chính, là chứcnăng độc lập, phục vụ cho mục tiêu của hoạt động trí tuệ, cho ý thức khắc phụckhó khăn và trở ngại, cho tưởng tượng và tư duy. Đó là ngôn ngữ cho mình, phụcvụ cho tư duy trẻ em. [34]Như vậy, Vưgotxki cho rằng ngôn ngữ giúp trẻ tư duy và lựa chọn các hànhđộng phù hợp. Ông đánh giá ngôn ngữ như nền tảng cho tất cả các quá trình tưduy bậc cao như điều khiển, chú ý, ghi nhớ có chủ định và nhớ lại, phân loại kếhoạch hóa hoạt động và giải quyết vấn đề. Trẻ càng lớn càng thấy các hoạt độngdễ dần, ngôn ngữ tự điều chỉnh sẽ chuyển vào bên trong thành lời nói thầm.L.X.Vưgotxki cũng đã có những kết luận quan trọng về mặt giáo dục đốivới trẻ. Theo ông, giáo dục không đi cùng hoặc đi sau sự phát triển, mà giáo dụcphải đi trước sự phát triển, và ông đưa ra khái niệm “vùng phát triển gần nhất”.Khái niệm “vùng phát triển gần nhất” dựa trên quan điểm rằng: nếu cóngười định hướng và hỗ trợ giải quyết một phần khó khăn của nhiệm vụ, thìngười học có thể tư duy theo cách tiến bộ hơn so với khi phải thực hiện toàn bộnhiệm vụ đó một mình. Đối với mỗi trẻ nhất định, vùng phát triển gần nhất đượcxác định là khoảng cách giữa những gì trẻ có thể hoàn thành khi giải quyết vấnđề một mình và những gì trẻ có thể làm được khi nhận được sự giúp đỡ hữu ích.Mặc dù hai đứa trẻ có khả năng như nhau để làm bài tập một mình, một trẻ cókhả năng hoàn thành nhiều hơn khi được giúp đỡ, trong khi trẻ kia không nhậnđược sự giúp đỡ đáng kể thì hoàn thành ít hơn. Việc trẻ làm tốt đến mức độ nàokhi được giúp đỡ thì nói lên nhiều điều về tư duy của trẻ hơn là việc trẻ khônglàm tốt khi không được trợ giúp.Trong lý thuyết về “vùng phát triển gần nhất” có khái niệm “thời kì giảngdạy tối ưu một môn học nào đó”, có khi còn gọi là “thời kỳ nhạy cảm”, là thời kì18cơ thể nhạy bén nhất đối với một loại tác động nào đó, mà ở thời kì khác tácđộng đó có thể chỉ là trung tính, hay tác động kém. L.X.Vưgotxki viết: “Vì vậyviệc giảng dạy chỉ có kết quả nhất khi nó được tiến hành trong một thời kỳ nhấtđịnh, thời kỳ này được xác lập bởi vùng phát triển gần – có khi còn gọi là thời kỳcó ngưỡng thấp (nhạy cảm cao) của giảng dạy; thời kỳ ngược lại gọi là thời kỳ cóngưỡng cao (kém nhạy cảm)”.Tiếp thu quan điểm của Vưgotxki, người ta chỉ ra hai đặc điểm quan trọngcủa quá trình trẻ hoạt động với người lớn. Đó là:+ Tính liên chủ thể: hai người tham gia vào cùng một nhiệm vụ từ khác biệtđến thống nhất. Liên chủ thể tạp ra cơ sở chung cho giao tiếp khi từng cá thể tựđiều chỉnh để phù hợp với quan điểm của bạn giao tiếp. Người lớn cố gắng thúcđẩy tính liên chủ thể khi diễn đạt hiểu biết của mình trong cách thức để hiểu vấnđề của trẻ. Khi trẻ cố gắng lĩnh họi sự giảng giải tức là nó đã bước thêm mộtbước về nhận thức.+ Phương pháp bắc giàn hay còn gọi là phương pháp thích ứng: người lớnthay đổi sự hỗ trợ của mình đẻ phù hợp với mức độ phát triển hiện có của trẻ.Lí thuyết của Vưgotxki đưa đến một cách nhìn mới trong dạy học, ở đónhấn mạnh ngữ cảnh giao tiếp. Về sự hợp tác cùng nhau, cũng như Piaget, ôngcoi trọng sự tham gia tích cực và sự khác biệt của các cá thể. Khác với Piaget,ông coi giáo dục không chỉ hoàn thiện những cái đã hình thành mà còn thúc đẩysự phát triển khi trẻ tiếp thu sự chỉ dẫn, hỗ trợ của người lớnđể giải quyết nhữngnhiệm vụ ở “vùng phát triển gần nhất”.Ngoài quan điểm của các tác giả trên, chúng ta còn có thể kể đến các tác giảnổi tiếng khác nghiên cứu về tư duy và ngôn ngữ của trẻ em như: Henri Wallon,J.S.Bruner, Alfred Binet, Howard Gardne, A.M.Leusina, E.I. Chikhiêva,Ph.A.Sokhin, K-Hainơ Dich,...* Alfred Binet, năm 1904, cùng một nhóm các nhà tâm lý học người Phápchuyên nghiên cứu tâm lý trẻ đã nghiên cứu thành công phương pháp nhận diệnvà đánh giá trí tuệ của học sinh. Công trình được được giới chức giáo dục Phápđánh giá rất cao. Sau đó, bài kiểm tra của Binet trở nên thông dụng trên khắpnước Mỹ và bùng phát mạnh vào năm 1917 – chính phủ Mỹ sử dụng bài kiểm tra19này để phân loại, đánh giá và phân bổ tân binh vào các vị trí trong quân đội,trong Thế chiến thứ I. Các bài kiểm tra của Binet nhằm kiểm tra trí thông minhđối với học sinh, qua đó ông sẽ đánh giá được năng lực tư duy và suy luận của trẻtrong nhiều lĩnh vực khác nhau. Bài kiểm tra đòi hỏi trẻ phải làm một số trắcnghiệm về khả năng làm theo hướng dẫn, bắt chước hình mẫu, gọi tên đồ vậthoặc sắp xếp món đồ theo thứ tự và chủng loại.* J.S.Bruner, nhà tâm lý học Mỹ chuyên nghiên cứu về tâm lý học trẻ emvà các quá trình nhận thức đã phân tích các mức độ khác nhau của hoạt độngnhận thức, từ tri giác đến tư duy khái niệm. Ở trẻ nhỏ, sản phẩm của quá trình tưduy chính là các biểu tượng, hình ảnh nhưng ở các mức độ khác nhau. Sự pháttriển của các biểu tượng là một trong những chỉ số của sự phát triển trí tuệ nóichung và sự phát triển tư duy nói riêng.* Tác giả E.I. Chikhiêva, nhà sư phạm Nga – Xô viết là một tác giả có uytín nghiên cứu về phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo. Cuốn sách "Phát triểnngôn ngữ trẻ em dưới tuổi đến trường phổ thông" của bà đã đề ra các phươngpháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách hệ thống. Trong đó, bà nhấn mạnh cầndựa trên cơ sở tổ chức cho trẻ tìm hiểu về thế giới thiên nhiên xung quanh trẻthông qua các hoạt động chơi, xem tranh, kể chuyện cho trẻ nghe để hình thànhvà phát triển kỹ năng kể chuyện cho trẻ. Bà cũng lưu ý các nhà giáo đến vai trò tolớn của tự nhiên trong việc giáo dục trẻ em nói chung và ngôn ngữ nói riêng. Cóđiều làm sao khi chung đụng với thiên nhiên, các em được quan sát nhiều, hoạtđộng nhiều và thể hiện tình cảm nhiều thì mới có lợi cho ngôn ngữ. Những tưtưởng này đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với khoa học giáo dục mầm non.[22]* Tác giả K-Hainơ Dich trong các tác phẩm của mình, trong đó có cuốn"Dạy trẻ học nói như thế nào?" đã dựa trên cơ sở các đặc điểm phát triển ngônngữ của trẻ để xây dựng nội dung phương pháp, biện pháp và các bài tập pháttriển ngôn ngữ cho trẻ trước tuổi học. Trong đó, có chú ý tới hoàn chỉnh bộ máyphát âm, tạo môi trường ngôn ngữ nhất là ngôn ngữ của người lớn xung quanh.[21]20Trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi kế thừa quan niệm củaL.X.Vưgôtxki trong việc tìm hiểu, đánh giá sự phát triển ngôn ngữ, tư duy của trẻvà mối quan hệ giữa chúng; cũng như trong việc tìm hiểu những tác động ảnhhưởng đến sự phát triển ngôn ngữ và tư duy của trẻ.1.1.2. Những nghiên cứu trong nước về ngôn ngữ, tư duy và mối quan hệgiữa chúng ở trẻ từ 1 – 3 tuổiỞ nước ta trong những năm gần đây, vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ emngày càng được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục học đặc biệt quan tâm qua cáccông trình nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề tư duy trẻ em thì vẫn chưa có nhiềucông trình nghiên cứu chuyên biệt. Và có chăng thì vấn đề về ngôn ngữ và tư duycủa trẻ em vẫn mới chỉ được quan tâm nghiên cứu một cách riêng lẻ (nghiên cứuvề tư duy, hoặc nghiên cứu về ngôn ngữ); còn mối quan hệ lẫn nhau giữa ngônngữ và tư duy thì chưa được quan tâm nghiên cứu và chưa có những công trìnhchuyên biệt.Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữcho trẻ mẫu giáo” đã chỉ ra rằng: Từ 1 năm đến 1 năm 5 tháng, trẻ em bắt chướcngười lớn, lặp lại những từ nghe được: bà, bố, mẹ, ủ (ngủ)… Số lượng từ có thểđạt từ 30 – 40 từ. Từ tháng thứ 6 của năm thứ 2, vốn từ tăng vụt lên và đến cuốinăm thứ 2 các em có thể nói đến 5, 6 trăm từ. Đến năm thứ 3, các em đã sử dụngđược từ 1300 từ, trong đó phần lớn là danh từ, động từ còn tính từ và những từloại khác thì chiếm tỉ lệ rất ít, không đáng kể. Những từ được các cháu sử dụngthường là những từ chỉ tên gọi, đồ chơi, đồ dùng, con vật… mà các cháu thườngxuyên được tiếp xúc, là những từ chỉ những việc làm của các cháu và của mọingười xung quanh (như: ăn, ngủ, tắm, rửa, quét, đi, bế, cõng…) hoặc là những từchỉ hành động của những con vật (như: gà mổ thóc, cá bơi…). Vật thể xungquanh thu hút sự chú ý của trẻ và nhận được tên gọi chỉ trong trường hợp ngườita cho trẻ “giao tiếp” với chúng: đụng đến, sờ mó đến vật, mâm mê trong tay,vuốt ve, sờ mó, nghe, ngửi, ăn… Ngay khoảng 2 tuổi, trẻ nhớ tên gọi đối tượngkhó khăn nếu chỉ nhìn nó. Bên cạnh đó, trong tác phẩm này, tác giả cũng đã đềcập đến nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ khác nhau cho trẻ. Theo đó, góp phần vàoviệc phát triển ngôn ngữ cho trẻ em. [11]21Tác giả Tạ Ngọc Thanh trong tác phẩm “Đánh giá và kích thích sự pháttriển của trẻ 0 – 3 tuổi”, đã cho rằng: Sự phát cảm ngôn ngữ của trẻ diễn ra mạnhtừ 1 – 3 tuổi: trẻ nhớ được các từ, rồi câu nói, các sự việc mới xảy ra, lặp lại cáchành động đã làm trước đó... Đến cuối 2 tuổi, các âm bập bẹ của trẻ dường nhưmất đi nhường chỗ cho sự phát triển các từ chỉ động. Trẻ 2 – 3 tuổi có số lượngtừ tăng rất nhanh và các từ loại không chỉ là động từ, danh từ như trước hai tuổimà dần dần các từ loại khác (tính từ, trạng từ...) cũng xuất hiện. Đến 3 tuổi, trẻ đãhiểu được các câu nói, hiểu được nghĩa khái quát của từ (ví dụ: từ “áo” là để chỉtất cả các áo có hình dáng, kích thước, màu sắc khác nhau). Trẻ 3 tuổi có thể phátâm rõ ràng để người khác hiểu ý của mình (tuy việc phát âm cũng chưa thậtchính xác), có thể kể chuyện đơn giản và có thể thuộc những bài thơ, bài hátngắn. Tác giả cũng cho rằng ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh và có quan hệ chặtchẽ với sự phát triển tư duy. Bên cạnh đó, trong tác phẩm của mình, tác giả đãđưa ra các phương pháp, các chỉ số đánh giá về sự phát triển tâm lí của trẻ từ 0 –3 tuổi (trong đó có nhận thức và ngôn ngữ); và đưa ra một số biện pháp kíchthích sự phát triển nhận thức và ngôn ngữ cho trẻ giai đoạn này. Điều này có ýnghĩa to lớn đối với cả nhà giáo dục và phụ huynh trong việc hiểu rõ hơn và biếtcách tác động tốt hơn để kích thích sự phát triển ngôn ngữ và tư duy của trẻ. [24]Tác giả Đinh Hồng Thái cũng đã đề cập đến vấn đề ngôn ngữ của trẻ tronggiáo trình "Phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non" . Trong tác phẩm, tác giả đã trìnhbày khá đầy đủ những vấn đề chung về ngôn ngữ và sự phát triển ngôn ngữ trẻem tuổi mầm non; cũng như trình bày những đặc điểm phát triển ngôn ngữ vànhững nhiệm vụ, nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Đây được xemlà cuốn giáo trình khá đầy đủ về phát triển ngôn ngữ của trẻ. [20]Tác giả Bùi Kim Tuyến và các công sự của mình cũng đã đề cập đến vấn đềtrong tác phẩm "Các hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non". Các tácgiả đã dựa trên đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ để đề ra các phương pháp vàhình thức tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Theo đó, cuốn sách đãcung cấp cho các nhà giáo dục và các bậc phụ huynh những hiểu biết khái quátvề đặc điểm ngôn ngữ của trẻ cũng như có được những hoạt động có thể kíchthích khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ.22Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Huy Cẩn "Các quá trình hình thành vàphát triển ngôn ngữ trẻ em" và luận án tiến sĩ của tác giả Lưu Thị Lan "Nhữngbước phát triển ngôn ngữ trẻ mẫu giáo" đã khái quát các bước phát triển ngônngữ cho trẻ từ 1 - 6 tuổi. Tác giả đã tập trung mô tả khá tỉ mỉ các hiện tượng xuấthiện ngôn ngữ tự nhiên của trẻ về mặt ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng. Các côngtrình này cung cấp tài liệu về những bước phát triển ngôn ngữ trẻ em Việt Nam,đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ trẻ em trước tuổi học đưa ra nhữngcơ sở khoa học định hướng cho việc nghiên cứu tiếp công trình phát triển ngônngữ cho trẻ mầm non và đào tạo giáo viên mầm non.Về tư duy trẻ em thì có thể nói là ở Việt Nam chưa có nhiều công trìnhnghiên cứu chuyên biệt. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về trí tuệ trẻ emcủa Hồ Ngọc Đại, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn KhắcViện…đã đạt được nhiều kết quả đáng trân trọng.Thành tựu nghiên cứu về sự phát triển trí tuệ trẻ em đầu tuổi học của HồNgọc Đại đã chỉ ra chiến lược về giáo dục trí tuệ. Cùng với đồng nghiệp củamình là Nguyễn Kế Hào và các cộng sự ở Trung tâm Công nghệ giáo dục, ông đãthực hiện một số công trình thực nghiệm dài hạn về chiến lược giáo dục mới vớitư tưởng cơ bản là: người lớn tổ chức trẻ em hoạt động để chiếm lĩnh nền vănhóa loài người.Công trình nghiên cứu về trí thông minh của Phạm Hoàng Gia cho rằng tríthông minh ở trẻ em, một sản phẩm tư duy được đặc trưng bởi tính chủ động,linh hoạt, sáng tạo trong nhận thức và hành vi. Vậy cốt lõi của trí thông minhchính là tư duy. Quá trình phát triển tư duy cũng chính là con đường lĩnh hội kháiniệm, là tiền tố tạo nên trí thông minh. Việc hình thành trí thông minh ở trẻ em làcon đường vững chắc nhất để chiếm lĩnh khái niệm khoa học. Ở trẻ mẫu giáo, tríthông minh thể hiện trong thao tác với đồ vật. Đó là kỹ năng, kỹ xảo thuần thục,óc quan sát, trí nhớ logic, sự thể hiện ngôn ngữ. Ở trẻ em, trí thông minh và năngkhiếu phải được bộc lộ và phát triển trong hoạt động của chính bản thân đứa trẻ.23Các công trình nghiên cứu của bác sỹ Nguyễn Khắc Viện về tâm lý học trẻem có một ý nghĩa đặc biệt sâu sắc. Qua nhiều năm làm việc, tiếp xúc với trẻ em,ông cho rằng trí khôn của trẻ biểu hiện ở chỗ biết định hướng trong không gian,thời gian và các mối quan hệ xã hội. Các bài viết của ông thể hiện một tình yêutha thiết đối với con trẻ, một mong muốn mãnh liệt là làm sao nền giáo dục nướcnhà không làm thui chột mà ngược lại phát triển hết mọi khả năng có thể có củatrẻ em.Cũng xuất phát từ quan điểm cơ bản của lý thuyết hoạt động, trong lĩnh vựctư duy của trẻ mẫu giáo, Nguyễn Ánh Tuyết đã có công trình nghiên cứu về tínhlinh hoạt trong tư duy bằng thực nghiệm cho trẻ hành động trên các đồ vật cónhiều hình dạng khác nhau gồm nhiều biến thể của các hình học. Kết quả, trẻ giảiquyết nhiệm vụ thực tiễn một cách linh hoạt với nhiều phương án khác nhau, chứkhông rập khuôn theo một mẫu cứng nhắc nào. Từ đó tác giả cho rằng, nếu trẻem mẫu giáo hành động với các đồ vật phong phú đa dạng sẽ tránh được sự cứngnhắc, gò bó trong hành động vật chất, dẫn tới kiểu tư duy giáo điều, kinh nghiệmchủ nghĩa sau này.Trong luận án “Xây dựng trắc nghiệm đánh giá sự phát triển tâm lí của trẻcuối độ tuổi nhà trẻ” (2002), tác giả Tạ Thị Ngọc Thanh dựa trên cơ sở lí luận vềviệc xây dựng và đánh giá trắc nghiệm, và đã xây dựng thành công trắc nghiệmTBT đánh giá sự phát triển tâm lí của trẻ cuối độ tuổi nhà trẻ. Phương pháp thiếtkế và kiểm nghiệm trắc nghiệm của tác giả được thực hiện qua 3 bước: Xây dựngcác tiêu chí và thiết kế trắc nghiệm → Thử nghiệm trắc nghiệm trên 44 trẻ thuộccác trường mầm non của quận Ba Đình và Thanh Trì (mẫu đại diện cho trẻ nôngthôn và thành thị) → Kiểm nghiệm trắc nghiệm trên 405 trẻ trên địa bàn nội vàngoại thành thành phố Hà Nội. Sau khi thử nghiệm và kiểm nghiệm, Test TBTđược chỉnh sửa và hoàn chỉnh bao gồm 3 lĩnh vực: tâm vận động, trí tuệ và cánhân – xã hội; mỗi lĩnh vực có từ 3 đến 7 chỉ báo; mỗi chỉ báo đều gồm 4 itemđược sắp xếp theo mức độ khó tăng dần. Kết quả kiểm định độ tin cậy và độ hiệulực đã chứng tỏ rằng test TBT là công cụ đáng tin cậy để đo sự phát triển tâm lýcủa trẻ cuối độ tuổi nhà trẻ trên địa bàn Tp Hà Nội. Kết quả kiểm nghiệm cũng24