Số liệu của Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc (NBS) cho thấy, 6 tháng đầu năm 2021, sản xuất công nghiệp của Trung Quốc đã tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng trưởng này chủ yếu là do cùng kỳ năm ngoái sản xuất công nghiệp của Trung Quốc sụt giảm do đại dịch Covid-19. Đáng chú ý, theo Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc, Trung Quốc đã cam kết cắt giảm 236 triệu tấn thép trong kế hoạch 5 năm lần thứ 14, kéo dài từ năm 2021 đến năm 2025. Bên cạnh đó, 221 triệu tấn có thể được cắt giảm thêm nếu cần các quy trình thân thiện với môi trường hơn. Các ngành sản xuất như dệt may, vải, điện thoại các loại của Trung Quốc có xu hướng chững lại hoặc giảm trong bối cảnh căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc khiến các nhà đầu tư trong ngành này chuyển dịch một phần sản xuất sang các nước khác. Thời gian gần đây, Trung Quốc tăng mạnh nhập khẩu các mặt hàng kim loại và hàng dệt may, da giày. Theo số liệu của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, kim ngạch nhập khẩu của nước này tăng mạnh trong 5 tháng đầu năm 2021 nhờ nhu cầu nguyên liệu thô tăng cao. Giá trị nhập khẩu tăng một phần do giá nguyên liệu thô như than, thép, quặng sắt và đồng tăng cao do nhu cầu ở nhiều nền kinh tế cải thiện sau đại dịch và thanh khoản toàn cầu dồi dào. Cụ thể, kim ngạch nhập khẩu nhôm, đồng, quặng, xỉ tro và các kim loại cơ bản khác của Trung Quốc tăng từ 70 – 80% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng may mặc và phụ kiện quần áo, dệt kim hoặc móc của Trung Quốc tăng mạnh 69,4%. Ở góc độ tác động trong việc thay đổi về xu hướng sản xuất và xuất, nhập khẩu của Trung Quốc đến Việt Nam, Bộ Công Thương đánh giá: Việc Trung Quốc cắt giảm sản xuất của một số ngành công nghiệp như sắt thép, hàng dệt may, gỗ và sản phẩm gỗ… do các yếu tố liên quan đến sự chuyển dịch nhu cầu của thị trường Mỹ sau căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc và cam kết cắt giảm lượng khí thải sẽ mang đến nhiều lợi thế cho hoạt động đầu tư, sản xuất và xuất nhập khẩu của Việt Nam. Thời gian qua, Việt Nam được coi là lựa chọn hàng đầu của các công ty thời trang Mỹ để thay thế một phần nguồn hàng từ Trung Quốc. Nguyên nhân là sản xuất tại Việt Nam có chi phí thấp hơn Trung Quốc và Ấn Độ, trong khi có hiệu quả cao hơn Bangladesh. Năm 2020, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Mỹ giảm thấp nhất trong tất cả các nguồn cung cấp nhờ các lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Cụ thể, Trung Quốc giảm 39,2%, Ấn Độ giảm 25,6%, Bangladesh giảm 11,7% hay Indonesia giảm hơn 20% nhưng Việt Nam chỉ giảm 7,2%. Bên cạnh đó, ngành nội thất bằng gỗ của Việt Nam trong năm 2020 cũng đã vượt qua Trung Quốc để trở thành thị trường xuất khẩu số 1 vào Mỹ. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu các loại nguyên liệu thô của Trung Quốc tăng trong những tháng đầu năm 2021 cũng thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính), xuất khẩu sắt thép các loại của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2021 đạt 683,32 triệu USD, tăng 62,2% so với cùng kỳ năm 2020; clanhke và xi măng tăng 29,2%; sản phẩm hóa chất tăng 77,8%; quặng và khoáng sản khác tăng 39,4%...
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Có nhiều biến chuyển khả quan trong giai đoạn nửa cuối năm 2019 khiến dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam chậm lại và làm chậm xu hướng chuyển dịch nhà máy khỏi Trung Quốc. Tuy nhiên, sự bùng phát của dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới, gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và khiến xu hướng chuyển dịch nhà máy ra khỏi Trung Quốc tái khởi động. Với tình hình hiện nay có thể thấy rằng Việt Nam đã sẵn sàng trở thành một trung tâm sản xuất thay thế Trung Quốc. Thực tế, Việt Nam vẫn là vị trí thu hút chuyển dịch công nghiệp từ Trung Quốc nhờ chi phí hoạt động thấp và ưu đãi thuế do chính phủ đưa ra. So với các quốc gia trong khu vực về mức độ thu hút công nghiệp, Việt Nam vẫn là vị trí tiềm năng cho sự chuyển dịch của các công ty nhờ vào giá thuê đất, tiền nhân công, năng lượng và nhà xưởng thấp. Bên cạnh chi phí hoạt động thấp, Việt Nam đã giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ mức 22% xuống mức 20% vào năm 2016 cho tất cả các công ty trong nước và nước ngoài để tăng cường thu hút sản xuất từ nội địa và từ nhà đầu tư nước ngoài. Các công ty trong các KCN cũng được hưởng nhiều ưu đãi lớn và sẽ được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ hơn trong thời gian tới. Đây là một cơ hội lớn cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nhà đầu tư nước ngoài. Thúc đẩy nền công nghiệp trong nước, giảm tỉ lệ thất nghiệp, nâng kim ngạch xuất khẩu các loại hình hàng hóa. VIỆT HÀ Chiến lược friend-shoring (sản xuất tại các quốc gia bằng hữu) là sự chuyển hướng từ quá trình toàn cầu hóa kinh tế trong vài thập kỷ gần đây. Mỹ và các đồng minh ở châu Âu, châu Á và Thái Bình Dương đang thúc đẩy việc sản xuất và kinh doanh hàng thiết yếu tại các quốc gia thân thiện. Các công ty như Samsung Electronics và Gap đã theo đuổi xu hướng này sau một loạt gián đoạn như Covid-19, xung đột tại Ukraine và cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung. Những người ủng hộ friend-shoring coi đây là cơ hội cải tiến chuỗi cung ứng toàn cầu, nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào những quốc gia nhiều rủi ro, như Nga hay Trung Quốc. Họ nói rằng đây là sự kết hợp giữa toàn cầu hóa và cô lập, giữa sản xuất ở nước ngoài và sản xuất nội địa. "Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động friend-shoring sẽ giảm rủi ro cho nền kinh tế của chúng ta, cũng như cho các đối tác thương mại đáng tin cậy", Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen phát biểu tháng trước. Bà cho rằng những thỏa thuận như vậy sẽ giúp Mỹ thắt chặt mối quan hệ với các quốc gia có chung "chuẩn mực và giá trị về cách vận hành trong nền kinh tế toàn cầu". Người tiêu dùng mua sắm trong một cửa hàng tạp hóa ở San Francisco, California. Ảnh: Bloomberg Xu hướng này thể hiện rõ nhất trong các ngành như chất bán dẫn và đất hiếm. Các công ty tư nhân cũng đang nhập cuộc, chuyển sang sản xuất ở các quốc gia mà họ cho là rủi ro chính trị và logistics tương đối thấp. Một số nhà kinh tế lo ngại xu hướng này sẽ gây tổn hại cho các quốc gia cả giàu lẫn nghèo - vốn hưởng lợi từ hệ thống thương mại toàn cầu cởi mở trong những thập kỷ gần đây. Pierre-Olivier Gourinchas - kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho biết: "Thế giới sẽ phân chia thành các khối, không giao thương nhiều với nhau và có các tiêu chuẩn khác nhau. Đó sẽ là thảm họa cho kinh tế toàn cầu". Những người hoài nghi về thương mại tự do thì nói rằng "friend-shoring" chỉ là một thuật ngữ ngụy trang cho hoạt động sản xuất ở nước ngoài, thay vì đẩy mạnh sản xuất trong nước để đảm bảo chuỗi cung ứng tốt hơn và tạo ra việc làm cho người Mỹ. Jamieson Greer - cựu chánh văn phòng của Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ thời cựu Tổng thống Donald Trump, nói: "Friend-shoring giống như toàn cầu hóa không hoàn chỉnh. Cách tiếp cận đó sẽ không thành công nếu không nhận được ủng hộ rộng rãi trong nước". Bên cạnh đó, các nhà kinh tế nói rằng dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc cũng có khả năng tăng lạm phát. Dù vậy, căng thẳng với Trung Quốc vài năm gần đây đã khuyến khích các chính phủ và công ty theo đuổi đa dạng hóa và dịch chuyển sản xuất khỏi nước này. Covid-19 càng cho thấy sự mong manh của chuỗi cung ứng và thúc đẩy xu hướng này. Sự cấp thiết tăng lên sau khi xung đột Nga – Ukraine nổ ra, khiến việc xuất khẩu năng lượng và thực phẩm giảm sút. Các lệnh trừng phạt Nga còn làm gián đoạn dòng chảy tiền tệ và hàng hóa toàn cầu. "Chắc hẳn bạn từng nghe câu nói các quốc gia buôn bán với nhau không gây chiến với nhau. Nhưng trong hai tháng qua, chúng ta nhận thấy điều đó không phải luôn đúng", Đại diện Thương mại Mỹ Katherine Tai bình luận. Bà cho biết cần phải đa dạng hóa nguồn cung các mặt hàng chủ lực "để đảm bảo chúng ta không hoảng sợ và tuyệt vọng trong lần khủng hoảng tiếp theo". Để giảm bớt sự phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc với các khoáng sản quan trọng, Mỹ và Australia đang làm việc cùng nhau để xây dựng các cơ sở khai thác và chế biến đất hiếm ở cả hai quốc gia. Theo báo cáo chuỗi cung ứng của Nhà Trắng tháng trước, Trung Quốc hiện tinh chế 60% lithium và 80% coban, hai khoáng sản quan trọng cho pin dung lượng cao. Sau cuộc họp với các quan chức Australia và các giám đốc doanh nghiệp tại Washington gần đây, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Raimondo cho biết Mỹ sẽ cung cấp nguồn tài chính và hỗ trợ pháp lý cần thiết cho việc này. Mỹ và Liên minh châu Âu cũng đang xem xét kế hoạch chi hàng chục tỷ USD để giúp các công ty như Intel xây dựng nhà máy sản xuất chất bán dẫn tiên tiến. Năm 2021, 92% nguồn cung chất bán dẫn tiên tiến trên thế giới đến từ Taiwan Semiconductor Manufacturing Co. (TSMC) Một số doanh nghiệp đã đi trước các nhà hoạch định chính sách với xu hướng friend-shoring. Trong những năm gần đây, các công ty đối mặt với tắc nghẽn do đại dịch, khiến thời gian và chi phí vận chuyển từ châu Á tăng vọt. Với các doanh nghiệp may mặc, điểm đến ưa thích là các quốc gia Trung Mỹ như Honduras, Guatemala và El Salvador. Gap thì đang tăng gấp đôi thị phần của khu vực này trong sản xuất toàn cầu, dự kiến lên 10% trong năm tới và thậm chí có ý định nâng lên mức 25%. Dù chất lượng vải và nguồn lao động trong khu vực chưa thể bằng Trung Quốc, các công ty lại hưởng lợi từ việc nằm gần người tiêu dùng Mỹ, cũng như mức thuế thấp hơn theo hiệp định thương mại tự do. Chính quyền Biden cũng đang chi hàng tỷ USD nhằm phát triển kinh tế địa phương và thu hút đầu tư của khu vực tư nhân trong khu vực. Đây là bước đi mà các quan chức hy vọng sẽ giúp giảm thiểu người di cư sang Mỹ. Nằm trong nhóm hưởng lợi là các công ty như Intradeco Holdings (Miami, Mỹ) - sản xuất quần áo ở El Salvador cho các nhà bán lẻ như Walmart và Amazon. Giám đốc Intradec Felix Siman cho biết kể từ mùa xuân năm 2021, công ty của ông đã có thêm 4-5 khách hàng mới, bao gồm PVH - công ty mẹ của Calvin Klein. Ông cho biết doanh thu của Intradeco trong năm nay sẽ cao hơn 20% so với trước đại dịch. "Các công ty không muốn sản xuất mọi thứ ở Trung Quốc nữa", Siman nói, "Khu vực này đang nhận được sự quan tâm rất lớn. Hiện nhu cầu lớn hơn nhiều so với những gì chúng tôi có thể đáp ứng". Ngọc Thanh (theo Wall Street Journal) |