Vì sao trong tên chủ nghĩa mác - lenin lại không có tên ăng ghen???

TỔNG hợp 7 câu hỏi và đáp án ôn THI TRIẾT học CAO học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.92 KB, 12 trang )

1
TỔNG HỢP 7 CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN ÔN THI TRIẾT HỌC CAO HỌC
Câu 1: Tại sao CN Mac nói chung và triết học Mác nói riêng (CN Mac Lenin) xuất hiện
giữa thế kỷ 19 ở các nước Phương Tây: Anh, Pháp, Đức, Ý mà không xuất hiện ở những
nước khác vào thời điểm khác?
Câu 2: Nếu không có Mac thì CN Mac có xuất hiện hay không?
Câu 3: CN Mac và CN Mac Lenin, Triết học Mac và Triết học Mac Lênin khác nhau và
giống nhau ở điểm nào? Chúng có đồng nhất với nhau được hay không?
Câu 4: Mac- Anghen – Lenin là những người sáng lập nhưng tại sao không gọi tên cả 3
mà gọi là CN Mac Lenin? Làm sáng tỏ vai trò của Anghen trong quá trình ra đời và phát
triển của CN Mác Lenin như thế nào? Lớn hay không? Liệu CN Mac Lê Nin có tồn tại
được trong thời đại của chúng ta hiện nay hay không? Tại sao?
Câu 5: Mac đã mang lại cho chúng ta những phát minh lớn nào? Tại sao CN Mac Lenin
gồm 3 bộ phận cấu thành: Triết – Kinh tế chính trị - CN XHKH. Vai trò của triết học
trong toàn bộ CN Mac
Câu 6: Phương tây đồng nhất CN Mac với lý luận đấu tranh giai cấp, cụ thể là đấu tranh
giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, đồng nhất CN Mac với lý luận về lật đổ CNTB, xây
dựng CN cộng sản.Việc đồng nhất như vậy có đúng hay không? Tại sao?
Câu hỏi số 7: Tại sao gọi Chủ nghĩa Mác mà không gọi là Mac-Ăngghen-Lênin? Vai trò
của Ăngghen trong quá trình hình thành và phát triển Chủ nghĩa Mac?

Câu 1: Tại sao CN Mac nói chung và triết học Mác nói riêng (CN Mac Lenin) xuất
hiện giữa thế kỷ 19 ở các nước Phương Tây: Anh, Pháp, Đức, Ý mà không xuất hiện
ở những nước khác vào thời điểm khác?
Điều kiện kinh tế - xã hội ở Phương Tây vào giữa TK 19 hội đủ các điều kiện để CN Mác
xuất hiện
* Nền đại công nghiệp cơ khí ra đời và phát triển nhờ cuộc cách mạng công nghiệp cuối
thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19:
+ Nước Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa lớn nhất với lực lượng công
nghiệp hùng mạnh. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp đang được hoàn thành.
+ Ở Đức và một số nước Tây Âu khác, cuộc cách mạng công nghiệp cũng làm cho


phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lớn lên nhanh chóng trong lòng xã hội phong
kiến.
Nhờ vậy, tính hơn hẳn của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ phong kiến được thể
2
hiện một cách rõ rệt. “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế
kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất
cả các thế hệ trước kia gộp lại” .
* Cùng với nền đại công nghiệp cơ khí là CNTB được xác lập và giữ địa vị thống trị; giai
cấp công nhân ra đời. Đây là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất mới có bản chất
cách mạng triệt để nhất.
* Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn có
của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã mang ý nghĩa
là:
+ Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyông (Pháp) năm 1831 -1834
+ Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 1930 là “phong trào cách mạng
vô sản to lớn đầu tiên thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị”2.
+ Cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ dệt Xilêdi năm 1844 đến sự xuất hiện “Đồng minh
những người chính nghĩa” - một tổ chức vô sản cách mạng.
* Trong điều kiện lịch sử xã hội đó, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử không
chỉ là “ kẻ phá hoại” chủ nghĩa Tư bản mà còn là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu
tranh cho nền dân chủ.
Thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu
khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là
sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản
cách mạng.
Câu 1:Tại sao CN Mac nói chung và triết học Mác nói riêng (CN Mac Lenin) xuất
hiện giữa thế kỷ 19 ở các nước Phương Tây: Anh, Pháp, Đức, Ý mà không xuất hiện
ở những nước khác vào thời điểm khác?
Trả lời:
Về bản chất câu hỏi trên chính là trình bày điều kiện của sự ra đời chủ nghĩa Mác - Lê

nin.
1. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
cách mạng công nghiệp
♣ Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công nghiệp
làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước Anh
đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp. Ở
Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.
♣ Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố tạo
ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội càng thêm
gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng.
Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành những cuộc đấu tranh
giai cấp.
1.2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
♣ Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập,
3
giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành bị trị thì mâu
thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc
đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831 tuy
bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào năm 1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào
cuối những năm 30 của thế kỷ XIX, là phong trào cách mạng to lớn có tính chất quần
chúng và có hình thức chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở
Xilêdi đã mang tính giai cấp.
♣ Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách
mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo dân
chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội phong kiến, vốn
đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789,

nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô
sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng
tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
♣ Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai cấp vô
sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết triết học mới.
Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh nhanh chóng đạt được
thắng lợi.
♣ Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã
tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph. Ăngghen khái quát
xây dựng những quan điểm triết học.
2. Nguồn gốc lí luận và tiền đề khoa học tự nhiên
2.1. Nguồn gốc lí luận
♣ Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Đức
với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học
Mác.
♣ Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen và nghiên
cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết triết học của
Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân hợp lý”
của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm
siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Các Mác và Ph.Ăngghen đã
kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí
luận mới của phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc
phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới
của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học
mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.
♣ Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là A.Smít và
Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà còn là tiền đề lý
luận để hình thành quan điểm triết học.
♣ Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và

S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết học Mác. Các Mác và Ph.Ăng ghen
đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (quan điểm
về vai trò của nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở hữu v.v ) và khắc phục tính
không tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để xây dựng những quan điểm duy vật
4
lịch sử.
♣ Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lí luận của triết học Mác cần tìm hiểu không chỉ trong
triết học Đức mà trong cả chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế chính trị học
Anh.
2.2. Tiền đề khoa học tự nhiên
♣ Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng có mối quan hệ
khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức do các khoa học
cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học có những phát minh mang tính chất vạch
thời đại thì tạo ra sự thay đổi của triết học.
♣ Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều
phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, Thuyết tế bào, thuyết tiến
hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những sự vật,
giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch
ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính hạn chế
và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện chứng cổ đại cũng
như phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân loại cần
phải xây dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát minh của
mình, khoa học đã cung cấp những tri thức để Các Mác và Ph.Ăng ghen khái quát xây
dựng phép biện chứng duy vật.
=> Như vậy, Từ những yếu tố trên có thể khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và
triết học Mác nói riêng ra đời vào thế kỷ 19 là một tất yếu lịch sử không những vì đời
sống thực tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại đã tạo ra.
Câu 1: Tại sao CN Mac nói chung và triết học Mác nói riêng (CN Mac Lenin) xuất
hiện giữa thế kỷ 19 ở các nước Phương Tây: Anh, Pháp, Đức, Ý mà không xuất hiện
ở những nước khác vào thời điểm khác?

Cách trả lời khác
1. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
cách mạng công nghiệp
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công nghiệp
làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước Anh
đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp. Ở
Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố tạo ra
cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội càng thêm
gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng.
Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành những cuộc đấu tranh
giai cấp.
1.2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập,
giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành bị trị thì mâu
thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc
đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831 tuy
5
bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào năm 1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào
cuối những năm 30 của thế kỷ XIX, là phong trào cách mạng to lớn có tính chất quần
chúng và có hình thức chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở
Xilêdi đã mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng.
Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo dân chủ như
trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội phong kiến, vốn đã khiếp
sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm

sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất
hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên
phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản
đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết triết học mới. Học
thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh nhanh chóng đạt được thắng
lợi.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã tạo
ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph. Ăngghen khái quát xây
dựng những quan điểm triết học.
2. Nguồn gốc lí luận và tiền đề khoa học tự nhiên
2.1. Nguồn gốc lí luận
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Đức
với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học
Mác.
Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen và nghiên
cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết triết học của
Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân hợp lý”
của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm
siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Các Mác và Ph.Ăngghen đã
kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí
luận mới của phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc
phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới
của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học
mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là A.Smít và
Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà còn là tiền đề lý
luận để hình thành quan điểm triết học.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và

S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết học Mác. Các Mác và Ph.Ăng ghen
đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (quan điểm
về vai trò của nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở hữu v.v ) và khắc phục tính
không tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để xây dựng những quan điểm duy vật
lịch sử.
Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lí luận của triết học Mác cần tìm hiểu không chỉ trong
triết học Đức mà trong cả chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế chính trị học
6
Anh.
2.2. Tiền đề khoa học tự nhiên
Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng có mối quan hệ
khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức do các khoa học
cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học có những phát minh mang tính chất vạch
thời đại thì tạo ra sự thay đổi của triết học.
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát
minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, Thuyết tế bào, thuyết tiến hóa.
Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những sự vật, giữa
các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính
biện chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự
bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện chứng cổ đại cũng như
phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân loại cần phải
xây dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát minh của mình,
khoa học đã cung cấp những tri thức để Các Mác và Ph.Ăng ghen khái quát xây dựng
phép biện chứng duy vật.
Như vậy, Từ những yếu tố trên có thể khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và
triết học Mác nói riêng ra đời vào thế kỷ 19 là một tất yếu lịch sử không những vì đời
sống thực tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại đã tạo ra.
Câu 2: Nếu không có Mac thì CN Mac có xuất hiện hay không?
Câu 3: CN Mac và CN Mac Lenin, Triết học Mac và Triết học Mac Lênin khác
nhau và giống nhau ở điểm nào? Chúng có đồng nhất với nhau được hay không?

Câu 4: Mac- Anghen – Lenin là những người sáng lập nhưng tại sao không gọi tên
cả 3 mà gọi là CN Mac Lenin? Làm sáng tỏ vai trò của Anghen trong quá trình ra
đời và phát triển của CN Mác Lenin như thế nào? Lớn hay không? Liệu CN Mac Lê
Nin có tồn tại được trong thời đại của chúng ta hiện nay hay không? Tại sao?
Một phần câu 4 trong 6 câu ở buổi học đầu tiên
Mac- Anghen – Lenin là những người sáng lập nhưng tại sao không gọi tên cả 3 mà
gọi là CN Mac Lenin?
Trả lời:
Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin là người bảo vệ, bổ sung, phát triển và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Lênin hình thành và phát triển trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, xét lại và giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới
trong lịch sử chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề cách mạng vô sản trong giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1) Nhu cầu bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.
a) Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn
chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản ngày càng tinh vi,
tàn bạo hơn; mâu thuẫn đặc thù vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ sâu sắc mà
điển hình là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
7
b) Những năm cuối thế kỷ XIX, bước sang thế kỷ XX, có những phát minh vật lý mang
tính vạch thời đại, làm đảo lộn căn bản quan niệm ngàn đời về vật chất. Đây là cơ hội để
chủ nghĩa duy tâm tấn công chủ nghĩa Mác; một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình
trạng khủng hoảng về thế giới quan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành động
của phong trào cách mạng.
c) Chủ nghĩa Mác đã được truyền bá vào nước Nga; nhưng những trào lưu như chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại v.v đã nhân danh đổi mới
chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa đó.
Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu khách quan về việc khái quát những thành tựu khoa học
tự nhiên để rút ra những kết luận về thế giới quan và phương pháp luận triết học cho các
khoa học chuyên ngành; đấu tranh chống lại những trào lưu tư tưởng phản động và phát

triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra. Hoạt động lý luận của V.I.Lênin
nhằm đáp ứng nhu cầu lịch sử đó.
2) Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác được chia thành ba thời kỳ,
tương ứng với ba nhu cầu khách quan của thực tiễn nước Nga.
a) Trong thời kỳ 1893-1907, V.I.Lênin tập trung phê phán tính duy tâm của phái “dân
túy” về những vấn đề lịch sử-xã hội và chỉ ra rằng, qua việc xóa nhòa ranh giới giữa phép
biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, phái dân túy đã xuyên tạc
chủ nghĩa Mác. V.I.Lênin cũng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thức
đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trước khi giành được chính quyền; trong đó các vấn
đề về đấu tranh kinh tế, chính trị, tư tưởng được đề cập rõ nét; ông cũng phát triển chủ
nghĩa Mác về những vấn đề như phương pháp cách mạng; nhân tố chủ quan và yếu tố
khách quan; vai trò của quần chúng nhân dân; của các đảng chính trị trong giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa.
b) Trong thời kỳ 1907-1917, V.I.Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán (1909)- tác phẩm khái quát từ góc độ triết học những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên để bảo vệ và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác; phê phán
triết học duy tâm chủ quan đang chống lại chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy
vật biện chứng nói riêng. Trong tác phẩm, vấn đề cơ bản của triết học và phạm trù vật
chất có ý nghĩa hệ tư tưởng và phương pháp luận hết sức to lớn. Bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác về nhận thức, V.I.Lênin cũng chỉ ra sự thống nhất bên trong, không tách rời
của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử; sự thống nhất của những
luận giải duy vật về tự nhiên, về xã hội, về con người và tư duy của nó. Trong tác phẩm
Bút ký triết học (1914-1916), V.I.Lênin tiếp tục khai thác hạt nhân hợp lý của triết học
Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống
nhất giữa các mặt đối lập. Năm 1917, V.I.Lênin viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng
bàn về vấn đề nhà nước chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng và vai trò của đảng công
nhân và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; đưa ra tư tưởng về nhà nước Xôviết, coi
đó là hình thức của chuyên chính vô sản; vạch ra những nhiệm vụ chính trị và kinh tế mà
nhà nước đó phải thực hiện và chỉ ra những nguồn gốc vật chất của chủ nghĩa xã hội
được tạo ra do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

c) Thời kỳ 1917-1924. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga)
năm 1917 mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này
làm nẩy sinh những nhu cầu mới về lý luận mà sinh thời C.Mác và Ph.Ăngghen chưa thể
hiện; V.I.Lênin tiếp tục tổng kết thực tiễn để đáp ứng nhu cầu đó bằng các tác phẩm mà
các nội dung chính của chúng cho rằng việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát toàn dân; tổ
8
chức thi đua xã hội chủ nghĩa là những điều kiện cần thiết để chuyển sang xây dựng "chủ
nghĩa xã hội kế hoạch". V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở
của công cuộc xây dựng kinh tế; xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ông nhấn mạnh
tính lâu dài của thời kỳ quá độ, không tránh khỏi phải đi qua những nấc thang trên con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định vai trò kinh tế hàng hóa trong điều
kiện nền sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm ưu thế trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nhận thấy sự quan liêu đã bắt đầu xuất hiện trong nhà nước công nông non trẻ,
ông đề nghị những người cộng sản cần thường xuyên chống ba kẻ thù chính là sự kiêu
ngạo, ít học và tham nhũng. V.I.Lênin cũng chú ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi
vận dụng chủ nghĩa Mác nếu không muốn lạc hậu so với cuộc sống.
Di sản kinh điển của V.I.Lênin trở thành cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn của các đảng cộng sản. Thiên tài về lý luận và thực tiễn của V.I. Lênin trong
việc kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác được những người cộng sản
đánh giá cao. Họ đặt tên cho chủ nghĩa của mình là chủ nghĩa Mác-Lênin.
Câu 5: Mac đã mang lại cho chúng ta những phát minh lớn nào? Tại sao CN Mac
Lenin gồm 3 bộ phận cấu thành: Triết – Kinh tế chính trị - CN XHKH. Vai trò của
triết học trong toàn bộ CN Mac
câu hỏi số 5-phần câu hỏi của thầy
Đề:Mác đã mang lại cho chúng ta những phát minh lớn nào?
Mác đã mang đến cho chúng ta 3 phát minh lớn:
- Mác đã tạo ra hình thức cao của chủ nghĩa duy vật,của phép biện chứng đó là sự thống
nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng.
+ chủ nghĩa duy vật trước Mác có thể có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của khoa
học( những quan điểm cơ bản đúng về bản chất _ chống chủ nghĩa duy tâm và tôn

giáo,nó mang tính chất siêu hình và máy móc hoặc lại duy tâm về xã hội.
+Mác đã nghiên cứu có phê phán những thành tựu xuất sắc của triết học trước đây, hình
thành triết học duy vật biện chứng. theo Lenin, Mác đã làm phong phú chủ nghĩa duy vật
bằng phép biện chứng, còn phép biện chứng đặt trên cơ sở hiện thực trở thành khoa học.
- Sự xuất hiện hệ thống lý luận duy vật lịch sử do Mác thực hiện là bước ngoặt cách
mạng trong triết học.
+ Tính cách mạng khoa học về lịch sử trong việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng
giữa hoạt động vật chất với chính trị tư tưởng. Mác khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội.
+Khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân , lực luwngj sáng tạo chân
chính lịch sử, đồng thời nêu lên những qui luật chung, phổ biến của xã hội.
- Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử,Mác đã biến đổi và hoàn thiện tính
chất, đối tượng và mối quan hệ giữa triết học và các khoa học khác.
+Sự biến đổi về tính chất và đối tượng nghiên cứu triết học gắn liền với sự phát triển của
khoa học cụ thể và sự phát triển của xã hội. Trước chủ nghĩa Mác, triết học đã được coi là
" khoa học của các khoa học" vì tư tưởng, lí luận của triếthocj hòa lẫn với tri thức cụ thể
về tự nhiên xã hội, hoặc tách rời với khoa học cụ thể.
+Sự xuất hiện triết học Mác, gắn liền với yêu cầu về phân ngành khoa học, nên tính chất
và đối tượng của triết học cũng thay đổi, đó là mối qun hệ giữa việc nghiên cứu những
9
qui luật chung nhất của thế giới, và các qui luật đặc thù trong các khoa học cụ thể, không
tách rời với khoa học cụ thể.
+ Triết học Mác là thế giới quan, và phương pháp luận khoa học. Tuy nhiên không có
tham vọng giải quyết ( và cũng không thể giải quyết một cách triệt để) những vấn đề
chuyên biệt thuộc phạm vi giải quyết của các khoa học cụ thể.
+ Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử là cơ sở lí luận nghiên cứu
tất cả những lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là có ý nghĩa định hướng cho việc nghiên
cứu và cải tạo tự nhiên và xã hội con người.
câu hỏi số 5 (tiếp theo)-phần câu hỏi của thầy
Vai trò của Triết học trong chủ nghĩa Mác?

-Mác là người kế tục và hoàn thiện những tư tưởng tiến bộ của triết học cổ điển Đức.
Mác thời trẻ đã ủng hộ triết học Heghen. Heghen là một nhà triêt học biện chứng của triết
học duy tâm khách quan. Công lao của Heghen là phê phán mạnh mẽ phương pháp siêu
hình của tư duy và đối lập nó với phương pháp biện chứng,đồng thời là người đầu tiên
diễn đạt những quy luật của phép biện chứng. Tuy nhiên toàn bộ hệ thống triết học
Heghen lại thừa nhận ý niệm tuyệt đối giữ vai trò quyết định và sinh ra giới tự nhiên, xã
hội và hoạt động ý thức của con người. Mác đã xem xét một cách có phê phán những tư
tưởng hợp lí trong phép biện chứng của Heghen nên những nguyên tắc của phép biện
chứng duy vật; đó là hình thức cao nhất của phép biện chứng.
-Do ảnh hưởng cuộc đấu tranh chính trị -xã hội của chủ nghĩa duy vật Phoiơbach, quan
điểm của Mác đã chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa cách
mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Triết học duy vật Phoiơbach ảnh hưởng lớn đến việc hình
thành những quan điểm của Mác, nhất là sự phê phán tôn giáo cũng như chủ nghĩa duy
tâm huyền bí của Heghen. Triết học duy vật Phoiơbach đã giúp Mác thoát khỏi chủ nghĩa
duy tâm của Heghen chuyển sang chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật Phoiơbach với
những tư tưởng nhân đạo và duy vật song thiếu tính thực tiễn và cách mạng triệt để, Mác
luôn đánh giá cao vai trò của triết học duy vât Phoiơbach trong cuộc đấu tranh chống tôn
giáo và chủ nghĩa duy tâm, đồng thời cũng phê phán những thiếu sót hạn chế của
Phoiơbach, và hình thành những quan điểm khoa học về lịch sử.
-Sự ảnh hưởng mạnh mẽ của triết học duy vật, nhưng Mác chưa bao giờ theo Phoiơbach
là chủ nghĩa duy vật siêu hình và duy tâm về xã hội, đã vứt bỏ hoàn toàn triết học
Heghen; còn Mác giữa lại và biến đổi có phê phán học thuyết về sự phát triển và biện
chứng của Heghen
Câu 6: Phương tây đồng nhất CN Mac với lý luận đấu tranh giai cấp, cụ thể là đấu
tranh giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, đồng nhất CN Mac với lý luận về lật đổ
CNTB, xây dựng CN cộng sản.Việc đồng nhất như vậy có đúng hay không? Tại sao?
Câu hỏi số 7: Tại sao gọi Chủ nghĩa Mác mà không gọi là Mac-Ăngghen-Lênin? Vai
trò của Ăngghen trong quá trình hình thành và phát triển Chủ nghĩa Mac?
Trả lời:
1. Gọi là CN Mac chứ không gọi là Mac-Ăngghen-Lênin vì:

10
- Người Phương Tây rất chú trọng đến người đầu tiên đưa ra những tư tưởng mới, đó là
Mác, còn Ăngghen chỉ là người phát triển thêm. Cuối TK 19, đầu TK 20, do CNTB
Phương Tây đã thay đổi quá nhiều thời Mac chưa nhận ra được. Hiện thực mới phải có
người phản ánh mới và CN Lênin ra đời.
- Chính Ăngghen cũng bày tỏ "Phần đóng góp của tôi không kể có thể ngoại trừ một vài
lĩnh vực chuyên môn thì không có tôi Mac vẫn có thể làm được. Nhưng điều mà Mac đã
làm thì tôi không thể làm được. Mac đứng cao hơn, nhìn xa hơn, rộng hơn và nhanh hơn
tất cả chúng tôi. Mac là một thiên tài còn chúng tôi may mắn lắm cũng chỉ là những tài
năng thôi. Nếu không có Mac thì lý luận thật khó mà được như ngày nay. Vì vậy lý luận
đó mang tên Mac là chính đáng"
2. Vai trò của Ăngghen trong quá trình hình thành và phát triển Chủ nghĩa Mac:
- Cuối tháng 8/1844, Ăngghen gặp Mac tại Pari. Sự gặp gỡ này đã đánh dấu một giai
đoạn đặc biệt của triết học Mac nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung. Nhờ sự giúp đỡ
của Ph.Ăngghen về mặt tài chính, gia đình của Mác mới có thể vượt qua những khó khăn
trong cuộc sống và bộ Tư bản mới được xuất bản trọn vẹn. Ăngghen đã bảo vệ Mác khỏi
những kẻ thù tư tưởng để Mác rảnh tay nghiên cứu, khám phá.
- Tháng 2 năm 1845 cuốn sách “Gia đình và thần thánh” của C. Mác và Ph. Ăngghen ra
đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó. Hai ông cùng hợp
sức viết công trình nổi tiếng “Hệ tư tưởng Đức” (1845 – 1846), tiếp đó năm 1848 Đại hội
II Liên đoàn những người Cộng sản đã ủy nhiệm C. Mác và Ph. Ăngghen cùng viết
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.
- Năm 1871, Ph. Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Pari.
Trong thời gian này, Ph. Ăngghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là
cuốn Chống Duyrinh (1878) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện chủ nghĩa Mác.
- Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph. Ăngghen là người lãnh đạo Tổ chức những người
theo chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu, chuẩn bị cho tập 2 và 3 của Bộ Tư bản mà C. Mác chưa
kịp hoàn thành.
Câu hỏi: Anh/ chị hãy chứng minh quan điểm cho rằng: Lý luận về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tức nhà nước của dân, do dân, vì dân là kế thừa

tinh hoa tri thức của phương Đông và phương Tây).
(Bồ sung phần chứng minh)
Trả lời:
1. Kế thừa tinh hoa phương Đông:
- Ở phương Đông, các nhà triết học Trung Quốc như Lão Tử, Trang Tử, và đặc biệt là
Hàn Phi đã đưa ra nhiều tư tưởng về tính tối thượng của pháp luật. Mặc dù không biết
đến thuật ngữ nhà nước pháp quyền như Lão Tử nhưng Trang Tử đã đưa ra nhiều tư
tưởng nhằm giới hạn sự can thiệp của công quyền vào đời sống cá nhân con người. Còn
Hàn Phi đặc biệt nhấn mạnh và đề cao vai trò của pháp luật trong công việc quản lý xã
hội. Ông cũng đưa ra các tiêu chuẩn hết sức cần thiết trong việc xây dựng luật pháp như
tính khách quan, tính công bằng, minh bạch và tính ổn định.
2. Kế thừa tinh hoa phương Tây
Ở phương Tây, dù tư tưởng về nhà nước và pháp quyền xuất hiện rất sớm nhưng đến thời
11
cận đại mới trở thành những lý luận có tính hệ thống cao và có giá trị thực tiễn lớn.
- Từ thời cổ đại, một số nhà triết học nổi tiếng như Xôcrát, Platông, Arixtốt đã đưa ra
nhiều ý tưởng về nhà nước pháp quyền. Các ông đã đề cao tính công minh của pháp luật
trong việc xét xử, cũng như sự cần thiết phải xây dựng các bộ luật và quản lý xã hội bằng
pháp luật.
- Vào thời trung cổ, nhà triết học – thần học nổi tiếng T.Dacanh cũng có những luận giải
khá sâu sắc về nhà nước và pháp quyền.
- Vào thời cổ đại, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trong phạm vi các quốc gia dân
tộc tư sản đã được xác lập và nhanh chóng phát triển. Đó cũng là thời kỳ diễn ra cuộc đấu
tranh chính trị giành quyền lực giữa nhà nước và giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến.
Thời này, nhiều lý luận triết học về pháp quyền ra đời, gắn liền với tên tuổi của các nhà
triết học sau:
· Nhà triết học Hà Lan Xpinnôda (1632- 1677) là người đã sáng lập ra lý thuyết về “pháp
quyền tự nhiên”. Theo lý thuyết này, nhà nước và pháp quyền không phải được tạo ra bởi
Chúa Trời mà là kết quả của sự thỏa thuận giữa con người với nhau phù hợp với quyền tự
nhiên vốn có của mình và phù hợp với quy luật tự nhiên. Theo lý thuyết này, một khi

pháp luật phù hợp với quy luật tự nhiên thì cũng có nghĩa nó phù hợp với bản tính tự
nhiên của con người. Theo ông, cần phải hạn chế quyền lực của nhà nước bằng những đòi
hỏi tự do của con người và cần phải có sự phân biệt rõ ràng giữa pháp luật và đạo đức
trong quản lý xã hội.
· Nhà triết học duy vật người Anh Lốc cơ (1632 – 1704) cũng đứng trên quan điểm pháp
quyền tự nhiên của con người mà cho rằng “Luật tự nhiên là bắt buộc vì rằng đó là tự
do”. Nhà nước là cơ quan quyền lực chung của xã hội mà mỗi công dân phải tuân theo
quyền lực của nó. Trong hoạt động của nhà nước, tất cả phải phục tùng pháp luật như một
nguyên tắc tối cao. Theo logic đó, quyền lực nhà nước không phải tự nhiên có, cũng
không phải xuất phát từ ý muốn riêng có của một người mà theo bản chất nó thuộc về
nhân dân, do nhân dân ủy nhiệm. Như vậy, con người chỉ dành một phần cho nhà nước
mà không phải là tất cả. Con người chỉ đến với nhà nước vì tự do của nó trong đời sống
xã hội, chứ không phải để mất tự do.
· Nhà triết học khai sáng Pháp Môngtexkiơ (1689 – 1775) chia chính thể nhà nước thành
ba loại: chính thể chuyên chế, chính chế quân chủ và chính chế dân chủ. Theo ông ,chính
thể dân chủ là chính thể mà dân chúng hoặc một bộ phận dân chúng có quyền lực tối cao.
Ở đó, luật pháp là tối thượng và người dân chấp hành luật pháp với ý thức làm cho mình,
tự mình gánh lấy nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi. Chính pháp luật là một trong những
yếu tố nền tảng cho sự bền vững của chính thể dân chủ. Ngoài ra, Mongtexkiơ và Rutxô
(1712-1788) còn đưa ra lý luận về khế ước xã hội.
· Theo Cantơ (1724 – 1804), mỗi con người là một giá trị tuyệt đối, nó không thể là một
công cụ cho bất cứ một mưu đồ nào, dù đó là mưu đồ tốt đẹp nhất. Bởi vậy chính con
người mới là chủ thể của quyền lực. Quyền lực nhà nước được tạo nên bởi chính bản tính
tuyệt đối của con người. Nhà nước phải phục tùng pháp luật, đó là phục tùng bản tính
tuyệt đối của con người. Bản thân mỗi con người phải phục tùng mệnh lệnh tối cao của
chính bản tính mình. Ông cũng tán thành quan đỉểm phân chia nhà nước thành các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau.
· Heghen (1770 – 1831) tiếp tục luận chứng những cơ sở triết học của lý thuyết pháp
quyền tự học thuyết về sự tha hóa của “ý niệm tuyệt đối”. Trong tác phẩm nổi tiếng Nhà
12

nước pháp quyền Hêghen cho rằng, xã hội công dân, trật tự pháp luật và các đạo luật
mang tính pháp quyền là những yếu tố cấu thành của nhà nước pháp quyền.
Anh(chị) hãy phân tích ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của học thuyết HTKT-
XH
* ý nghĩa lý luận:
Học thuyết Mac- Lenin về htkt-xh đã vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát
triển xã hội, vạch ra cơ sở và những nguyên nhân xuất hiện và biến đổi của các hiện
tượng xã hội, làm cho xã hội học trở thành một khoa học thật sự, khắc phục được các
quan điểm duy tâm về lịch sử.
Là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận để nghiên cứu các hiện tượng xã hội.
Là cơ sở lý luận cho việc xác định đường lối cách mạng của các Đảng cộng sản.
Là cơ sở lý luận để phê phán các quan niệm phi macxit trong việc phân kỳ sự phát triển
của xã hội.
*Ý nghĩa thực tiễn (sự vận dụng học thuyết ở nước ta hiện nay)
Kể từ khi ĐHĐ VI Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Đường lối đó đã từng
bước đi vào cuộc sống thể hiện sinh động trên tất cả các mặt của đời sống xã hội và thu
được những kết quả bước đầu rất quan trọng.
Thực hiện công cuộc đổi mới là một quá trình vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm bởi
vì chưa bao giờ có sẵn mô hình để căn cứ vào đó mà chủ động vạch ra một chương trình
đổi mới cụ thể, chi tiết trên từng lãnh vực. Song định hướng cho sự quá độ lên CNXH
không qua chế độ chính trị tbcn ở nước ta là:
+ Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước, từng bước làm cho nền kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể
chiếm ưu thế về năng suất, chất lượng, hiệu quả và qua đó giữ vị trí chủ phối.
+ Xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân lao động là người làm chủ xã
hội, bảo vệ quyền dân chủ của mọi thành viên trong xã hội.
+ Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp cận và tận dụng những giá trị mới của văn minh nhân
loại.
+ Tạo môi trường cho hoạt động tự do, sáng tạo, cho mọi sáng kiến các cá nhân và đơn
vị, khai thác triệt để yếu tố con người, vì con người.

Tóm lại, xây dựng htkt-xh XHCN ở nước ta là xây dựng hệ thống qhsx theo yêu cầu phát
triển không ngừng của llsx hiện đại, xây dựng một hệ thống chính trị bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân lao động, hoạt động theo nguyên tắc tất cả từ con người và vì con
người.

Tình bạn vĩ đại giữa C.Mác và Ph.Ăngghen

Được đăng: Thứ ba, 08 Tháng 5 2018 09:50Lượt xem: 47901
(TGAG)- Nói tới C.Mác, nhiều người sẽ nghĩ ngay tới một nhà bác học vĩ đại, một nhà nghiên cứu không biết mệt mỏi, một nhà chính luận cách mạng nồng nhiệt, một nhà chiến lược và sách lược vô sản sáng suốt, một người đã đi vào lịch sử nhân loại với vị trí nổi bật trong hàng ngũ những vĩ nhân.

Thế nhưng không chỉ có vậy. Nói tới C.Mác, thế giới còn biết đến một con người nổi bật về đức tính cao cả, giản dị, nhiệt tình và yêu đời, có ý chí bất khuất và năng lực lao động khác thường, can đảm và anh dũng; một người chồng chung thủy sắt son; một người cha hiền từ, dịu dàng và rộng lượng; và điều đặc biệt hơn cả, ông còn là một người bạn khiêm nhường mà cao quý, bình dị mà vĩ đại.

Vì sao trong tên chủ nghĩa mác - lenin lại không có tên ăng ghen???
Các Mác (trái) và Ph.Ăng-ghen. Ảnh tư liệu

Trong lịch sử có rất nhiều câu chuyện cảm động về tình bạn, có những câu chuyện đã đi vào văn học nghệ thuật, để lại nhiều bài học nhân văn sâu sắc song không có tình bạn nào có thể đẹp hơn, sáng chói hơn tình bạn giữa K.Marx và Ăngghen. V.I. Lê Nin đã từng nói:

“Những chuyện cổ tích thường kể lại những tấm gương cảm động về tình bạn. Giai cấp vô sản châu Âu có thể nói rằng khoa học của mình là tác phẩm sáng tạo của hai nhà bác học kiêm chiến sĩ mà tình bạn đã vượt xa tất cả những gì là cảm động nhất trong những truyền thuyết của đời xưa kể về tình bạn của con người”.

Chính nhờ có tình bạn ấy mà giai cấp vô sản nói riêng, nhân loại tiến bộ nói chung có được một tài sản trí tuệ vô giá: Chủ nghĩa Mác. Một nhà nghiên cứu đã từng ví von rằng, nếu không có tình bạn vĩ đại kết nối hai tâm hồn, hai nhân cách, hai bộ óc vĩ đại ấy, có lẽ lịch sử thế giới đã rẽ sang một hướng khác.

Ph.Ăngghen sinh ngày 28/11/1820 tại thành phố Bác-men, nước Đức trong một gia đình tư sản. Tốt nghiệp tú tài, Ph.Ăngghen vâng lời cha thôi học, theo nghề kinh doanh thương mại. Những quan sát xã hội và hoạt động thực tiễn đã làm biến chuyển thế giới quan và tư duy chính trị của ông. Từ con đường tự học, học trong sách báo, trong các câu lạc bộ bác học, trong tổng kết thực tiễn và trong sự phẫn nộ với xã hội đương thời, Ph.Ăngghen đã trở thành một nhà bác học. Trên con đường học tập và nghiên cứu, Ph.Ăngghen đã gặp K.Marx một cách gián tiếp thông qua đọc các tác phẩm của K.Marx. Dần dần từ việc nghiên cứu triết học, kinh tế chính trị học, hai ông đã tìm đến nhau rồi trở thành những người đồng chí - những người đồng sáng lập nên một học thuyết cách mạng dẫn đầu thời đại.

K.Marx sinh ngày 05-5-1818 ở thành Tơ-ri-a nước Đức trong một gia đình trí thức. Ông tốt nghiệp tú tài rồi vào học khoa Luật tại trường Đại học Tổng hợp Bon, sau chuyển sang học trường Đại học Béc-lin, một trung tâm nghiên cứu về triết học. Mác đã bảo vệ xuất sắc luận án Tiến sĩ triết học.

Hai con người xa lạ, từ những hoàn cảnh xuất thân, môi trường giáo dục và quá trình đào tạo rất khác nhau đã trở thành hai người đồng chí, hai người bạn với một tình bạn vĩ đại và cảm động.

Lần đầu tiên, K.Marx gặp Ph.Ăngghen vào cuối tháng Mười Một 1842, khi Ph.Ăngghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh. Mùa hè năm 1844, Ph.Ăngghen đến thăm K.Marx ở Pa-ri. Hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả mọi vấn đề lý luận và thực tiễn và đây được xem như là “cuộc gặp mặt lịch sử” của hai vĩ nhân. Hai ông trở thành đôi bạn hiếm có trong lịch sử. Bằng cả cuộc đời, hai ông đã chứng minh rằng: từ mục đích lý tưởng và học thuyết, họ đã sống vì nhau, cho nhau trọn cả cuộc đời. Họ đã dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất, tôn trọng và quý mến nhau hơn cả chính bản thân mình.

Ăng ghen không những là người đồng chí kiên trung, luôn sát cánh bên Mác trong sự nghiệp đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, truyền bá tư tưởng vô sản, mà ông còn là người bạn thân thiết của cả gia đình Mác. Ông luôn có mặt bên cạnh gia đình bạn trong lúc khó khăn nhất. Điển hình trong số đó là mặc dù chỉ muốn dành hết thời gian, tâm huyết cho sự nghiệp cao cả và vốn không ưa chuộng việc kinh doanh nhưng ông đã phải nhận lời cha mình đi làm một thời gian để lấy tiền giúp đỡ gia đình Mác. Chính nhờ sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của ông, Mác đã yên tâm hoàn thành bộ “Tư bản” nổi tiếng của mình. Mahatma Gandhi, anh hùng dân tộc của đất nước Ấn Độ đã từng nói: Thử thách của tình bạn là sự trợ giúp lẫn nhau trong nghịch cảnh và hơn thế, trợ giúp vô điều kiện, và soi vào tình bạn vĩ đại của Mác và Ăng ghen quả đúng như vậy.

Ăngghen chăm lo cho bạn về mọi mặt, không những về công việc, mà cả sức khoẻ và cuộc sống gia đình. Ăng ghen luôn được các con của K.Marx xem như người cha thứ hai của mình. Nhưng không chỉ có thế, trên bình diện lý luận, ngoài những tác phẩm riêng của mình, Ăngghen còn giúp đỡ Mác rất nhiều về mặt khoa học.

K.Marx kể rằng: Ăngghen luôn đi trước K.Marx trên nhiều lĩnh vực, mọi điều tiên đoán của Mác bao giờ xảy ra cũng muộn hơn ở Ăngghen và K.Marx bao giờ cũng theo gót Ăngghen. Chính K.Marx trước khi xuất bản bộ Tư bản tập I đã đề nghị Ăngghen cùng đứng tên với tư cách đồng tác giả nhưng Ăngghen đã khiêm nhường từ chối. Sau khi K.Marx mất, chính sự uyên bác và sự mẫn cảm khoa học cùng với đồng điệu về tư tưởng và tâm hồn, đã cho phép Ăngghen soạn thảo hai tập còn lại của bộ Tư bản đồ sộ, bộ tác phẩm đó vẫn mang tên K.Marx mà liền mạch tư tưởng. Ngay khi Tư bản tập II và III được xuất bản, có người băn khoăn hỏi Ăng ghen sao không lấy tên mình, ông tuyên bố: “…Tư tưởng chủ đạo của các tác phẩm ấy hoàn toàn là của bạn tôi: K.Marx”.

Chính những nghiên cứu phác thảo trong lĩnh vực kinh tế của Ăngghen đã làm cho K.Marx nảy ra ý tưởng phải đi vào nghiên cứu môn kinh tế chính trị. Không ai có thể phủ nhận thiên tài của Mác khi nghiên cứu kinh tế chính trị học thể hiện ở bộ Tư bản vĩ đại nhưng cũng không ai có thể phủ nhận ảnh hưởng to lớn và sự cộng tác của Ăngghen đối với K.Marx khi hoàn thành tác phẩm đó. Và cũng vì thế, có lần K.Marx chỉ vào bộ Tư bản và nói rằng: Chính đây là của Ăng ghen

Sau khi K.Marx qua đời, Ăngghen là người duy nhất có quyền công bố những tác phẩm của K.Marx nhưng cho đến trước khi trút hơi thở cuối cùng ông vẫn nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng công lao sáng lập ra triết học và khoa kinh tế chính trị học mácxit chủ yếu thuộc về K.Marx. Ăngghen đã đề xuất rằng những công trình sáng tạo riêng cũng như công trình hợp tác chung của hai người nên lấy tên là học thuyết Mác. Đối với K.Marx - Ăngghen luôn tự cho mình chỉ là vai phụ.

Đánh giá về công lao của Ăngghen, V.I. Lênin viết: “Sau bạn ông là Các Mác, Ăng-ghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh. Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền Các Mác với Phri-đrích Ăng-ghen thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho nên muốn hiểu Ph.Ăng-ghen đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý nghĩa của học thuyết và hoạt động của Các Mác đối với sự phát triển của phong trào công nhân hiện đại”.

K.Marx và Ăngghen không những để lại cho nhân loại một khối lượng tri thức khoa học khổng lồ mà các ông còn để lại một tấm gương sáng chói về nhân cách, một tình bạn - tình đồng chí vĩ đại đáng để chúng ta học hỏi.

Liên hệ với thực tiễn hiện nay, đất nước đang trong giai đoạn đổi mới, hội nhập sâu rộng với thế giới. Nhưng dù đổi mới tới đâu, hội nhập sâu rộng ra sao, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vẫn kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vững tin vào chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tuy nhiên bên cạnh đó, trong quá trình hội nhập và phát triển, xã hội ta cũng còn đó không ít nỗi lo. Trong Đảng, đáng lo nhất là thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, sa vào tham nhũng lãng phí.. thậm chí đâu đó, có những kẻ quay lưng phản bội lại lý tưởng, chỉ vì chút lợi ích riêng tư mà sẵn sàng cổ vũ, a dua cho những quan điểm lệch lạc, phản động, quên đi những hy sinh mất mát, cả máu và nước mắt của bao thế hệ cha ông đi trước, sẵn sàng phản bội lại đồng chí, đồng đội đã từng yêu thương, đùm bọc mình. Trong từng cơ quan đơn vị, không thiếu những trường hợp bè phái, bổ nhiệm người thân, đoàn kết một chiều, dối trên, lừa dưới. Trong đời sống cộng đồng, nhiều tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp. Hiện tượng lừa gạt, tranh giành, đấu đá, ích kỷ, thu vén lợi ích cá nhân vẫn hiện diện trong các mối quan hệ xã hội. Ứng xử với nhau, thay vì thương yêu, sẻ chia, đùm bọc, rất nhiều người lại chọn cách lao vào nhau hơn thua chỉ vì những va chạm nhỏ.

Là những người cộng sản, chúng ta học ở Mác, Ăngghen không chỉ là những nội dung mang bản chất hết sức khoa học trong tư tưởng của các ông về Triết học; Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học, mà chúng ta còn học được ở hai ông về lòng vị tha, nhân hậu, yêu thương con người, và trên hết là tình bạn cao quý giữa hai con người vĩ đại. Nên chăng đã tới lúc, cần quan tâm hơn nữa tới công tác tuyên truyền, phát động phong trào xây dựng tình đồng chí, tình bạn trong sáng, cao thượng trong từng cơ quan, đơn vị. Bên cạnh đó, bản thân từng cán bộ, đảng viên cũng phải ý thức trong việc xây dựng mối quan hệ đồng chí, bạn bè tốt đẹp. Coi đó là một giải pháp góp phần nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Ôn lại tình bạn vĩ đại của hai bậc vĩ nhân, chúng ta càng thêm thấm thía lời của Bác: “Học chủ nghĩa Mác – Lênin là để sống với nhau có nghĩa, có tình. Nếu sống với nhau không có nghĩa có tình thì làm sao coi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được”.

Mạnh Hà
  • Trang trước
  • Trang sau

Mục lục

  • 1 Lịch sử
  • 2 Nội dung
    • 2.1 Triết học
    • 2.2 Kinh tế chính trị
    • 2.3 Chủ nghĩa xã hội khoa học
    • 2.4 Các quan điểm của V. I. Lenin
  • 3 Ảnh hưởng
    • 3.1 Việt Nam
  • 4 Đánh giá
  • 5 Xem thêm
  • 6 Tham khảo
  • 7 Thư mục
  • 8 Liên kết ngoài

Lịch sửSửa đổi

Karl Marx
Friedrich Engels

Chủ nghĩa cộng sản được xây dựng bởi các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản Marx, Engels, đưa đến sự thành lập Đệ Nhất Quốc tế. Từ những cơ sở về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, Marx và Engels sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, từ đó chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Năm 1938, trong tác phẩm Lịch sử ngắn gọn của Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolsheviks), Stalin đưa ra khái niệm Chủ nghĩa Marx-Lenin bằng cách kết hợp chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lenin đồng thời giản lược hóa chúng để tuyên truyền rộng rãi ra công chúng và phổ biến ra toàn thế giới [4].

Trong khoa học tự nhiên có:

  • Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
  • Thuyết tế bào
  • Thuyết tiến hóa

Trong khoa học xã hội có:

  • Chủ nghĩa duy vật của Ludwig Feuerbach
  • Phép biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel
  • Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán: các đại diện là Henri de Saint-Simon, Robert Owen, Charles Fourier
  • Kinh tế chính trị cổ điển Anh: các đại diện là David Ricardo, Adam Smith

Sau sự ly khai của những người vô chính phủ, quốc tế thứ nhất tan vỡ. Đệ Nhị Quốc tế thành lập, nhưng sau đó bị chi phối bởi phần lớn là những người xét lại. Lenin bổ sung các lý thuyết của Marx, và phát triển lên trở thành chủ nghĩa Marx–Lenin, đưa tới sự thành lập của các Đảng Cộng sản và Đệ Tam Quốc tế. Những người phản đối Stalin thành lập Đệ Tứ Quốc tế. Phong trào của những người theo Đệ Tam Quốc tế sau cũng bị phân nhánh. Một số theo Trung Quốc thường lấy tên đảng là Đảng Cộng sản (Marxism-Leninism) khẳng định đi theo chủ nghĩa Marx–Lenin trong khi thực chất theo chủ nghĩa Mao.

V.I. Lenin

Nhiều Đảng Cộng sản trước đây ít nhiều bị ảnh hưởng các tư tưởng của Stalin hay Mao. Hiện nay nhiều đảng đã sửa đổi Cương lĩnh, chịu ảnh hưởng của Marx–Lenin khác nhau. Nhiều đảng chủ trương kinh tế thị trường trong giai đoạn quá độ tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nhà sử học Marx–Lenin đương đại Eric Hobsbawm, đã trình bày quan điểm trong bối cảnh diễn ra khi cuộc khủng hoảng tài chính 2007-08, kéo theo các khủng hoảng ngân hàng, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng nợ công ở châu Âu. Ông khái quát quan điểm những người Marxist với hệ thống tư bản chủ nghĩa, về vai trò lịch sử của Chủ nghĩa Marx–Lenin:

"...Không có giải pháp nào là vĩnh cửu. Chủ nghĩa tư bản cũng thế, nó có sống dai đến đâu, có hiển hiện trong đầu óc người ta như một cái gì không thể thay đổi tới mức nào, rồi nó cũng sẽ biến mất, sớm hay muộn mà thôi... Về vật chất thì với rất nhiều người, thế giới ngày nay đã được cải thiện. Nhưng về tinh thần, chính trị và đạo đức thì người ta không tiến kịp, hiện tại có lẽ còn đang thụt lùi. Vậy đâu là những giá trị của cuộc sống? Vì sao chúng ta sống trên đời? Sống để làm gì?... Trong 30, 40 năm gần đây, người ta đã khước từ một cách hệ thống việc đánh giá chủ nghĩa tư bản theo tinh thần duy lý. Một hệ thống bóc lột và phá hủy môi trường, cưa chính cái cành cây mà mình đang ngồi? Và bây giờ cành cây gãy răng rắc khắp nơi. Có lẽ nhân loại rồi sẽ ân hận vì không nghe theo Rosa Luxemburg: hoặc chủ nghĩa xã hội, hoặc trở về thời mông muội. Karl Marx chưa bao giờ lập luận chống lại các nhà tư bản tham lam. Ông ấy chỉ chống lại một hệ thống tất yếu đẻ ra lòng tham. Trong chế độ tư bản, ai cũng buộc phải chạy theo lợi thế cho bản thân, không làm thế là chết. Những người như Marx và Schumpeter biết rõ rằng chủ nghĩa tư bản là một thứ không đứng yên, nó phát triển và tiến với tinh thần cách mạng về phía trước, nhưng nó cũng tất yếu sụp đổ và luôn gắn liền với những khủng hoảng quy mô khác nhau và có thể hết sức khốc liệt."[5]

Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu (do kinh tế gặp nhiều khó khăn, trong khi nhà nước không có dấu hiệu tự triệt tiêu như ý tưởng của Marx), dẫn đến sự suy yếu của phong trào cộng sản trên toàn thế giới. Nhiều nước phải chấp nhận kinh tế thị trường (Lenin cho thi hành trong thời kỳ NEP như là một giai đoạn quá độ). Chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa dân tộc trở thành những động lực đáng kể cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn xảy ra khủng hoảng không theo một chu kỳ nào, sự chênh lệch tài sản giữa các thành phần xã hội ngày càng lớn, chủ nghĩa tiêu dùng thịnh hành, chủ nghĩa dân tộc đưa đến các xung đột quốc tế... khiến nhiều người vẫn còn tin vào lý tưởng cộng sản. Hiện nay đang phổ biến nhiều tư tưởng, chủ thuyết chống chủ nghĩa cộng sản[6].