Điểm nhìn trần thuật là gì năm 2024

Macxim Gorki vạch rõ: "Trong tiểu thuyết hay truyện, những con người được tác giả miêu tả đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở bên cạnh họ, mách cho người đọc biết rõ phải hiểu họ như thế nào, giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả, tô đậm thêm cho tâm trạng họ bằng những đoạn miêu tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn luôn giật dây cho họ thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi rất khéo léo, mặc dù người đọc không nhận thấy, những hành động, những lời lẽ, những việc làm, những mối tương quan của họ.". Như vậy, thành phần của trần thuật không chỉ là lời thuật, chức năng của nó không chỉ là kể việc.

Nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử, lời bình nhân vật luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả. Hình thức chủ yếu của trần thuật là độc thoại, mặc dù nó có thể có tính chất đối thoại do hấp thu hoặc hướng tới ý thức nhân vật, hoặc người đọc.

Trần thuật gắn liền với toàn bộ công việc bố cục, kết cấu tác phẩm. Tác phẩm dù kể theo trình tự nhân quả, hay liên tưởng, kể nhanh hay chậm, kể ngắt quãng rồi bổ sung, thì trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động, lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc có thể lĩnh hội theo đúng ý định tác giả (mối quan hệ giữa câu chuyện và cốt truyện).

Mối quan hệ giữa thái độ của người kể đối với các sự kiện được kể cũng như với người nghe, người kể ở "trong truyện" hay "ngoài truyện", ở giữa người nghe gần hay cách xa họ lại tạo thành giọng điệu của trần thuật. Bố cục của trần thuật hình thành với sự triển khai cái nhìn, đan cài, phối hợp, luân phiên các điểm nhìn. Có điểm nhìn gần gũi với sự kiện, lại có điểm nhìn cách xa trong không gian và thời gian. Có điểm nhìn ngoài, hoặc nhìn xuyên qua nội tâm nhân vật.

Có cái nhìn nhân vật, sự kiện từ một nền văn hóa khác.

Từ thế kỷ XIX về trước thịnh hành kiểu trần thuật khách quan, do một người trần thuật biết hết sự việc tiến hành theo ngôi thứ ba. Sang thế kỷ XX, ngoài truyền thống ấy, còn có thêm kiểu trần thuật theo ngôi thứ nhất do một nhân vật trong truyện đảm nhiệm. Sư trần thuật có khi biến thành "dòng ý thức", lời độc thoại nội tâm. Sự đổi mới quan điểm trần thuật như vậy đánh dấu ý thức về lập trường, sắc thái, khả năng nhận thức của chủ thể trần thuật, đồng thời cũng thể hiện sự đổi thay bình diện miêu tả, lớp ý nghĩa của hiện thực được phản ánh.

Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể – khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm chú ý của ý thức văn học từ hệ thống sự kiện "thắt nút", "mở nút", sang chủ thể thẩm mỹ của tác phẩm tự sự.

điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật trần thuật, tiểu thuyết, nhà văn Hồ Anh Thái

Tóm tắt

Điểm nhìn là một trong những yếu tố hàng đầu của sáng tạo văn học. Điểm nhìn trần thuật quy định và chi phối các thành tố khác của nghệ thuật trần thuật như nhịp điệu trần thuật, đối tượng trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật... Văn xuôi Việt Nam những năm sau đổi mới đã có những cách tân đáng kể về điểm nhìn trần thuật. Trong đó, Hồ Anh Thái là nhà văn đã thể nghiệm được ở sáng tác của mình một lối trần thuật hiện đại với kĩ thuật sử dụng điểm nhìn đầy năng động, đem lại những phát hiện tinh tế và sâu sắc.Mỗi tác phẩm luôn có sự phối hợp các điểm nhìn hay dịch chuyển điểm nhìn. Đó là điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian...Sự phối hợp và dịch chuyển điểm nhìn trần thuật đã tạo ra tính đa diện, đa tầng trong kết cấu, đồng thời thể hiện tài năng của nhà văn Hồ Anh Thái.

Nghi�n cứu về tự sự, ngo�i việc t�m hiểu nghệ thuật kể, cũng như những yếu tố b�n trong đ� chi phối đặc điểm v� chất lượng của c�c ng�i kể, c�n phải ch� � đến điểm nh�n trần thuật.Điểm nh�n thể hiện vị tr� quan s�t, g�c nh�n, tầm nhận thức để kh�m ph� sự kiện, sự việc v� con người của người kể chuyện.C�i nh�n nghệ thuật của nh� văn về cuộc sống, con người thể hiện r� nhất th�ng qua điểm nh�n trần thuật. Hơn nữa: �Kh�ng thể c� nghệ thuật nếu kh�ng c� điểm nh�n, bởi n� thể hiện sự ch� �, quan t�m v� đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra c�i nh�n nghệ thuật. Gi� trị của s�ng tạo nghệ thuật một phần kh�ng nhỏ l� do đem lại cho người thưởng thức một c�i nh�n mới đối với cuộc sống. Sự đổi thay của nghệ thuật bắt đầu từ đổi thay điểm nh�n.�[1]. Điểm nh�n trần thuật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh thể hiện tư tưởng, lập trường của nh� văn trước cuộc sống. Đồng thời, n� cũng cho thấy � thức c�ch t�n trong nghệ thuật tự sự của t�c giả. Chọn c�ch kể chuyện theo h�nh thức truyền thống, với người kể chuyện theo ng�i thứ ba h�m ẩn nhưng Hồ Biểu Ch�nh vẫn c� thể tạo n�n những điểm nh�n trần thuật mang yếu tố hiện đại. Khai th�c vấn đề ở phương diện n�y sẽ c� th�m cơ sở để khẳng định những đ�ng g�p to lớn của tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh đối với qu� tr�nh hiện đại h�a tiểu thuyết Việt Nam.

2. Căn cứ v�o c�ch nhận thức kh�ch thể v� nội dung vấn đề được nhận thức, c� thể chia ra nhiều dạng điểm nh�n trong nghệ thuật trần thuật: điểm nh�n kh�ng gian; điểm nh�n thời gian; điểm nh�n b�n trong; điểm nh�n b�n tr�n, điểm nh�n b�n ngo�i� H�nh thức tự sự với người kể chuyện theo ng�i thứ ba h�m ẩn thường tạo n�n c�i nh�n nghệ thuật về cuộc sống v� con người mang t�nh chủ quan, bởi chỉ c� điểm nh�n trần thuật đơn tuyến của người kể chuyện (điểm nh�n b�n tr�n). Tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh đ� đạt được t�nh ch�n thật, sinh động trong việc t�i hiện bức tranh cuộc sống; thể hiện c�i nh�n kh�ch quan về cuộc đời. Đ� l� nhờ ở sự kết hợp kh�o l�o nhiều dạng điểm nh�n trần thuật v� sự dịch chuyển điểm nh�n linh hoạt trong nghệ thuật kể chuyện.

2.1 Điểm nh�n đơn tuyến

Điểm nh�n trần thuật trong tiểu thuyết Hồ BiểuCh�nh chủ yếu l� điểm nh�n b�n tr�n nh�n vật. Đ� l� điểm nh�n của người kể chuyện, cũng l� điểm nh�n đơn tuyến (c�u chuyện chỉ được nhận thức, đ�nh gi� qua � thức chủ quan của một người kể). C�c nh� l� luận c�n gọi đ� l� điểm nh�n biết trước. Điểm nh�n n�y chưa tạo được t�nh d�n chủ cao trong mối quan hệ giữa nh� văn v� c�ng ch�ng. C�i nh�n về cuộc sống dễ bị �p đặt theo nhận thức chủ quan của người kể chuyện. Từ điểm nh�n b�n tr�n nh�n vật, người kể chuyện nh�n thấy tất cả. Thấy tỉ mỉ mọi sự kiện, hiện tượng, cảnh vật, h�nh động diễn ra xung quanh nh�n vật. Thấy cả t�m can nh�n vật. V� như thế, người kể chuyện cũng c� cơ hội thuận lợi để chủ động điều khiển mạch chuyện, chi phối số phận nh�n vật.

Ch�ng ta dễ d�ng nhận biết điểm nh�n trần thuật từ người kể chuyện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh do người kể chuyện kh�ng chỉ kể, m� c�n thường xuy�n bộc lộ cảm x�c, ph�t biểu suy nghĩ, trực tiếp b�nh luận trong qu� tr�nh kể. Được sự hỗ trợ từ t�c giả, anh ta c� vẻ muốn độc quyền thể hiện tư tưởng v� quan niệm của nh� văn. Hồ Biểu Ch�nh để cho người kể chuyện trong Ngọn cỏ gi� đ�a to�n quyền n�i thay m�nh những� nhận thức về x� hội bất c�ng đương thời, về anh n�ng d�n ngh�o L� Văn Đ�: �Những người từng biết nhơn t�nh ấm lạnh, những người từng trải thế đạo k� khu, ai gặp cảnh th� thảm như vầy chắc sau cũng o�n hận vận thời hoặc tr�ch nh� gi�u sang kh�ng thương x�t kẻ ngh�o h�n, hoặc thảm cảnh cơ h�n m� đau l�ng rơi lụy. L� Văn Đ� tuy c� sức mạnh chớ kh�ng c� tr� s�ng, từ nhỏ tới lớn biết cực m� th�i, chớ kh�ng biết sướng, n�n tưởng phận m�nh th� phải chịu cực, phải nhịn đ�i, bởi vậy n� gặp cảnh như vầy, m� kh�ng biết giận, lại cũng kh�ng biết buồn.�[2]. Từ điểm nh�n của người kể chuyện, t�c giả thể hiện những nhận thức về sự bất c�ng trong x� hội đương thời: người gi�u hiếp đ�p nhũng nhiễu người ngh�o; người ngh�o l�m lụng vất vả, hiền l�nh lương thiện nhưng chịu bao thảm cảnh. Bi kịch cuộc đời sinh ra từ chỗ con người thiếu l�ng nh�n �i, thiếu sự cưu mang, che chở cho nhau, nhất l� từ ph�a người gi�u.Trong cảm quan của một nh� văn c� địa vị sang trọng, d� đ� cố gắng gần gũi chia sẻ với bao nỗi nhọc nhằn của những con người quanh năm c�y s�u cuốc bẫm, Hồ Biểu Ch�nh vẫn để lại một khoảng c�ch nhất định đối với người n�ng d�n. �ng c�n nh�n họ như những kẻ �t học. Họ thật th�, ch�n chất đến ngờ nghệch, ng�y ng�. T�c giả để cho người kể chuyện nhấn đi, nhấn lại t�nh c�ch khờ khạo qu� m�a, th� kệch đến đ�ng thương của L� Văn Đ�. C�i nh�n của nh� văn về người n�ng d�n Nam bộ (L� Văn Đ� � Ngọn cỏ gi� đ�a, Cai tuần Bưởi- Con nh� ngh�o, Trần Văn Sửu � Cha con nghĩa nặng�) đều được đặt từ điểm nh�n của người kể chuyện, do đ� thể hiện r� t�nh chủ quan của t�c giả khi đ�nh gi� sự v�ng l�n v� vai tr� của người n�ng d�n Nam bộ trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống ch�nh đ�ng của họ.

Từ điểm nh�n của người kể chuyện, t�c giả c�n thể hiện đời sống nội t�m của nh�n vật: �T�m sự của Thu H� tr�n trề kh�ng thể kể xiết. Tưởng lấy chồng l� kết bạn với một người nam nữ đồng t�m đồng ch�, khinh lợi, khinh danh, đặng chung ch�, hiệp lực m� d�u dắt đồng b�o tấn bộ. N�o d� tưởng tượng đ� l� giấc chi�m bao, n�o d� người chồng học giỏi n�i hay đ� cũng như người kh�c. Mới một bữa đầu th� hiểu lấy chồng đặng cho người ta �m ấp� Thu H� đương ngổn ngang trong long��[3]. Kể về nh�n vật theo điểm nh�n của người kể chuyện, cho n�n trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh nội t�m nh�n vật chưa được khắc họa một c�ch tự nhi�n, sinh động, sắc sảo. Nội t�m nh�n vật được diễn tả th�ng qua tri nhận của người kể chuyện. N� mang yếu tố chủ quan của người kể chuyện. T�m l� tiếp nhận của người đọc do đ� kh�ng tr�nh khỏi bị t�c động �t nhiều bởi người kể chuyện.

Điểm nh�n của người kể chuyện biết hết, thấy hết trong t�c phẩm của Hồ Biểu Ch�nh thường lộ. Mặc d� t�c giả đ� tạo ra h�nh thức kh� đặc biệt, c� vẻ như đặt điểm nh�n v�o nh�n vật nhưng vẫn kh�ng thể giấu được đ� l� điểm nh�n cuả người kể chuyện.Trường hợp sau thể hiện hiện tượng vừa n�u: �Anh ta thấy c� tuy mặc �o vải quần vải song đầu c� cho�ng khăn lụa mới, chơn c� mang guốc g� ng�, tay lại x�ch một g�i �o quần b�m s�m, trong l�ng ph�t nghi n�n hỏi nữa rằng: C� đi với ai?�[4]. R� r�ng, người kể chuyện đang kể tất cả những g� anh ta thấy về nh�n vật Bạch Tuyết, từ quần �o tr�n người đến guốc ở ch�n v� cả g�i h�nh l� b�m s�m. Hơn thế nữa, người kể chuyện biết nh�n vật Ch� Đại (anh ta) cũng thấy c�c chi tiết đ�, c�n biết Ch� Đại đang trong l�ng ph�t nghi n�n hỏi nữa�Như thế, t�c giả đặt điểm nh�n ở người kể chuyện nhưng v� c� cụm từ anh ta thấy� khiến cho c� vẻ như điểm nh�n đ� chuyển sang nh�n vật Ch� Đại. N�n hiểu anh ta thấy ch�nh l� điểm nh�n được trần thuật chứ kh�ng phải l� điểm nh�n trần thuật, sẽ dễ d�ng nhận ra đoạn văn tr�n thể hiện điểm nh�n từ người kể chuyện.

Nh�n vật ch�nh, thể hiện tư tưởng của nh� văn trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh l� con người đạo l�, nghĩa kh�. Đ� l� kiểu nh�n vật h�nh động, lấy sự việc trong những t�nh huống c� sự kiện cụ thể để bộc lộ quan điểm, c�ch nhận thức hay t�nh c�ch. Kể chuyện bằng điểm nh�n b�n tr�n hay b�n ngo�i lại ph� hợp với kiểu nh�n vật như tr�n. C� những l�c tưởng chừng t�c giả kh�ng cần phải thay đổi điểm nh�n, để kể chuyện theo điểm nh�n của nh�n vật. � thức c� nh�n trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh h�y c�n mờ nhạt. V� thế, nhu cầu từ t�m trạng nh�n vật m� nh�n ra để bộc lộ nỗi l�ng ri�ng tư, thầm k�n chưa được phổ biến nhiều.

2.2 Điểm nh�n đa tuyến

Điểm nh�n trần thuật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh kh�ng ho�n to�n đơn tuyến. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh, kh�ng chỉ c� điểm nh�n trần thuật từ người kể chuyện. Vẫn c� những l�c Hồ Biểu Ch�nh chuyển điểm nh�n cho nh�n vật trong t�c phẩm. Ở Ngọn cỏ gi� đ�a, cuộc sống với đầy bất c�ng, phi l� kh�ng chỉ được t�i hiện qua lời kể, lời b�nh của người kể chuyện m� n� c�ng trở n�n nhức nhối hơn, l�m nh�i l�ng người đọc khi được cảm nhận từ ph�a nh�n vật trong t�c phẩm. C� những l�c người kể chuyện như ho� th�n v�o nh�n vật L� Văn Đ�, để tạo điểm nh�n từ nh�n vật: �Th�n m�nh ngh�o khổ họ đ�nh m�nh th� họ kh�ng c� tội c�n m�nh đ�nh lại họ th� m�nh phải ở t�! Cuộc đời tr�ng thấy bắt n�t ruột ứa gan! Th�n phận kẻ ngh�o nghĩ thiệt l� ch� khổ�[5]. Tự sự theophương thức truyền thống c� c�ch t�n, (kể chuyện bằng ng�i thứ 3 nhưng từ điểm nh�n của nh�n vật), d� kh�ng phải l� người đầu ti�n thực hiện (Nguyễn Du l� người s�ng tạo n�n h�nh thức tự sự n�y trong Truyện Kiều), Hồ Biểu Ch�nh tỏ ra c� sự l�ng t�ng. V� dụ vừa n�u thể hiện cảm nhận tinh tế, s�u sắc về cuộc đời của nh�n vật L� Văn Đ�. Nh�n vật hiểu đời, nhận thức r� bất c�ng, mạnh dạn bộc lộ bất b�nh. Điều đ� kh�ng logic với những t�nh c�ch của L� Văn Đ� vốn được khắc hoạ ở phần trước. Trang 19 v� trang 21, người kể chuyện li�n tục nhắc đến sự khờ khạo, ngờ nghệch của anh ta: �L� Văn Đ� tuy c� sức mạnh chớ kh�ng c� tr� sang�bởi vậy n� gặp cảnh như vầy, m� kh�ng biết giận, lại cũng kh�ng biết buồn�[6]; hay �Thảm thương L� Văn Đ� v� t�nh t�nh dốt n�t thiệt th�, n�n th�n khổ nhục đến nước n�y m� cũng chưa biết buồn, chưa biết o�n�[7]. Thế th�, thật bất ngờ v� chưa hợp l� khi con người ngờ nghệch ấy bỗng dưng c� được c�i nh�n s�u sắc về hiện thực cuộc sống trong x� hội đương thời.Anh ta đột ngột biết căm hận sự đời đen bạc, bất c�ng.

Mặc d� thế, vẫn c� những trường hợp, Hồ Biểu Ch�nh tỏ ra đ� chắc taykhi dịch chuyển điểm nh�n trần thuật từ người kể chuyện sang nh�n vật. Th�ng qua điểm nh�n của nh�n vật Thuần (Đoạn t�nh), Hồ Biểu Ch�nh đ� thể hiện th�nh c�ng t�m sự thầm k�n của nh�n vật: �...Thấy h�nh dạng c�, nghe c�u chuyện c� n�i tự nhi�n t�i phải so s�nh trong tr�. Hễ so s�nh th� quấy lắm, hại lắm c� hiểu kh�ng?...T�i sợ lắm, t�i lo lắm, bởi t�i sợ, t�i lo, n�n lần trước t�i n�i nỉ xin c� lấy chồng�C� c� chồng th� hoặc may t�i mới y�n l�ng y�n tr� được.�[8]. Nh�n vật Thuần đ� nh�n v�o ch�nh c�i l�ng s�u k�n của m�nh. Anh ta nhận ra t�nh cảnh đầy trớ tr�u của m�nh. Anh ta biết con tim m�nh đang thổn thức trước t�nh y�u nhưng anh ta phải chạy trốn t�nh y�u đang m�nh liệt ấy. V� hiểu được, trong ho�n cảnh của anh, y�u c� V�n l� tr�i đạo l�, l� lỗi đạo l�m chồng với Ho�. Từ điểm nh�n của nh�n vật, Hồ Biểu Ch�nh cho thấy con người c� nh�n đ� c� � thức sống cho t�nh cảm của ch�nh m�nh nhưng lu�n bị giằng x�, trăntrở bởi đạo l� l�m người, bởi bổn phận gia đ�nh. Con người c� nh�n kh�ng thể sống cho c�i �t�i�. Đ� l� th�ng điệp m� �ng muốn gửi đến độc giả qua nh�n vật.

� Hơn thế, Hồ Biểu Ch�nh c�n linh hoạt dịch chuyển điểm nh�n qua nhiều nh�n vật để tạo sự đối thoại, tranh biện, nhằm khơi gợi ở người đọc những băn khoăn, thắc mắc, suy nghĩ về quan niệm sống, về đạo l� ở đời được t�c giả đặt ra. T�c giả để cho c�c nh�n vật trong �ng Cử lần lượt thể hiện c�i nh�n về cuộc đời đầy đau khổ. �ng Cử, Tấn Sĩ C�ng mỗi người nhận ra những nỗi khổ, c�i đau kh�c nhau của cuộc sống trần thế. Kẻ th� buồn cho �phận c�i c�t�,�người th� nghiệm ra: �c�i kiếp của con người l� kiếp khổ�hoặc khổ v� li biệt, hoặc khổ về cơ h�n, hoặc khổ về gia đ�nh, hoặc khổ về x� hội, hoặc khổ về vật chất, hoặc khổ về tinh thần, hoặc khổ về danh hoặc khổ về bịnh hoạn�[9]. T�c giả c�n đặt v�o nh�n vật �ng Cử một nhận thức mang đậm triết l� của Phật Gi�o: �Tạo h�a chia lo�i người th�nh nhiều hạng�.hạng n�o cũng phải loi ngoi trong biển trầm lu�n�[10]. T�c giả đặt vấn đề từ nhiều g�c nh�n kh�c nhau của nh�n vật để nhận ch�n sự việc, ch�n l� cuộc sống.� C� điểm nh�n của nh�n vật từng trải, lăn lộn trường đời, nếm nhiều cay đắng, phũ ph�ng của cuộc sống (�ng Cử). Lại c� điểm nh�n của người trẻ tuổi, học giỏi, th�nh đạt, gi�u c� nhưng bị thiếu thốn t�nh cảm gia đ�nh (Tấn sĩ C�ng). Bố tr� nhiều g�c nh�n như thế nh� văn kh�ng ngo�i mục đ�ch thể hiện kh�ch quan những cảm nhận về cuộc đời. Ai cũng thấy rằng cuộc đời chồng chất những đau khổ. Ai cũng c� thể chịu khổ, bất kể gi� trẻ, sang h�n, c� học hay thất học. Phải chăng Hồ Biểu Ch�nh muốn truyền b� những tư tưởng của Phật gi�o. �ng muốn đưa ra một giải ph�p gi�p con người tho�t khổ, tho�t nạn l� t�m nơi thanh tịnh để tu niệm Phật ph�p m� di dưỡng tinh thần, t�m về chốn cực lạc để cứu rỗi t�m hồn. Đi theo triết l� nh� Phật, Hồ Biểu Ch�nh kh�ng �t băn khoăn trăn trở. Do đ�, �ng phải để cho nhiều nh�n vật c�ng nh�n v�o sự việc, để mỗi người nh�n r� một phương diện ri�ng. Từ điểm nh�n của nhiều nh�n vật, �ng tạo n�n được c�i nh�n kh�ch quan, s�u sắc hơn về cuộc đời, về lẽ sống ở đời.Để rồi, người đọc nhận ra quan niệm nh�n sinh m� t�c giả muốn gửi gắm trong t�c phẩm ch�nh l�: l�nh đời đi tu. Nhưng đ� chỉ l� hướng giải tho�t đối với người cao tuổi, sau khi ho�n th�nh bổn phận đối với gia đ�nh, kh�ng c�n điều kiện kể đ�ng g�p cho x� hội nữa, như trường hợp của �ng Cử (�ng Cử). Người trẻ tuổi như Tấn Sĩ C�ng d� thấy đời nhiều đau khổ vẫn phải vượt qua nỗi buồn, lấy mục đ�ch cống hiến cho x� hội l�m lẽ sống để ti�u biến c�i buồn. Hay như một trường hợp kh�c, c�n trẻ tuổi như Xu�n Hương (Một đời t�i sắc) m� muốn chọn con đường đi tu, th� phải tu tại gia, để c� thể tiếp tục l�m tr�n bổn phận đối với gia đ�nh. R� r�ng, Hồ Biểu Ch�nh đ� tiếp biến tư tưởng Phật gi�o sao cho ph� hợp với quan niệm sống cho bổn phận. Tương tự, kết hợp điểm nh�n của hai nh�n vật L� Thị Đằng v� Phan Thanh Nhản (D�y oan),c�ng với điểm nh�n của người kể chuyện, nh� văn đưa ra quan điểm về việc tu sao cho đ�ng với lẽ đạo. �ng chủ trương tu h�nh ch�n ch�nh l� biết ch� trọng c�i t�m của con người. T�m chưa s�ng, l�ng chưa sạch bụi trần , c�n vướng v�o tục luỵ, tham lam vật chất, l�m điều kh�ng hợp đạo l� chưa thể gọi l� tu. Hay n�i c�ch kh�c, d� theo quan điểm Phật gi�o hay Nho gi�o, bao giờ Hồ Biểu Ch�nh cũng đề cao đạo đức của con người.Với �ng, sống c� đạo l� l� lẽ sống đẹp nhất.

Sự kết hợp nhiều điểm nh�n như đ� tr�nh b�y cho thấy h�nh thức tự sự trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh c� n�t đặc biệt. T�c giả kh�ng theo một h�nh thức tự sự duy nhất (lịch sử tự sự của văn học viết Việt Nam cho thấy mỗi thời k� phổ biến một h�nh thức tự sự. V� dụ: thời trung đại phổ biến h�nh thức tự sự với điểm nh�n đơn tuyến từ người kể chuyện, điểm nh�n b�n tr�n nh�n vật; thời hiện đại phổ biến h�nh thức tự sự với điểm nh�n đa tuyến, điểm nh�n từ b�n trong nh�n vật). Đ�y l� sự lựa chọn s�ng suốt của Hồ Biểu Ch�nh. Ở giai đoạn giao thời đầu thế kỉ XX, nếu Hồ Biểu Ch�nh bảo thủ, giữ nguy�n h�nh thức cũ sẽ kh�ng đến được với đ�ng đảo độc giả đ� c� thị hiếu mới. M� theo mới, lại rũ sạch những g� của truyền thống th� lập tức sẽ bị phản ứng quyết liệt. Ch�nh biểu hiện của t�nh giao thời trong h�nh thức tự sự ở tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh đ� g�p phần l�m n�n th�nh c�ng cho t�c phẩm của �ng. C�i độc đ�o l� �ng biết kết hợp c�c h�nh thức tự sự trong t�c phẩm của m�nh một c�ch kh�o l�o, kh�ng để lại dấu vết của sự lắp gh�p gượng gạo.

3. N�i đến điểm nh�n trần thuật tức l� n�i đến nơi ph�t ra c�i nh�n nghệ thuật về cuộc sống con người m� nh� văn đ� sắp đặt theo dụng � của m�nh. Hay n�i c�ch kh�c, l� nơi gửi ống k�nh quan s�t của nh� văn. Nhưng ống k�nh ấy sẽ hướng v�o đ�u, tức điểm rơi [11] của c�i nh�n l� đ�u? Đ� cũng l� một vấn đề cần được x�c định. Bởi n� gi�p người đọc nhận ra đ�u l� nội dung trọng điểm của văn bản tự sự. Điểm rơi ở tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh ch�nh l� sự kiện, sự việc trong c�u chuyện v� h�nh động của nh�n vật. V� thế ch�ng ta kh�ng c�n ngạc nhi�n khi thấy tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh đầy ắp những sự kiện, ngổn ngang bao sự việc v� chồng chất những hoạt động của nh�n vật. Cốt truyện được tạo n�n nhờ sự x�u chuỗi kh�o l�o c�c sự kiện, sự việc. T�nh c�ch của nh�n vật cũng được gợi l�n từ h�nh động nhiều hơn l� th�ng qua đời sống nội t�m.

Ngo�i ra, tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh thường đặt điểm rơi của c�i nh�n v�o c�c sự kiện diễn ra ở thời điểm kh�ng c�ch xa thời gian trần thuật. Do đ� c�u chuyện được kể ở th� hiện tại hoặc qu� khứ gần. Những c�u chuyện được kể trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh đ�ng l� những chuyện đời nay l� sự thường c� trước mắt ta lu�n [12]. Bởi thế giới nh�n vật l�m n�n c�u chuyện đều l� những con người của đương thời. Đ� l� những t� điền ngh�o khổ, nạn nh�n của ch�nh s�ch điền địa thời phong kiến v� thực d�n nửa phong kiến thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX; những quan lại, vi�n chức dưới ch�nh phủ bảo hộ, đội ngũ l�m tay sai cho Ph�p ở đầu thế kỉ XX; những tr� thức T�y học, sản phẩm tất yếu của x� hội được mệnh danh l� đang thực hiện văn minh khai ho� trước năm 1945, v. v. . Những sự kiện, sự việc được kể đều xoay quanh đời sống, sinh hoạt của những con người đương thời n�i tr�n. Ngay cả khi kể về sự kiện lịch sử, điểm nh�n trần thuật cũng thường hướng về thời điểm lịch sử gần nhất, buổi đầu chống Ph�p (Đại nghĩa diệt th�n), hay xa hơn nữa cũng thuộc về thế kỉ XIX (Ngọn cỏ gi� đ�a, Hai vợ).Độc giả đương thời v� cả độc giả ng�y nay đều c� thể lấy kinh nghiệm sống của m�nh để l� giải cho bao vấn đề được thể hiện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh, đều c� thể nhận thấy dường như c�i được kể trong t�c phẩm của Hồ Biểu Ch�nh l� những g� ta đ� nghe thấy đ�u đ�y, trong cuộc sống hằng ng�y, trước mắt. Đồng thời cũng l� những g� ta n�n tiếp tục suy ngẫm v� n� rất thiết thực. N�i t�m lại, t�m hiểu điểm rơi của c�i nh�n trần thuật gi�p ch�ng ta nhận diện r� n�t t�nh thời sự [13] của trần thuật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh. Từ đ�y, ch�ng ta cũng c� thể khẳng định t�c phẩm của Hồ Biểu Ch�nh c� đầy đủ t�nh chất của tiểu thuyết hiện đại. V� đ� l� những truyện đương thời [14].

4. Với h�nh thức tự sự theo ng�i thứ ba nhưng từ nhiều điểm nh�n, tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh đ� t�i hiện kh�ch quan, sinh động hiện thực x� hội đương thời. Hơn thế, tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh c�n tạo được sức cảm ho� cao, khuyến kh�ch con người đi v�o lối sống hướng thiện, trừng �c. Kh�ng chỉ ng�y trước, thời t�c phẩm mới ra đời, m� ngay cả h�m nay, sức cảm ho� ấy kh�ng hề giảm s�t. C� thể khẳng định: tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh c� sức sống l�u bền trong l�ng c�ng ch�ng. Bởi Hồ Biểu Ch�nh đ� tạo được h�nh thức kể chuyện đầy th� vị v� cũng rất Nam bộ. Ch�ng ta c� thể thấy r�, ch�nh h�nh thức tự sự đ� g�p phần l�m n�n đặc điểm của văn bản tự sự ở tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh: Tiểu thuyết Hồ Biểu Ch�nh l� những c�u chuyện của đương thời, của cuộc sống đời thường, được t�i hiện ch�n thật, kh�ch quan, tỉ mỉ.

Ch� th�ch

[1] L� B� H�n, Trần Đ�nh Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Gi�o dục, tr 113.

[2] Hồ Biểu Ch�nh (1988), Ngọn cỏ gi� đ�a, NXB Tổng hợp Tiền Giang, tr 19.

[3] Hồ Biểu Ch�nh (1997), Kh�c thầm, NXB Văn nghệ th�nh phố Hồ Ch� Minh, tr 58.

[4] Hồ Biểu Ch�nh (1988), Ai l�m được, NXB Tổng hợp Tiền Giang, tr 45.

[5] Hồ Biểu Ch�nh (1988), Ngọn cỏ gi� đ�a, NXB Tổng hợp Tiền Giang, tr 22.

[6] Hồ Biểu Ch�nh (1988), Ngọn cỏ gi� đ�a, NXB Tổng hợp Tiền Giang, tr 19.

[7] Hồ Biểu Ch�nh (1988), Ngọn cỏ gi� đ�a, NXB Tổng hợp Tiền Giang, tr 21.

[8] Hồ Biểu Ch�nh (2001), Đoạn t�nh, NXB Văn nghệ th�nh phố Hồ Ch� Minh, tr 146.

[9] , [10] Hồ Biểu Ch�nh (1988), �ng cử ( in chung với t�c phẩm L�ng dạ đ�n b�), NXB Tổng hợp Tiền Giang, tr 186.

�[11] Từ d�ng của TĐS, trong L� luận văn học (2008), tập 2, NXB ĐHSP, tr 107.

[12] Lời của Nguyễn Trọng Quản, ghi trong Lời tựa Truyện thầy Lazar� Phiền, in trong Khảo về tiểu thuyết (1996), Vương Tr� Nh�n, NXB Hội nh� văn, tr 21.