Giáo dục nhân bản là gì

Lm. Fx Việt
PHẦN I : Tầm quan trọng của giáo dục nhân bản
PHẦN II : Người lịch sự
PHẦN III : Đức tính nhân bản
PHẦN IV : Nghệ thuật sống
TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC NHÂN BẢN
1. Nhân Bản là gì?
Nhân Bản là từ ngữ rất thông dụng, nhưng khó giải thích cách rõ ràng và hiểu cho tường tận. Ta có thể tạm hiểu:
* Nhân: là người, là nhân đức, nhân cách, cách sống của con người tốt.
* Bản: là gốc, căn bản, nền tảng, bản lề...
Nhân Bản có thể hiểu là phong cách sống tốt, những nhân đức căn bản mà một con người cần phải có, để xứng đáng là người.
2. Mục tiêu của Giáo Dục Nhân Bản :
Đó là giúp con người đạt Trưởng Thành Nhân Bản.
Sự Trưởng thành Nhân Bản được biểu hiện bên ngoài khi có những đức tính tự nhiên, do tập luyện, đạt được nhân cách viên mãn, như: tác phong tốt đẹp: suy nghĩ chín chắn khôn ngoan; ý chí tự chủ, kiên quyết; Tâm tính quân bình, điềm tĩnh; cư xử hài hoà, quảng đại vị tha
3. Tầm quan trọng của Giáo Dục Nhân Bản:
* Nhờ Giáo Dục Nhân Bản, gia việc tập luyện đức tính tự nhiên, con người mới đạt Trưởng thành Nhân Bản , để xứng đáng là người hơn.
* Sự Trưởng thành Nhân Bản còn là nền tảng để xây dựng sự trưởng thành của người Kitô hữu, qua việc tập luyện các nhân đức Kitô giáo: Nhờ đó, họ sẽ đạt mức độ Trưởng Thành Kitô hữu, được hoàn hảo, thánh thiện, trở nên giống Chúa Kitô, xứng đáng chức vị là con Chúa .
* Nhờ có Trưởng thành Nhân Bản, mới có Trưởng thành Kitô hữu, và nhờ đó, người muốn theo đuổi Ơn Gọi (Tu sĩ, Linh mục) mới phát huy và xây dựng được nếp sống tu trì cách tốt đẹp, qua việc thực thi hoàn hảo các lời khuyên Phúc Âm: gọi là Trưởng thành đời Tu . Giáo Dục Nhân Bản là nền tảng của mọi nền đào tạo Linh mục" (pastores dabo vobis).
4. Giáo huấn Giáo hội.
Công Đồng Vatican II trong sắc lệnh Đào tạo Linh mục (số 11) có đề cập đến Giáo Dục Nhân bản cho các Chủng sinh:
Các Chủng sinh phải tập cho quen điều hòa thích hợp căn tính mình. Họ phải đưa huấn luyện cho có tinh thần quả cảm, biết quí trọng những đức tính mà người đời thường ưa chuộng và không thể thiếu nơi thừa tác viên của Chúa Kitô, như lòng thành thực, giữ đức công bình, tín trung, cư xử lịch thiệp, khiêm tốn và bác ái trong ngôn từ
Vì thế, nền giáo dục phải nhằm huấn luyện các Chủng sinh đạt được mức Trưởng thành Nhân Bản thoả đáng, nhất là mức trưởng thành được kiểm nghiệm trong đức tính cương nghị, trong khả năng quyết định chín chắn và một óc phán đoán về con người và các biến cố .
Kết: Giáo Dục Nhân Bản rất quan trọng và cần thiết cho con người, để xứng đáng là người, là người Kitô hữu và càng cần thiết hơn nữa cho Người Tu Sĩ tương lai.
Giáo Dục Nhân Bản nhằm hướng đến con người Trưởng thành, theo một khuôn mẫu lý tưởng, đó là Chúa Giêsu Kitô, Siêu Người Mẫu
NGƯỜI LỊCH SỰ
Lịch sự là đặc điểm của một người có giáo dục, vì giáo dục nhằm giúp một người nên người hơn, nên Giáo dục nhân bản cần được khởi đầu bằng lịch sự.
Lịch sự là những hình thức Lễ phép bên ngoài, được xã hội thỏa thuận và tuân giữ, để cuộc sống chung giữa người với người được hài hòa, êm đẹp hơn.
Lịch sự là bông hoa thơm đẹp của cuộc sống con người, bông hoa ấy làm cho người lịch sự được kính trọng yêu mến, ngưỡng mộ.
Chủ đề NGƯỜI LỊCH SỰ được trình bày:
1. Lịch sự là gì?
2. Tác phong lịch sự.
3. Lịch sự trong giao tiếp.
4. Thư từ, điện thoại, tặng quà.
Bài 1
LỊCH SỰ LÀ GÌ?
I. Lịch Sự là Nhân Đức.
1. Lịch sự: có nghĩa là xử thế hoàn hảo, là những hình thức, lễ phép, do con người trong một xã hội thiết lập và công nhận, nhằm đối xử với nhau cách tôn trọng và êm dịu cuộc sống chung.
2. Nhân đức nền tảng của lịch sự: Công bằng và Bác ái
* Công bằng: vì phép lịch sự dạy ta biết tôn trọng quyền lợi và nhân phẩm của người khác, cũng như ta muốn người khác cũng tôn trọng ta. Lịch sự một thứ kỷ luật bản thân để khỏi xâm phạm đến tự do người khác.
* Bác ái: Vì muốn lịch sự với người khác, ta phải dẹp bỏ tính ích kỷ, chế ngự tính nóng nảy, thái độ thô tục và tích cực hơn, ta muốn tạo bầu khí vui tươi, làm hài lòng người khác. Lịch sự cũng là một sự cho đi. Có người nói: Lịch sự là đó hoa của đức ái.
3. Cái Hồn của lịch sự: Chân thành.
Lịch sự là hình thức kính trọng bên ngoài, diễn tả thái độ kính trọng bên trong. Nhưng có người nói: Lịch sự là vua giả dối!, vì kinh nghiệm cuộc sống, nhiều người có những lời nói, cử chỉ, tác phong rất lịch sự, không thể chê được nhưng không được mọi người cảm mến, hoặc có thiện cảm ban đầu, còn thời gian sau, biết họ rất ác hiểm, lường gạt!
Tại sao? Lý do là vì vẻ lịch sự của họ chỉ là cái vỏ bề ngoài, thiếu cái hồn là sự chân thật. Sự chân thành đòi hỏi thái độ bên trong phải đẹp như thái độ lịch sự bên ngoài.
Lịch sự mà thiếu chân thành, chỉ là một thứ giả hình!
III. Lịch sự là bổn phận.
Đối với Chúa: Vì Thiên Chúa là Đấng sáng tạo vũ trụ, đã sinh dựng nên ta và luôn ban mọi ơn lành cho ta, nên Ngài phải được kính yêu cách đặc biệt, ''trên hết mọi sự. Lịch sự đối với Thiên Chúa mỗi sáng thức dậy: dâng ngày, cám ơn Cả khi ăn, uống, ngủ, nghĩ cũng luôn tưởng nhớ Chúa.
Đối với Cha mẹ: đó là những người có công sinh thành dưỡng dục ta nên lịch sự với ông bà cha me là sự thảo hiếu, tôn kính và vâng lời, đặc biệt là giúp đỡ và cầu nguyện.
Đối với người phụ trách: những người thay cha mẹ để dạy dỗ, huấn luyện, hướng dẫn ta trong cuộc sống, trong ơn gọi. Lịch sự qua tâm tình tôn kính, yêu thương, bộc lộ qua thái độ lễ độ cởi mở, chân thành. Câu châm ngôn: Hãy quên nhưng việc tốt ta làm, nhưng đừng quên những ân huệ ta nhận được.
1. Đối với mọi người: Dù già trẻ, nam nữ ta cũng tôn trọng, đối xử lịch sự, yêu mến họ như anh em, giúp đỡ và làm gương tốt cho mọi người.
2. Đối với chính mình: Vì tập lịch sự với bản thân, ta sẽ có thói quen cư xử lịch sự với người khác. Ai bất nhã với chính mình, cũng có thói vô lễ với tha nhân. Lịch sự với mình khi sống sạch sẽ, tề chỉnh, nết na.
III. Câu nói trên môi miệng người lịch sự.
1. Kính chào: Hàng ngày, chúng ta gặp gỡ tiếp xúc với bao hạng người. Gặp nhau, câu nói trước tiên chính là lời chào chân thành, kèm theo sự cúi đầu, bởi theo nụ cười thân thiện.
2. Cám ơn: Là tiếng nói để bày tỏ lòng biết ơn với người làm ơn cho ta, như khi nhận được món quà, khi được giúp đỡ, được chỉ dẫn... Tiếng cám ơn làm mát lòng người làm ơn, nhờ đó họ giúp đỡ cách tận tình và sẽ giúp đỡ thêm nữa. Khi được cám ơn, ta cần có lời đáp trả với tùy người: Dạ không dám, không có chi, đó là bổn phận của con.
3. Xin lỗi: Là lời nói để nhìn phận sự phiền, xúc phạm, va chạm của ta đối với người khác. Nhờ lời xin lỗi, ta sẽ hóa giải tính nóng nảy, sự đau buồn của người khác. Khi được xin lỗi: Không sao đâu, chứ đừng cự nự, cằn nhằn.
4. Làm ơn, xin phép, xin vui lòng: Là những câu nói để mở đầu cho một yêu cầu, một lời đề nghị giúp đỡ. Nhờ câu nói này, người khác sẽ vui lòng, nhín thời giờ, bớt công việc để chiều theo ý muốn của ta.
Bài 2
TÁC PHONG LỊCH SỰ
I. Cử chỉ và điệu bộ (Dáng Điệu).
Nhìn cử chỉ, điệu bộ một người, ta đoán được nền giáo dục, văn hoá người đó hấp thụ, mức độ tự chủ và thái độ nội tâm họ đang có. Cử chỉ toàn thân nên tự nhiên, thẳng thắn, không buông thả, lệch lạc.
1. Tư thế Đi, Đứng, Ngồi.
a. Cách đi:
Rất quan trọng, vì nó biểu lộ tính tình và tâm trạng của ta:
- Đi chậm, kéo lê dép: dấu của uể oải, lè phè, bệnh hoạn.
- Đi hấp tấp, đi rón rén, đi đánh vun tay: dấu của nhẹ dạ, lóc chóc.
- Đi cứng nhắc, đi hai hàng, nghênh mặt: dấu của kiêu căng, tự phụ.
- Đi nghiêm trang, bàn chân thẳng: dấu của trang nhã, đạo đức.
- Đi ngang qua chỗ người đang đứng, cần cúi đầu hoặc xin phép.
b. Cách đứng:
Là tư thế không di chuyển, cần giữ toàn thân cho thẳng.
- Đừng đứng một chân, dang rộng chân, tréo chân, đứng thọt tay vào túi...
- Đừng dựa vào tường, cây cối. Đừng đứng án mặt người khác.
- Dáng đứng đẹp, vững chắc là chắp tay phía trước, chân thẳng.
- Nếu đứng lâu, có thể đặt chân này sau chân kia một chút để dồn lực vào chân sau, tựa tay nhẹ vào bàn, vịn lan can, xách tay.
c. Cách ngồi:
- Khi ngồi nói chuyện, tư thế nên thoải mái, giữ đầu ngay thẳng bàn tay để trên đầu gối hay mặt bàn, 2 đầu gối không quá rộng.
- Đừng đặt tay dưới gầm bàn hay kẹp giữa 2 đầu gối hoặc chóng chỏ.
- Đừng ngồi vắt chân, ưỡn ngực, run đùi hay gác chán lên bàn ghế.
- Trước khi ngồi, phải xin phép, hoặc đợi chủ mời mới ngồi.
- Nên đứng lên ngồi xuống nhẹ nhàng, tránh gây tiếng động.
- Khi lên xe ôtô con, ta ngồi xuống trước, rồi xoay người rút chân lên.
2. Gương mặt.
a. Nét mặt: ''Trông mặt mà bắt hình dong''
- Đó là nơi người ta dễ nhận thấy đạo đức, tình cảm và nội tâm của ta: Cần tạo nét dễ nhìn, tự tin, duyên dáng, khiêm tốn trên nét mặt.
- Cần làm chủ gương mặt, đừng bộc lộ quá vui, quá buồn, quá sợ.
- Tập tỏ ra dễ thương, trang nhã sê gây thiện cảm, tin tưởng.
- Tiếp xúc với người lớn : nét mặt thành kính, khiêm tốn; Với người trang lứa: nét mặt hoà nhã, duyên dáng lịch thiệp. Với người nhỏ: nét mặt tình cảm, tận tình, độ lượng.
b. Ánh mắt: Được gọi là cửa sổ tâm hồn; cần ánh mắt nhẹ nhàng, thanh thản, cái nhìn chân thành, quan tâm.
- Đừng liếc ngang liếc dọc, đá lông nheo: đa tình.
- Đừng nhìn chằm chặp: soi mói.
- Đừng đảo mắt lia lịa, chớp mắt: biểu lộ gian trá.
- Đừng trợn mắt nhướng mày: Cau có.
- Đừng ngó bâng quơ, hờ hững: lãnh đạm.
Mắt nhìn lên: ngưỡng mộ; nhìn xuống: thương hại, coi thường.
Mắt liếc ngang nhìn trộm, bẽn lẽn: nhút nhát, quyến rũ.
c. Môi, miệng mũi:
- Nên khép môi. Tập thở bằng mũi, vì hơi thở có mùi...
- Tránh gãy tiếng động khi hít, hỉ mũi, ợ chua, hắt-xì, huýt sáo.
- Đừng ngoáy mũi, cạy răng, bứt râu ... khi giao tiếp.
d. Giọng nói:
- Lời nói luôn rõ ràng, minh bạch, vừa đủ nghe.
- Đừng nói quá to hay nói lí nhí, ấm ớ.
- Dùng từ: giản dị, dễ hiểu. Đừng tỏ ra học thức khi dùng từ ngoại quốc, triết lý... cho người bình dân.
- Tránh dùng từ thô kệch, bất nhã, tiếng lóng...
II. Về trang phục.
1. Y phục:
- Dùng để che thân, và còn góp phần tạo nên nhân cách biểu lộ chức vị, nghề nghiệp của một người.
- Nguyên tắc căn bản: Sạch sẽ, gọn gàng, phù hợp chức nghiệp, hợp thời, hợp cảnh, hợp vóc dáng màu da.
- Đừng mặc đồ quá lòe loẹt, hở hang, quá sang trọng.
- Mặc y phục đúng nơi, đúng việc, cách kỹ lưỡng (cài nút, dây kéo...).
2. Giày, dép, guốc: Vừa vặn, cần phân loại sử dựng cho từng dịp: Lễ bội, thể thao, dạo chơi, phòng ngủ, trong thà... Mang giày dép phù hợp với y phục, hoàn cảnh.
3. Đồ trang sức: cần hợp thời, hợp mức độ kinh tế và bậc sống mình.
4. Dùng dầu thơm: Phù hợp mùi, mùa, nơi chốn và bậc sống.
5. Việc trang điểm: Để tạo gương mặt tươi sáng hơn, cần nghệ thuật.
Bài 3.
LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP
I. Gặp gỡ thăm viếng.
1. Chào hỏi.
- Chào hỏi là biểu lộ sự kính trọng, lịch sự, là phương tiện để gây thiện cảm. Lời chào hỏi nên kèm theo nụ cười niềm nỡ, thân thiện.
- Người dưới không chào người trên là thiếu lễ độ, người trên không đáp lời chào bị tiếng là hách dịch, khinh người.
- Cách chào thông thường (VN) là cúi đầu và nói: ''Kính chào Đức Cha, Chào ông, chào thầy, chào bác sĩ Nếu đang đội nón, ngậm thuốc lá thì bỏ ra.
- Việc bắt tay: Đợi người trên đưa tay trước, mới được bắt. Bắt tay với sự niềm nỡ, thân mật, đừng mềm nhũn, cũng đừng xiết quá chặt, hoặc lúc lắc quá mức... Khi mang bao tay hoặc tay dơ bẩn, thì xin lỗi.
2. Giới thiệu.
- Mục đích giới thiệu là để quen biết nhau, biết rõ hơn.
- Cách giới thiệu: Giới thiệu người nhỏ cho người lớn, người chức cao trước người chức nhỏ. Lời giới thiệu cần đầy đủ và tên, chức nghiệp, (nơi ở và nơi làm)
Vd: Thưa Cha, đây là anh X, chị Y bạn lớp của con.
- Giới thiệu bất kỳ ở đâu, lúc nào, nếu thấy cần cho sự quen biết và làm việc. Chỉ nên nói cách ngắn gọn về điều ta biết thôi, đừng giới thiệu quá mức!
3. Thăm viếng.
- Khi nào? Khi vừa mới đến nơi, khi đổi nơi, ta cần thăm viếng người chủ, người lớn nơi đó. Khi hay tin vui hoặc buồn đau bệnh, dịp lễ Bổn mạng, Sinh nhật ...
- Cách thức thăm: Gõ cửa (2 tiếng), hoặc bấm chuông, chờ mời vào.
- Khi vào nhà, vào phòng riêng, chào chủ nhà và các thành viên gia đình. Khi đó mời ngồi, ta cám ơn rồi ngồi nơi được chỉ định.
- Đừng kéo dài câu chuyện, tìm cách rút lui khi chủ còn luyến tiếc. Cuộc thăm viếng thông thường không quá 15'. Nên lưu ý xem thời giờ, công việc của chủ nhà để cáo lui sớm.
4. Tiếp khách thăm.
- Phải tỏ ra vui vẻ, hiếu khách, ra đón tiếp niềm nở, rộng rãi, nhất là đối với anh chị em tu sĩ. Nét mặt, cử chỉ, lời nói hoàn toàn cho khách. Nhẫn nhục nghe chuyện, đừng bộc lộ bực dọc, nhăn nhó.
- Đang tiếp chuyện, nếu có việc khẩn cấp, hoặc có khách vào ta xin cảm phiền, xin vui lòng đợi chút... Khi họ ra vê cần đưa tin với đôi lời mời, luyến tiếc...
- Với khách tạm trú: Tạo sự thoải mái như nhà của họ. Cần đón tiếp niềm nở, dọn phòng riêng, dụng cụ cho sạch sẽ, rồi tổ chức giải trí, cơm nước chu đáo. Nên giữ bầu khí vui vẽ, quan tâm đến nhu cầu của khách.
- Thời gian ở trọ: Châm ngôn người khách là: Nhập gia tùy tục". Biết quí trọng những gì của chủ (đồ dùng, thú vật, điện nước...). Biết khen tặng những cái hay đẹp, tài nấu nướng, cách trang trí trả thù lao cho người làm công Đừng tò mò, lục lạo đồ đạc, thư từ của chủ. Về nhà, nên viết thư cám ơn, có thể gởi quà tặng.
II. Nghệ Thuật Nói Chuyện.
1. Đó là nghệ thuật biết nghe.
Thiên Chúa ban cho ta có hai cái tai và một cái lưỡi để đào luyện ta nên Nói ít mà lại Nghe nhiều (Chiavarino).
Có người thích nói, nói lung tung ''nói dai như đỉa đói, đó là cách gây ác cảm thành công nhất! Còn nghe thuật Nói, chính là Biết Nghe. Nghe không chỉ bằng đôi tai, mà còn nghe bằng mắt, bằng miệng, bằng nét mặt và toàn thân nữa. Đó chính là bí quyết ''gây thiện cảm''.
- Nghe bằng đôi tai: Dĩ nhiên, lời nói được nhận biết qua đôi tai. Nghe bằng tai những thông tin, đôi khi có những lời chỉ trích, nói xấu, phán đoán bừa bãi, tục tĩu... Hãy cười cười rồi bỏ qua, xem như nước đổ đầu vịt'' và gợi ý sang chuyện khác bổ ích hơn.
- Nghe bằng mắt: Khi tiếp chuyện với ai, hãy nhìn vào mắt họ, như muốn thu hút hết điều họ nói cả những điều mà họ diễn tả chưa đủ bằng lời. Họ muốn thế, họ muốn bạn hiểu hết ý họ, nên bạn hãy dồn nhãn lực vào họ là cách nghe bằng mắt.
- Nghe bằng nét mặt: Đừng để mặt chai như đá, nhưng nên thay đổi nét mặt theo tình tiết câu chuyện, để tỏ ra thông cảm với họ.
- Nghe bằng điệu bộ: qua việc gật đầu đồng ý; chống tay, nhăn trán để tỏ vẻ suy tư; hoặc tươi nở nụ cười với niềm vui mà họ kể. Nghe bằng miệng khi lên tiếng nói: Vâng, dạ, phải đó, thật à!... tuỳ theo ý nghĩa câu chuyện.
- Nghe với tinh thần học hỏi: Khi tiếp chuyện với ai, ta nên rút ra bài học ''hay-dở''. Trên đời, ai lại không có hay dở. Hãy loại bỏ điều tiêu cực để thu nhận điều tích cực và tích luỹ thành kinh nghiệm sống.
2. Biết nói.
- Thận trọng: Nếu họ muốn ta chia sẻ, góp ý, ta hãy thận trọng suy nghĩ và nhận định trước tiên về mặt tích cực điều họ đã nói và cần dè dặt mặt tiêu cực. Hãy thận trọng góp ý bằng cách nói khiêm tốn và nghiêm túc, nhất là bày tỏ sự cảm thông chân thành đối với họ.
- Nghiêm túc là khiêm tốn: Đừng nói những lời, những chuyện thiếu thanh nhã, lời hai ý, nhất là và vấn đề phái tính. Lời nói bộc lộ nội tâm của bạn, vì lòng đầy miệng mới nói ra: Nói khiêm tốn là không nên nói về mình nhiều quá, lúc nào cũng phô trương cái tôi thế này thế nọ, nhưng nên nhìn nhận tôi còn thiếu sót...
- Bác ái: Nói để xây dựng tình đoàn kết, yêu thương và giúp nhau thăng tiến hơn. Tránh những lời chua cay, châm biếm, mỉa mai, nói hành nói xấu. Nên nhớ: Ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình. Khi nói xấu ai về một vấn để gì, đó là dấu ta đã có khuynh hướng xấu đó rồi! Còn nói tốt về một người, đó là cách giúp ta muốn sống tốt, muốn khích lệ người đó tốt hơn mà cũng là cách để người khác đánh giá ta tốt về mặt đó.
III. Lịch Sự Trong Bữa Ăn.
Bàn ăn là nơi thể hiện nhân cách và giáo dục nhiều nhất, tục ngữ có câu: Ăn coi nồi, ngồi coi hướng nhằm lưu ý ta về việc học cách ăn uống và tiếp đãi khách.
Cách ăn uống:
- khi đến giờ, chủ nhà mời ăn, chỉ chỗ và mời ngồi, ta hãy vào ngồi cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Kế tiếp, (kinh nguyện) cách cầm đũa, chén, hoặc muỗng nĩa, dao... khăn ăn.
- Ăn uống cách nhẹ nhàng từ tốn. Lấy thức ăn do chủ trao hoặc chọn món ăn gần nhất. Đừng xốc lên, lựa chọn miếng ăn... Lưu ý sử dụng các muỗng cho từng món ăn.
- Khi uống nước nóng, không lên thổi: Tay mặt cầm tách, tay trái cầm dĩa lót hứng nước nhiễu. Uống nhẹ nhàng từng gụm.
- Khi chủ rót rượu, trà, nên lưu ý xin vừa đủ và cám ơn.
- Không nói chuyện khi thức ăn còn trên miệng.
- Học cách ăn dĩa và cách cầm muỗng, nĩa, dao.
2. Cách đãi tiệc.
- Nguyên tắc chung: Mời và đến đúng giờ, để khai mạc bữa tiệc
a. Cách đặt bàn, xếp ghế:
- Tuỳ loại bàn tròn hay chữ nhật. Kiểu VN hay Âu Mỹ, mà ta có cách đặt bàn khác nhau.
- Nguyên tắc chung: Trải khăn sạch, ghế ngồi cách nhau chừng 50 phân, xếp sẵn chén, dĩa, ly, muỗng nĩa dao hay đũa, khăn ăn... cho từng người. Đừng quên ống tăm sạch sẽ có thể đặt sẵn thực đơn (menu).
- Xếp chỗ ngồi: Nếu khách không lớn hơn chủ nhà thì chủ nhà ngồi chế số 1, kế đến là ghế đối diện, hoặc bên tả hữu của người quan trọng. Người thân trong nhà phải nhường chỗ ngồi cho khách.
- Cách sắp xếp bàn ghế (loại vuông tròn) và vị trí quan trọng trong đám tiệc.
b. Cách tiếp bàn:
- Nguyên tắc chung: Nhạy bén, gọn sạch khi trót rượu nước khi đem vào hoặc lấy thức ăn ra, tuỳ theo nhu cầu bàn ăn.
- Đừng tự động chia thức ăn, uống; cần thêm, phải xin phép người dùng.
- Học cách rót rượu, trà, cách chia thức ăn, súp sử dụng bếp ga.
- Ăn xong, mời dùng món tráng miệng, dùng rượu thơm hoặc cà phê, trà.
Bài 4
THƯ TỪ, ĐIỆN THOẠI, TẶNG QUÀ
I. Thư Từ.
1. Thư từ: Là phương tiện giúp ta bày tỏ tư tưởng, tình cảm và gởi thông tin liên lạc với người xa cách.
- Có nhiều loại thư: gia đình, ngoại giao, nghề nghiệp, tình cảm, báo tử, tuỳ thể loại mà ta có lối viết khác nhau. Thông thường lối văn viết thư cần gọn gàng, rõ ràng từ ngữ lịch sự để người đọc hài lòng.
- Lưu ý: ''lời nói bay đi, chữ viết còn mãi, nên đừng viết những gì mà sau này đọc lại ta phải xấu hổ !
2. Viết thư:
- Nội dung thư: Ghi địa chỉ, ngày tháng năm.
- Mở đầu: Lời chào chúc, thăm hỏi cách vấn tắt.
- Kế đến, diễn tả những điều mình muốn: cám ơn, chúc mừng van xin, ước nguyện.
- Kết thư: Bày tỏ lòng yêu thương kính trọng biết ơn.
- Nếu là người Công giáo, ở phần kết thư ta có thể bày tỏ tình thân ái trong Chúa Kitô và hiệp thông cầu nguyện.
- Nếu đã viết xong còn muốn viết bổ túc, thì để TB (Tái Bút) hoặc P.S (Post scriptum).
- Hình thức : Viết trên giấy sạch, viết rõ, không bôi xóa.
- Không nên viết kín hết mặt giấy, cần chừa lề.
- Ký tên và ghi tên họ, (kèm địa chỉ).
- Cách đề bao thư: Tên, chức vị, địa chỉ.
3. Cần lưu ý:
Người lịch sự thường ứng xử theo nguyên tắc: Nhận thư phải trả lời thư, càng sớm càng tốt.
- Về cách gởi thư tay, công thức ghi ngoài bao thư.
- Tuyệt đối không bao giờ tò mò xem thư người khác, nếu họ chưa đồng ý.
II. Danh Thiếp (Carte visite).
- Danh thiếp là những thiệp nhỏ, ghi họ tên, chức vị, địa chỉ người dùng.
- Công dụng: Để tặng địa chỉ, để kèm theo khi tặng quà, để trình danh tánh khi đến nhà lạ, để báo tin đến thăm trong lúc chủ vắng nhà (nhớ bẻ góc). Khi sử dụng trong dịp là mừng chúc, lễ tang, có thể viết trên danh thiếp và dòng chữ
III. Điện Thoại.
Ngày nay, điện thoại là phương tiện giao tiếp thông dụng, ta cần biết sử dụng lịch sự.
- Mục đích: Điện thoại là để thông tin, liên lạc, để nói những chuyện khẩn cấp, quan trọng, đừng nên sử dụng để nói chuyện phù phiếm.
- Cần lựa giờ thuận tiện để liên lạc. Tránh những câu xã giao dài dòng nói vừa đủ để thông tin và tiết kiệm thời giờ (tiền bạc).
- Cách sử dụng: Ta cần học cách cầm, cách nói qua điện thoại. Nên biết những câu nói khi gọi đi, khi nhận điện và những câu kết thúc cuộc điện đàm.
a. Khi gọi:
Cần chuẩn bị nội dung và số máy : biết mình sắp nói gì, sắp nói với ai?
- Khi bắt đấu nói: Hãy xưng danh tánh và ý chính cuộc nói chuyện cách lịch sự.
- Nếu gọi lầm số, có thể hỏi lại: Xin lỗi, có phải máy số .không?. Rồi câu ''Rất tiếc. Tôi nhầm số, xin lỗi''.
- Đừng la hét, quạu quọ, ra cử điệu lung tung khi điện đàm.
b. Khi nhận điện thoại:
- Nếu là nhà riêng, khi nhấc máy, chỉ cần nói Alô, hoặc Xin chào. Nếu là người giúp việc, hoặc khác trọ, thì nói: Alô, đây là nhà của Ông.
- Nếu gặp khách lạ, người muốn nhắn tin, thì hỏi: Xin vui lòng cho biết quí danh.
- Tôi đang hân hạnh tiếp chuyện với ai? Tôi có thể chuyển lời giúp ông được không?
- Nếu là Nhà Chung: Nhà thờ xin nghe, hoặc Dòng xin kính chào quí khách.
IV. Tặng quà:
1. Mục đích (ý hướng) Tặng quà.
- Để tỏ lòng biết ơn, kính trọng, yêu mến.
- Để thông phần niềm vui và muốn là vui lòng người.
- Để chúc mừng, lưu niệm, bày tỏ tình cảm, luyến thương.
- Mục đích xấu nhất: Đó là lợi dụng, mua chuộc tình cảm, hối lộ.
2. Ý nghĩa và giá trị quà tặng:
Tùy dịp, tùy loại quà, tùy ý hướng mà quà tặng mang những ý nghĩa và giá trị khác nhau, nhưng tựu trung 3 giá trị:
- Giá trị vật chất: Món quà được tính theo giá bán thị trường.
- Giá trị tinh thần: Biểu hiện tình thương sự chọn lựa và trao ban.
- Giá trị thiêng liêng: Món quà có mang biểu tượng và ước nguyện.
3. Cách tặng quà: Cách tặng còn quí hơn quà tặng
- Trước khi chọn mua quà và tặng quà, nên suy nghĩ: Tôi muốn tặng cho ai? Vào dịp nào? Họ thích gì? Tôi có ước nguyện gì qua món quà?
- Món quà tình nghĩa không cần đắt tiền, quan trọng là cách thể hiện tình cảm qua cách chọn quà, gói quà và trao tặng quà với tất cả sự quan tâm, trìu mến của người tặng đối với người được tặng.
- Cần chọn đúng quà, đúng nghĩa, nếu trái ngược, sẽ phản tác dụng!
- Lưu ý việc tặng hình (cho người khác phái)
4. Cách nhận quà:
- Người nhận quà có bổn phận biết ơn: nên bộc lộ sự vui mừng và cảm nhận giá trị, tìm thấy ý nghĩa của món quà.
- Nên bày tỏ đôi lời cảm ơn, hoặc bằng lời, hoặc bằng thơ.
- Có thể tìm dịp để đáp trả: Đã nhận nhưng không, hãy cho nhưng không.
V. Tặng hoa:
- Tặng hoa đã trở thành tập tục quốc tế, mang ý nghĩa và có giá trị quan trọng.
- Tặng hoa cũng là việc thể hiện tình yêu, lòng kính trọng, mộ mến đối với người được tặng, nhất là làm cho nghi lễ thêm long trọng.
* Nên biết: Ý nghĩa của từng loại hoa, sắc màu của hoa, số lượng hoa, cách bó hoa, lẳng hoa, dịp tặng nào phù hợp loại nào.

ĐỨC TÍNH NHÂN BẢN
- Đức tính nhân bản là những đức tính tự nhiên, giúp người có giáo dục và rèn luyện đạt được mức trưởng thành nhân bản.
- Đức nhân bản Á Đông, được trình bày ngắn gọn, dễ nhớ gồm 10 đức tính, trong 2 mối tương quan: Với bản thân: Cần Kiệm Liêm Chính Dũng. Với tha nhân: Nhân Nghĩa Lễ - Trí Tín. Cách riêng về Tứ đức: Công Dung Ngôn Hạnh dành cho các bạn gái.
- Phần II này còn trình bày thêm việc huấn luyện trưởng thành tình cảm, vấn đề tình bạn, tình yêu của tuổi trẻ va việc đối thoại ngày nay.
Bài 1
CẦN
Chuyên cần Siêng năng Chăm chỉ
Siêng năng chính là chiếc chìa khóa đều tiên mở cánh của tương lai, là một trong những bí quyết thành công trong cuộc sống.
I. Ý nghĩa:
- Chuyên cần (diligence): Là ham thích làm việc, làm cách mau mắn, vui tươi và kỹ lưỡng.
- Một người chuyên cần là người siêng năng, chăm chỉ học hành, ham làm việc, làm đến hoàn tất.
- Chăm chỉ: Là chuyên tâm, chú ý vào một động tác, tập trung mọi hoạt động của tinh thần vào một công việc, Vd: Chăm chỉ học hành; chăm chú cầu nguyện; chú ý một người lạ; chú ý đọc đúng giọng, hiểu lời đọc
II. Lao động: làm việc.
1. Ý nghĩa:
- Lao động: Chính là làm việc có ý thức, nhằm cải tạo thiên nhiên, tạo ra những sản phẩm vật chất hay tinh thần, góp phần đem hạnh phúc cho con người, xã hội.
- Có 2 loại lao động: Lao động chân tay và lao động trí óc. Cả 2 đều có giá trị ngang nhau, không thể khinh thường loại nào, vì tất cả đều góp phần xây dựng cho cuộc sống văn hóa, tiến bộ khoa học của con người.
2. Giá trị của lao động:
- Giá trị tự nhiên (nhân bản): Làm việc nhằm mục đích để sinh tồn và văn hóa. Tay làm, hàm nhai, có làm mới có ăn! Từ cuộc sống ấm no, đầy đủ, con người muốn sống cao hơn, tốt hơn, nảy sinh ra lao động có nghệ thuật, khoa học, phát sinh các nền văn hóa, văn minh khác nhau.
- Giá trị siêu nhiên: Làm việc là định luật của cuộc sống. Thiên Chúa luôn làm việc (quan phòng). Qua lao động, con người được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa. Nhờ lao động, ta tiếp tục công trình sáng tạo của Chúa, làm cho thế giới nên hoàn thiện hơn.
- Giá trị cứu độ: Ý thức qua lao động, ta góp phần cứu rỗi bản thân và thế giới: Khi lao động, ta cầu nguyện, liên kết với Chúa, để việc ta làm được động hóa với sức mạnh sáng tạo của Chúa. Nhờ lao động, ta có khả năng tin tưởng, yêu mến nhiều hơn, phát triển tài năng (nén bạc) Chúa ban để sinh ích lợi cho nhiều người: yêu thương là phục vụ.
III. Chuyên cần và lười biếng:
- Người chuyên cần: Thì ham thích làm việc, không ngại mệt nhọc để chu toàn công việc được giao phó.
- Người lười biếng: Ham ở không, ngại nhận việc, sợ khó nhọc, sợ trách nhiệm.
- Người chuyên cần: Vui vẻ, mau mắn thi hành công việc, thiết tha với công tác.
- Người lười biếng: Ơ hờ, trễ nải, lừng khừng, không tha thiết công tác.
- Người chuyên cần: Làm việc cẩn thận, kỹ lưỡng, làm việc đến nơi đến chốn.
- Người lười biếng: Làm cẩu thả, lấy có lấy rồi, bỏ dở công việc.
IV. Luyện tập chuyên cần.
- Về công việc: Luyện tập làm việc cách chu đáo, từ việc nhỏ đến việc lớn. Khi làm thì quyết làm cho xong việc, không bỏ dở giữa chừng.
- Về học hành: Chăm chỉ học tập, chăm chú nghe giảng dạy, siêng năng làm bài tập. Học và làm cho xong bài được giao.
- Về đạo đức: Siêng năng thực hiện việc đạo đức qui định hàng ngày. Ghi nhớ câu tâm niệm: Hãy làm việc tầm thường cách phi thường.
V. Luyện tập chăm chỉ.
- Lợi ích của chăm chỉ: Khi nào ta chuyên tâm, chú ý, chăm chỉ vào một việc, ta mới thực sự tự do và vui vẻ hành động, vì nó xuất phát tự lòng ưa thích, từ những dự định sau khi đã suy nghĩ, chọn lựa và quyết tâm. Nhờ thế, ta dễ dàng đạt đến hoàn tất và thành công.
Nhờ tập được chăm chỉ, ta được sự vui tươi, nhờ đó, ta có thể giải quyết mọi trắc trở, biến suy nghĩ thành hành động.
- Phương pháp luyện tập: giữ 2 điều:
. Bài trừ triệt để mọi tư tưởng tản mác về việc khác: Biết mình đang lo ra, chia trí, nên nỗ lực dẹp trừ ngay và dứt khoát.
. Quyết chăm chú vào việc đang làm: Tận tâm, tận lực lo việc hiện tại, như chỉ có giây phút hiện tại quan trọng
. Châm ngôn: Chăm chỉ làm một việc thôi và làm tận tình.
* Kết: làm việc là qui luật chung trong trời đất. Chim có cánh để bay, người có tay để làm. Có chuyên cần làm việc, thì tài năng Chúa ban mới có cơ hội phát triển.
BÀI 2.
KIỆM
TIẾT KIỆM TIỀN CỦA SỨC KHỎE THỜI GIỜ
I. Tiết kiệm là gì?
- Theo từ ngữ:
. Tiết: là giảm bớt, kìm hãm, hạn chế, dằn lại.
. Kiệm: là dành dụm, không hoang phí, có chừng mực.
- Nghĩa chung:
Tiết kiệm là việc hạn chế đúng mức, chi tiêu dè xẻn, không hoang phí, không xa hoa trong việc sử dụng tiền của, sức khỏe, thời giờ.
II. Lãnh vực tiết kiệm.
Tiết kiệm trên 3 lãnh vực: tiền của, sức khỏe, thời giờ.
A. Tiết kiệm tiền của: việc sử dụng tiền bạc và của cải cá nhân, tập thể.
1. Về tiền bạc:
- Tiêu xài điều độ: Đừng làm ít xài nhiều, ăn tiêu quá độ, hoang phí.
- Cần định mức chi thu rõ rệt: Lập sổ chi thu minh bạch, ghi chép, kiểm tra thường xuyên. Đừng để mang nợ, vì nhất tội, nhì nợ.
- Dùng đồng tiền cách phải lẽ, không bủn xỉn, hà tiện, nhưng để thỏa mãn nhu cầu cần thiết, và để dành lúc túng thiếu.
2. Về của cải:
Nhà cửa, đồ dùng, quần áo, điện nước, thức ăn, thức uống
- Của tư: Liệt kê đồ dùng cá nhân, sử dụng đúng mức, cách cẩn thận, để đồ dùng được lâu bền, tiết kiệm tiền mua sắm.
- Của công: sử dụng tiết kiệm điện nước, nhà trường, lớp học sách vở ở thư viện.
Cần biết giữ gìn nhà cửa, đồ dùng, tiết kiệm vật liệu, nhất là điện nước.
B. Tiết kiệm sức khỏe.
Sức khỏe là cái quí báu của con người. Vì thế, cần bảo vệ sức khỏe bằng điều độ.
1. Về ăn uống: Cần ăn uống thức ăn bổ dưỡng, sạch sẽ, tránh tránh những gì hại sức khỏe như rượu mạnh Khi ăn, cần nhai kỹ, để giúp dạ dày dễ tiêu hóa
2. Về giấc ngủ: Tránh thức khuya, hoặc ngủ nướng
3. Về làm việc: Làm việc chừng mực, đúng giờ, nên giải trí, tạm nghĩ, kẻo sinh bệnh.
4. Siêng tập thể dục: Mỗi lúc ngủ dậy, dành ít phút tập thể dục để khí huyết lưu thông, gân cốt vững chắc, tinh thần vững mạnh.
B. Tiết kiệm thời giờ: Đúng giờ, đúng hẹn.
1. Đúng giờ: Là giờ nào việc ấy. Mỗi việc có một số giờ qui định, và sắp xếp sao cho công việc đúng vào thời gian của nó. Giờ nào việc ấy, việc nào giờ ấy.
2. Đúng hẹn: Đó cũng là một phần của chữ Tín, nghĩa là khi hẹn ước với ai về thời gian và công việc nào, thì ta có nghĩa vụ thi hành cho đúng hẹn.
Đúng giờ hẹn:
Là một cách tự trọng, thái độ lịch sự, biểu thị tấm lòng nhân từ, bác ái huynh đệ với người khác.
Bí quyết giữ đúng giờ:
- Qui định thời khóa biểu, sắp xếp đúng việc.
- Làm sổ Agenda: Ghi những việc làm và giờ thực hiện.
- Tập lo xa: Dự phòng cẩn thận những thiếu sót, bất thường.
III. Lãng phí: nết xấu nghịch Tiết kiệm.
- Lãng phí sức lao động: vì kém óc tổ chức, sắp xếp vụng về
- Lãng phí thời giờ: làm công việc cứ câu giờ, ham mê trò giải trí quên việc chính yếu
SỔ CHI THU
Ngày Khoản Thu Chi Còn lại
15-2
16-2
18-2 Mẹ cho
Mua sách
Mua nón
Đi xe 100.000
10.000
5000
15.000 100.000
90.000
85.000
70.000
BÀI 3
LIÊM
TRONG SẠCH TÂM HỒN VÀ THỂ XÁC
1. Liêm là gì?
Thanh liêm, thanh sạch: Nghĩa là trong sạch, được hiểu trong sạch thể xác lẫn tâm hồn.
Người thanh liêm còn được hiểu là người trong sạch trong khi thi hành chức vụ, không tham nhũng, không hối lộ.
2. Sạch sẽ tâm hồn.
- Tâm hồn sạch tội: Đó là một tâm hồn trong trắng, không vướng mắc tội lỗi, hoặc nếu có vướng mắc, thì biết ăn năn hối lỗi, và quyết tâm sửa đổi.
- Đức khiết tịnh: Là nhân đức giúp ta sống trong sạch trong tư tưởng, tâm tình, ngôn ngữ, cử chỉ và hành động.
- Lỗi đức khiết tịnh: Trong tư tưởng, lời nói, hành động: khi suy tưởng, ước muốn hay thực hiện điều dâm ô.
- Giữ tâm hồn trong sạch: 3 điều.
. Cầu nguyện, lãnh bí tích, trông cậy ơn Chúa.
. Sáng suốt làm chủ ngũ quan và trí tưởng tượng.
. Sống đoan trang trong ăn mặc, đi đứng, giao tiếp bạn bè, người khác phái, nhất là xa lánh dịp tội.
3. Sạch sẽ thể chất.
Sạch sẽ thể chất là sạch sẽ về thân xác và đồ dùng
Sạch sẽ là mát mẽ con người.
Nhà sạch thì mát, bát sạch thì ngon.
Lành cho sạch, rách cho thơm.
A. Sạch Sẽ Thân Xác:
- Người có giáo dục phải biết sống sạch sẽ, biết gìn giữ thân thể sạch sẽ bằng cách tắm rửa thường xuyên, biết đánh răng, chải tóc, cạo râu, xỉa răng, cắt móng
- Người có giáo dục cần lưu ý các vấn đề sau:
1. Khạc nhổ, không được làm nơi công cộng.
2. Khi hắt hơi, hỉ mũi, ngáp, ợ: Phải nhẹ nhàng, dùng khăn, tay che miệng.
3. Tránh gãi đầu, ngoáy tai, cắn móng tay, bẻ ngón tay, cạy mũi nơi công cộng và trước mặt người khác.
B. Sạch Sẽ Trang Phục:
- Quần áo ảnh hưởng trực tiếp đến cá tính con người. Ta có thể thay đổi cá tính nhiều lần trong ngày, bằng cách đổi áo quần.
- Quần áo còn biểu hiện nhân cách con người. Qua trang phục người ta biết bạn là thuộc hạng người nào: Nghiêm chỉnh hay cẩu thả, lịch sự hay vô lễ, đơn sơ hay cầu kỳ, trí thức hay dốt nát, văn minh hay quê mùa.
- Cách trang phục: Phải sạch sẽ, vén khéo, giản dị, đúng đắn: đó là điều căn bản. Tránh ăn mặc lôi thôi cẩu thả, lem luốc, rách nát, hôi hám tránh ăn mặc lòe loẹt, hở hang, kỳ dị Cài nút khuy, dây kéo cẩn thận.
- Trang phục đúng nơi: Mỗi nơi, mỗi việc cần trang phục khác nhau: khi dự lễ, khi đến trường, khi vui chơi, thể thao, tắm, ngủ
C. Ăn ở Sạch Sẽ:
- Nơi ở: Nhà cửa, phòng ngủ, giường chiếu: cần sạch sẽ, gọn gàng. Cần quét, lau, chùi, dọn dẹp, bỏ rác vào thùng.
- Ăn uống: Khoan thai, sạch sẽ, nhẹ nhàng khi ăn và uống Học biết cách ăn với muỗng, nỉa, dao, đũa, chén dĩa Nhường nhịn khi ăn chung, tránh xáo trộn để kén chọn thức ăn
4. Lợi ích của người sạch sẽ:
- Thể chất sạch sẽ, thì thân xác khỏe mạnh, tránh đau ốm, bệnh tật.
- Tâm hồn sạch sẽ, sẽ thanh thản, thoải mái, minh mẫn, sáng suốt.
- Sự sạch sẽ thể xác sẽ giúp cho dễ dàng cầu nguyện, học hành, ngủ nghĩ. Men sana in corpore sano = tinh thần thanh thản trong thể xác tráng kiện.
5. Tai hại của kẻ dơ bẩn.
- Thường hay đau ốm, bệnh tật, truyền nhiễm.
- Gây phiền hà do mùi hôi hám là lỗi bác ái với người chung quanh!
- Biểu hiện thiếu văn hóa, giáo dục, bị khinh chê.
Bài 4
CHÍNH
CHÍNH TRỰC, THÀNH THẬT - CÔNG BẰNG
I. Chính Trực.
1. Chính trực là gì ?
- Là ngay thẳng, nghiêm minh, thành thật.
- Người chính trực là người sống theo công lý, biết nói và hành động cách nghiêm minh, không thiên tư,tây vị.
- Đức chính trực là đức tính cần thiết của người lãnh đạo,để quản trị và hướng dẫn nghiêm minh.
2. Lý do không chính trực:
- Vì tình cảm chi phối: Nhát sợ, yêu thương sái mùa...
- Vì ảnh hưởng của xã hội, văn hoá, kinh tế: Ham giàu, chức vị cao...
3. Luyện đức chính trực:
- Nghe theo tiếng lương tâm ngay thẳng.
- Cái nhìn đức tin: Tập nhìn sự vật, con người và các biến cố theo cái nhìn của Chúa Kitô.
II. Thành Thật.
1. Ý nghĩa.
- Các tên gọi khác: Chân thành, Chân thật, Thành tín ...
- Thành thật, theo ngôn ngữ bình dân nghĩa là:
Bụng nghĩ sao nói vậy không nói dối hầu lấy tiếng khen, hoặc che giấu cái dỡ của mình.
Người thành thật là người không tự dối lòng mình không dối gạt người khác. Trong cư xử, ngôn ngữ, hành động họ luôn tỏ ra thực tình, tín nghĩa.
2. Lỗi nghịch của đức thành thật.
a. Người không thành thật: Đó là hạn người: Giả hình, Dối trá, Lừa đảo, mưu mô, xảo quyệt, gian dối...
b. Không thành thật trong sáng:
- Ngôn ngữ : Nói láo, nói khoác, thề gian, vu khống...
- Cử chỉ điệu bộ : Giả hình, giả bộ...
- Hành động : Làm chứng gian, thi cử 'copy', mua bán gian lận, lường gạt, chơi ăn gian...
c. Nguyên nhân của dối trá.
- Sợ sệt và khoe khoang, đó là 2 nguyên nhân chính của dối trá. Đôi khi nói láo cũng vì dã tâm, ác ý, đam mê bất chính.
- Muốn sửa trị dối trá, phải tìm nguyên nhân rồi nỗ lực bài trừ.
3. Lý do giữ thành thật.
- Trong cư xử, giao tiếp lịch sự, chân thành là căn bản để được mọi người tín nhiệm và yêu mến. Ai cũng sợ 'khẩu phật, tâm xà, hoặc như lời của của Nguyễn Du: 'Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao'.
- Bình diện siêu nhiên, chân thành vì Thiên Chúa là chân lý Ta là Đường, là Sự Thật và là sự sống(Ga 14.6).
- Thật thật, vì là anh em của nhau: Anh em hãy bỏ dối trá, mỗi người hãy nói thật với người đồng loại, vì chúng ta là chi thể của nhau'' ( Ep 4.25).
4. Lợi ích của thành thật.
- Một con người chân thành luôn trọng chữ thành tín, nhất định sẽ được mọi người chung quanh ưu đãi, tha thiết.
- Người thành thật thường được mọi người khâm phục, quí mến, tín nhiệm và cởi mở tâm tình.
- Trái lại, ngươi sống lừa dối, xảo trá, gian lặn, thì bị khinh bỉ và xa lánh.
- Bạn có thể lường gạt mọi người trong một thời gian và lường gạt vài người luôn mãi, song bạn không thể gạt luôn mãi hết mọi người (A.Lincoln).
- Sách Luận ngữ có câu: Có 3 hạng bạn bè ích lợi: Bạn ngay thẳng, bạn nghe nhiều, bạn học rộng; và 3 hạng ngươi làm nguy hại: Bạn làm nhiều bộ tịch, bạn ưa chiều chuộng, bạn nịnh bợ gian xảo''.
III. Công Bằng.
Công bằng là của ai, trả cho người nấy.
1. Có 3 loại:
- Công bằng giao hoán: Tôn trọng quyền sở hữu, trao trả cho người khác những ai thuộc về họ: như mua bán...
- Công bằng pháp lý: Mọi cá nhân hoạt động theo những đòi hỏi của lợi ích chung.
- Công bằng phân phối: Phân chia nhiệm vụ và quyền lợi giữa các phần tử trong cộng đoàn cách chính đáng: nhà cửa, ruộng đất, việc làm.
2. Lỗi đức công bằng.
- Trộm cắp, cất giữ của người trái phép.
- Tham ô, lãng phí, lạm dụng của công.
3. Xây dựng công bằng xã hội.
Chu toàn nghĩa vụ, bổn phận, quan tâm đến lợi ích chung sống tình liên đới, tương trợ trong cộng đoàn xã hội.
* Lưu ý: Đời sống cộng đoàn tu sinh, tuyệt đối tránh TRỘM CẮP.
Bài 5
DŨNG
TỰ CHỦ CƯƠNG NGHỊ
Dũng là thói quen tập trung ý chí và vận dụng sức mạnh tinh thần vào một mục đích đã định, quyết tâm vượt mọi trở ngại. Người có Dũng là người có nghị lực kiên cường, biết làm chủ lấy mình trong mọi tình huống, luôn hành động theo lý trí, quyết tâm theo đuổi mục tiêu đến cùng. Muốn tập chữ ''DŨNG'' cần rèn luyện ý chí.
I. Tự Chủ.
1. Tự chủ là gì?
- Tự Chủ là làm chủ lấy mình, khắc phục mọi lo âu sợ hãi, mọi dục vọng bất chính của mình.
- Người tự Chủ là con người luôn tỉnh táo đứng trước tình thế nguy nan, không lộ vẽ lo sợ, buồn bã, cuống cuồng.
a. Tự chủ trong lời nói: Người tự chủ thì trầm tĩnh, chỉ nói khi phải nói, nói cách thận trọng, không nói quá lời.
b. Tự chủ quả tim: Người tự chủ thì phải nhân từ, khoan dung, không để cho sở thích hay tính đố kỵ diều khiển mình.
c. Tự chủ trong ý chí: Là người có khả năng chế ngự dục vọng xấu và tính nóng nảy, nhưng điều khiển được ngôn ngữ, phản ứng và tâm tình của mình.Người tự chủ luôn giữ được thăng bằng đã suy nghĩ cẩn thận, trấn áp cảm xúc, diện mạo cử chỉ trầm tĩnh.
2. Lợi ích của tự chủ:
Người tự chủ luôn điều khiển được sinh hoạt của mình: Lời nói, cử chỉ, thái độ, hành động... Tất cả đều nhờ lý trí hướng dẫn và ý chí điều khiển. Họ dạt dào tình cảm, nhưng không nô lệ chúng. Họ dồi dào tưởng tượng tràn đam mê, nhưng luôn hành động có ý thức và cương quyết. Còn người không biết tự chủ, thì tâm trí mê muội, mặc cho dục vọng, tính xấu triển nở, vì giận mất khôn, lo quá nên rối trí , mừng quá sinh ảo tưởng... Nhờ tự chủ, tinh thần càng được phấn khởi, ý chí càng đanh thép vươn lên và vượt thắng mọi trở lực.
4. Luyện tự chủ.
- Ngoài phương thế siêu nhiên như cầu nguyện, hi sinh, lãnh các bí tích, ta nên luyện tập trầm tĩnh, suy nghĩ và đọc sách.
a. Trầm tĩnh: Tục ngữ có câu: ''im lặng là vàng'' thật đúng trong trường hợp này. Lúc bị dao động ta nên dừng lại một thời gian im lặng, gọi là trầm tĩnh:
- Đừng làm gì cả: Đừng ra điệu bộ, giậm chân, múa tay....
- Đừng giãi bày tâm sự: đừng quyết định chi cả. Đợi khi tâm não lấy lại quân bình, ta mới quyết định. Vì:
- Khi bị xúc động mạnh, dễ lôi cuốn quyết định bồng bột.
- Có im lặng bên ngoài, bên trong dễ suy nghĩ, tăm não quân bình và phán đoán mới chính xác,
b. Suy nghĩ: Khi bị dao động mạnh, ý chí dễ bị thiên lệch, nên cần có lý trí soi sáng để suy nghĩ và có hành động hợp lý. Ta cần dừng lại để suy nghĩ :
- Nguyên nhân kích thích cảm xúc đến từ đâu?
- Tìm cách đối phó tức khắc hay chờ đợi?
- Nên nhớ: ''Thời gian là thầy dạy khôn ngoan:
c. Đọc sách: Cần chọn vài loại sách có công dụng luyện tập tự chủ: Loại sách danh nhân, danh ngôn, lịch sử, hạnh thánh.
II. Cương Nghị.
1. Cương nghị:
Là khi đã quyết định thi hành một công việc nào, thì quyết tâm làm và nỗ lực làm tới cùng. Việc gì thấy cần thì quyết tâm làm và khi đã quyết tâm làm thì làm cho tới cùng (B Franklin)
- Người cương nghị: Trước khi bắt tay vào việc, họ suy nghĩ đắn đo, cân nhắc lợi hai, rồi sau đó tiến hành công việc cho đến khi hoàn tất chu đáo.
- Người thiếu cương nghị: Cũng suy nghĩ đắn đo, cân nhắc lợi hại, nhưng lúc bắt tay vào việc, họ phân vân, vừa muốn vừa thôi. Kết cục làm lôi thôi, dang dở.
2. Tai hại do thiếu cương nghị.
- Không xong công việc.
- Luôn thay đổi, không hoàn thành công tác.
3. Luyện tập cương nghị.
- Muốn có cương nghị, ta cần rèn ý chí: Tập suy xét cẩn thận, và quyết định làm việc gì thì làm đến cùng.
- Tập quả quyết từ những việc nhỏ, đừng bao giờ khinh thường việc nhỏ quyết định vẫn hơn xác định.
- Tập đừng hối tiếc khi đã quyết định, đã thi hành.
Bài 6
NHÂN ÁI , NHÂN TỪ
l. Đức Nhân Ái.
Là nhân đức dạy ta biết yêu thương tha thứ và phục vụ người khác, theo gương Chúa Giêsu Kitô.
1. Lý do yêu người.
- Xét về tự nhiên: ''Tứ hải giai huynh đệ'' : Người trong bốn biển đều là anh em : cổ võ tình thương nhân loại.
- Xét về siêu nhiên: Từ Cựu Ước đến Tân Ước. Thiên Chúa, luôn dạy dỗ Dân Chúa, dạy chúng ta 'Hãy yêu thương nhau', như chúa đã yêu ta.
- Đức nhân ái dựa trên nền tảng: 'Chúa là Tình yêu, ai yêu thương nhau là ở trong Thiên Chúa'. Chúa đã dựng nên con người sống hình ảnh Chúa và Chúa đã chết để cứu chuộc loài người vì yêu con người. Vì thế, Chúa muốn con người sống yêu thương nhau: 'Hãy yêu nhau như Thầy yêu chúng con'.
2. Thực hành yêu người: "Yêu như Chúa yêu".
a. yêu cả xác và hồn:
- Thương xác 7 mối: Cho kẻ đói ăn, Cho kẻ khát uống, Cho kẻ rách rưới ăn mặc, Thăm kẻ bệnh tật, tù tội, Cho khách trọ nhà, chuộc kẻ làm tôi, Chôn xác kẻ chết.
- Thương linh hồn 7 mối: Lời lành khuyên người, dạy kẻ mê muội, An ủi kẻ âu lo, Răn bảo kẻ có tội, Tha thứ kẻ tù, Nhịn kẻ phiền ta, Cầu nguyện cho kẻ sống kẻ chết.
b. Yêu với mối tình phổ quát.
- Yêu mọi người, dù là người thù, ganh ghét, làm hại ta.
- Yêu bằng cách nhịn nhục và cầu nguyện cho người.
c. Yêu là dấn thân phục vụ:
- Chúa Kitô vì yêu ta, đã đến ở giữa chúng ta, sống trọn kiếp người như ta, ngoại trừ tội lỗi (IX.Dt 4,15)
- Yêu là dấn thân hoạt động: Tích cực góp phần đem lại niềm vui, hạnh phúc cho con người. Yêu không là trên chót lưỡi đầu môi, mà ''Yêu đi rồi hành động:
- Yêu là phục vụ: Yêu là cho đi sức khoẻ, thời giờ, khả năng, của cải... Càng cho nhiều, là dấu càng yêu nhiều. Cho đi những gì? Bậc thấp thất của tình yêu là bố thí tiền của, vật chất. Bậc thứ 2 là cho đi thời giờ, sức khoẻ của mình. Bậc cao nhất là cho đi cả mạng Sống (phục vụ người cùi) 'Không có tình yêu nào cao quí hơn người thí mạng vì yêu'.
II. Nhân Từ.
Sự Tha Thứ .Điều khó nhất trong sự yêu người : đó là sự tha thứ.
1. Tha thứ là gì?
- Tha thứ là nhìn nhận mình bị xúc phạm và đồng thời chấp nhận người phạm lỗi cần được yêu thương, tôn trọng, tha thứ.
- Tha thứ không là quên đi mọi lỗi phạm, sai trái, nhưng là để nó tan biến trong biển cả của tình thương, thiện hảo.
- Tha thứ không là yếu nhược, mặc kệ, bỏ qua... mà là can đảm làm cho sự thông cảm vượt qua tự ái cá nhân, tức giận, báo thù, để hoà giải với người xúc phạm đến mình.
2. Giá trị tha thứ.
- Tha thứ được gọi là 'tuyệt đỉnh của tinh yêu, vì nó đòi ta vượt qua từ yêu bản thân đến yêu kẻ thù, một tình yêu giống như Chúa Kitô trên Thập giá.
- Tha thứ là một nhân đức anh hùng, một khả năng của Thiên Chúa tình yêu.
- Tha thứ là việc trao ban cao cả nhất, vì không chỉ là cho đi tiền của vật chất, mà cho đi lòng tự ái, sự bao dung, cho đi cả con người của mình.
- Tha thứ là dấu của yêu thương thật, dấu của người con cái Chúa. Không yêu thì khó mà tha thứ!
- Tha thứ là làm điều thiện cho người gây khổ mình, vì khi tha thứ, họ không sợ báo thù, làm cho cuộc sống chung bình an.
3. Lợi ích của tha thứ.
- Tạo niềm vui trong lòng: Vì ta làm được điều thiện, không còn bận tâm trả thù, tâm hồn được thư thái, được an vui vì tin chắc rằng: ''Chúa sẽ tha thứ cho người biết thứ tha'?
- Tha thứ giải toả căng thẳng, làm cho cộng đoàn ta sống được nhẹ nhàng, không căng thẳng hàn gắn vết sứt mẻ trong các mối quan hệ, phá vỡ oán thù.
- Tha thứ là liều thuốc bổ dưỡng tinh thần lạc quan, hy vọng và vươn lên trong cuộc sống chung.
- Tha thứ là chiến thắng trong cuộc chiến Tình yêu, là ''lấy tình yêu xoá bỏ hận thù', làm tình yêu lan toả khắp nơi.
4. Luyện tập tha thứ.
Thực ra, tha thứ là điều khó thực hiện, vì nó là khả năng của Thiên Chúa. Cần luyện tập và cậy trông vào ơn Chúa.
- Tập tha thứ từ những điều nhỏ nhặt thường ngày, để dễ dàng tha thứ những xúc phạm quan trọng đến danh dự, tự ái Nên nhớ ''Yêu nhau lắm, cắn nhau đau''.
- Dám tha thứ là dám chịu thiệt thòi, dám tin rằng: Cuối cùng thì 'tình yêu sẽ thắng', tha thứ có sức hoán cải lòng người.
- Cần tập ánh mắt nhân hiền, biết chạnh lòng thương người, như Chúa đã chạnh lòng thương ta. Hãy tập tha những ''món nợ nho nhỏ'' vì Chúa đã tha cho ta món nợ khổng lồ''.
- Siêng năng đọc và suy niệm Lời Chúa, luôn tự nhủ trong lòng mỗi khi bị xúc phạm : tha thứ sẽ được tha thứ.: ''Không có hoà bình, nếu không có công lý, Không có công lý, nếu không có thứ tha (G.P.II)
BÀI 7
NGHĨA.
ƠN NGHĨA NGHĨA VỤ: LÒNG BIẾT ƠN
Một trong những giá trị cơ bản, bản chất nhất để một người xứng đáng làm người, đó là: lòng biết ơn, sống có tình nghĩa.
Đức Cha Bùi Tuần đã có những nhận định và suy tư về lòng biết ơn như sau: Tôi thích chó vì chó rất biết ơn chỉ cho nó một miếng xương, nó cũng tỏ ra biết ơn. Nó nhìn triều mến, ngoe nguẩy đuôi, quấn quít người cho. Càng được cho, nó càng biết ơn, nó tự động bảo vệ chủ, nhà cửa và đồ đạc của chủ. Nhiều người không biết ơn bằng chó đời là thế! Kẻ muốn được ơn thì quá nhiều, kẻ biết ơn thì quá ít. Đếm người biết ơn dễ đếm hơn người vô ơn vì số này quá lớn. Có những con cháu vô ơn, có những học trò vô ơn, có đủ thứ vô ơn (nói với chính mình)
1. Biết ơn là gì?
Lòng biết ơn là hiểu biết, là bày tỏ điều mình nhận biết về giá trị vật chất và tinh thần của những điều tốt, những tấm lòng, những món quà mà người khác đã trao tặng, đã giúp đỡ mình.
2. Bổn phận biết ơn.
Làm ơn có thể không đòi trả nghĩa, những kẻ đã chịu ơn phải có bổn phận đền đáp. Cho đi không mong nhận lại, nhưng kẻ đã nhận phải có bổn phận phải đáp trả bằng sự biết ơn.
Như vậy, có thể nói được: Kẻ chịu ơn phải có bổn phận biết ơn, và người làm ơn có quyền được biết ơn.
Bổn phận biết ơn phải tương xứng với giá trị biết ơn đã nhận, nếu không thực hiện tương xứng, thì cũng phải tỏ ra bằng lời cám ơn hoặc bằng cử chỉ chứng tỏ mình hiểu biết ơn.
3. Giá trị của ơn nghĩa.
Vật chất, tinh thần, thiêng liêng.
Thí dụ: Có người tặng cho chiếc áo đẹp, giá 100,000 đồng
- Giá trị vật chất: Được tính bằng giá trị mua món quà.
- Giá trị tinh thần: là biểu lộ tình thương, mang ý nghĩa sự cho đi phần nào nơi người tặng( thời giờ, suy nghĩ, tình thương).
- Giá trị thiêng liêng: Quà tặng đó có thể tặng cho người khác nhưng đã có sự lựa chọn cho chính tôi, với ý hướng mong muốn cho tôi nên tốt, khích lệ tôi thăng tiến trong cuộc sống.
4. Lợi ích của biết ơn:
- Biết ơn để xứng đáng làm người hơn ( có giáo dục).
- Biết ơn để xứng đáng với ơn đã lãnh nhận.
- Biết ơn để xứng đáng để nhận thêm các ơn khác.
5. Luyện tập lòng biết ơn.
- Nên nhớ, ta sống trong tình liên đới: Đời tôi hiện nay là do biết bao nhiêu công ơn đã lãnh nhận và sẽ còn hưởng nhờ bao nhiêu ơn khác, do người khác nâng đỡ, yêu thương, cung cấp
- Đừng tưởng mình không chịu ơn ai! Con người của ta, từ vật chất đến tinh thần, đã, đang và sẽ được xây dựng bằng biết bao công ơn của người khác.
- Đừng tưởng rằng mình không mắc nợ ai! Tiền của vật chất, có thể trả được, nhưng ân nghĩa, tình thương, những giọt mồ hôi, nước mắt những gì thiêng liêng cao quý, làm sao cho hết, trả cho đúng được?
- Hãy tập nói lời cám ơn mỗi khi được giúp đỡ và cố gắng bày tỏ lòng biết ơn qua thái độ tôn trọng, yêu mến, thảo hiếu với người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ, giúp đỡ ta hãy biên thư, gởi thiệp, tặng quà, cám ơn đến những thân nhân và ân nhân gần xa.
- Hãy bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên Chúa, ta sẽ dễ dàng biết ơn người khác, và nhờ sự biết ơn người khác, ta sẽ tăng lòng biết ơn Chúa. Hai tâm tình ấy sẽ làm cho cuộc sống hằng ngày của ta thêm phong phú, vui tươi và hạnh phúc hơn.
LỄ
Lễ là lễ độ, lễ phép: Là những hành vi nhã nhặn, lịch sự, khiêm tốn, thể hiện nơi người có văn hóa, giáo dục, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính mình trong cách cư xử giao tiếp. Lễ phép, lịch sự là những qui định giúp cuộc sống giữa người với người được êm đẹp. Nền tảng của phép lịch sự là công bằng bác ái và cái hồn của lịch sự là sự chân thành. (Xem phần 1. Người lịch sự).
BÀI 8
TRÍ
Khôn Ngoan Sáng Kiến Óc Tổ Chức
I. Khôn Ngoan.
Khuôn ngoan, có nghĩa là không ngu.
Người khôn ngoan là có bộ óc sáng suốt, biết nhận xét khách quan, suy nghĩ chính chắn, phán đoán chính xác, biết tiên liệu vấn đề. Muốn được khôn ngoan sáng suốt, ta cần tập luyện biết tiên liệu và óc thực tế.
1. Biết tiên liệu.
a. tiên liệu là gì?
- Đó là việc nhận định trước khi bắt tay làm việc: Việc gì, mục tiêu nào nhằm đạt đến, phương tiện nào chuẩn bị, khó khăn nào xảy đến, chướng ngại nào vượt qua, kết quả nào xảy ra?
Ví dụ: Việc xây nhà, công tác xã hội, việc học tập
b. Lợi ích.
- Làm việc gì có chuẩn bị trước thì thành tựu, không phòng xa thì hư hỏng. Lời nói thì chuẩn bị trước thì khống vấp váp, làm việc tính trước thì không thất bại, nết hạnh có tính trước thì không lỗi lầm. (sách Trung Dung)
- Không biết lo xa ắt phải sầu gần (sách Luận Ngữ).
c. Tập tuyên liệu.
- Biết mình sắp làm việc gì, rồi mới bắt tay làm việc.
- Phải điều tra, trước khi đầu tư vào việc.
- Phải biết phương pháp: Xem, Xét, rồi làm.
2 Sống thực tế.
a. Người thực tế.
- Đó là người thấy rõ, thấy đúng, thấy xa về một người, một việc.
- Là người biết mình, biết khả năng và giới hạn của mình.
- Là người biết nhìn toàn thể sự vật, một cách tổng quát, toàn bộ.
b. Cần thiết có óc thực tế.
- Trong học tập: Ta phải chú trọng đến phần thực hành, vì hiểu lý thiết mà chưa thực hành là chưa hoàn thành.
- Biết dùng cái không tránh được để tạo ra cái hữu dụng (Talleyrands).
- Luyện tập thấy rõ, thấy đúng, thấy xa, vì đó là 3 nét đặc thù của người thực tế.
- Sống và làm việc cần có phương hướng đúng.
II. Sáng Kiến (Biến Báo)
1. Sáng kiến là gì?
- Đó là ý tưởng mới lạ và độc đáo do chính mình nghĩ ra, không bắt chước ai.
- Người có óc sáng kiến luôn suy nghĩ, luôn tìm tòi, khám phá, phát minh ra những điều mới lạ.
2. Nền tảng của sáng kiến.
- Do quan sát: Để thấy, để biết sự kiện.
- Do trí thông minh: Biết suy nghĩ, đặt vấn đề.
- Do kinh nghiệm: Nhờ từng trải, rút được kinh nghiệm, tạo mới.
3. Phát huy sáng kiến.
- Phải tự tin, nghĩa là cố gắng tìm hiểu để tự giải quyết.
- Học tập quan sát, thu thập kiến thức khoa học, thông tin kỹ thuật, theo dõi tiến bộ khoa học để cải thiện sinh hoạt.
- Rút kinh nghiệm của người để học cái hay, tìm cái mới.
- Luôn vượt khó, bằng cách tạo phương tiện thích ứng mới.
Luôn cải tiến việc học bài, làm bài, đường lối làm việc.
III. Óc Tổ Chức Làm Việc Có Phương Pháp.
1. Định nghĩa.
- Tổ chức: Là sắp đặt cho có trật tự, nề nếp, thể thức.
- Theo nghĩa ứng dụng: Tổ chức là sắp đặt công việc gì cho có đủ bộ phận, ngăn nắp hầu dễ tiến hành. Nói cách khác, tổ chức là làm sao cho công việc đỡ tốn thời gian, tiền bạc, nhân lực mà thu hoạch thành quả tối đa.
2. Hai lối tổ chức.
a. Tổ chức theo kinh nghiệm: đó là lối tổ chức kiểu cha truyền con nối người trước để lại người sau. Kiểu nông dân
b. Tổ chức theo khoa học: Đó là môn học dạy ta tìm kiếm những phương pháp chính xác, hợp với khoa học, để làm công việc nào đó, dù lớn hay nhỏ, một cách ích lợi, đỡ tốn giờ, tốn tiền, tốn sức.
3. Phương pháp tổ chức khoa học.
Tổ chức theo khoa học gồm 6 khâu.
a. Chuẩn bị.
- Dự tính: Xác định công việc, nhắm mục tiêu, tìm phương tiện, xem nhân sự.
- Nên đặt các câu hỏi: Tôi muốn làm gì? Nhằm để làm gì? Tôi đang có gì? Tôi sẽ làm thế nào? Tôi sẽ làm được gì?
- Muốn chuẩn bị tốt, cần có óc thực tế và tiên liệu công việc, đừng khuếch đại và cũng đừng giảm thiểu, keo kiệt.
b. Phân công, phân nhiệm.
- Cần hiểu khả năng của mình và của người cộng tác. Đừng ôm đồm nhiều việc. Người có óc tổ chức cần biết phân công, phân nhiệm sao cho đúng người, đúng việc phù hợp với khả năng, sở thích của từng người.
- Sự phân công phân nhiệm cần chính xác, rỏ ràng, xác định: Ai? với ai? việc gì? Bao lâu? Bao nhiêu? Khi nào? Thế nào ?...
c. Hệ thống hóa. ( vẽ sơ đồ tổ chức)
- Là xếp đặt qui định rõ rệt các chức vụ và nhân viên trong khuôn khổ kỷ luật , trật tự, nhằm đảm bảo năng suất cá nhân và tập thể.
- Việc hệ thống hóa giúp đỡ cho mỗi người biết vị trí và vai trò của mình trong tập thể, trách nhiệm và bổn phận nào mình phải chu toàn, ai là người chịu trách nhiệm cuối cùng nếu vì lý do nào đó người lãnh đạo vắng mặt, công việc vẫn hoạt động.
d. Phối trí.
- Là nhiệm vụ tất yếu của người lãnh đạo, vì sau khi phân công, phân nhiệm, phải nối kết họ với nhau, để năng lực hoạt động cá nhân đều qui về thành công chung.
- Hai công tác phối trí: Một mặt gia tăng sự nổ lực cá nhân, nhờ đôn đốc, kiểm soát, một mặt liên kết năng suất cá nhân lại thành năng suất tập thể, nếu không sẽ mất quân bình.
đ. Kiểm soát.
- Là duyệt xét xem công việc tiến hành có đúng theo chương trình hoạt động không?
- Là đối chiếu kết quả thu hoạch với mục tiêu đề ra ban đầu.
- Duyệt xét để tìm thấy u khuyết điểm, sai trái mà điều chỉnh kịp thời, hoặc phát huy sáng kiến mới.
f. Chỉ huy.
- Là điều hành, lèo lái công việc, thúc đẩy mọi hoạt động đi đến thống nhất và thành công.
- Là người lãnh trách nhiệm cuối cùng của toàn công việc.
- Người chỉ huy cần: có trí thông minh, nhạy bén, có trí cương dũng, quyết tâm đi đến mục đích, có đắc nhân tâm bằng tình cảm tao nhã, tế nhị để thu phục lòng người.
BÀI 9
TÍN
Tự Tin Trung Tín Trách Nhiệm
I. Tự Tin.
1. Tự tin là gì?
- Là tin vào khả năng và sức lực của mình.
- Người tự tin: Là người đã suy nghĩ và lãnh nhận công việc nào, thì vững chí, an tâm tin mình sẽ thực hiện được việc đó.
- Người thiếu tự tin thì cảm thấy mình bất tài, vô duyên, vụng về, rồi tự thâm tâm nghĩ rằng mình không thể thành công được. Chưa làm đã sợ thất bại!
2. Quan trọng của tự tin.
- Cần phân biệt: Tự tin không phải là tự phụ, tự đắc hay tự mãn, vì bộ 3 này là những tính xấu do kiêu căng cần loại bỏ.
- Tự tin để dám nghĩ, dám làm: Người tự tin một khi đảm nhận nhiệm vụ, họ đặt niềm tin vào hai lãnh vực, một bên là khả năng hiện có, một bên là nhiệm vụ được ủy thác. Khi công việc bắt đầu, họ tận dụng tài năng, ý chí, vượt khó và nổ lực tiến đến thành công.
3. Rèn luyện tự tin.
a. Về mặt tự nhiên.
- Dùng tự kỷ ám thị mà tiêu diệt tự ti mặc cảm: Ông kia bà nọ nên thánh, tại sao tôi không? (St. Augustin). Thay vào ông kia bà nọ làm được việc, tại sao tôi không?
- Muốn tự tin trong việc lớn, hãy tập tự tin trong việc nhỏ hằng ngày, nghĩa là tập trung lượng định công việc, xem khả năng của mình, tìm phương thế thích hợp, rồi bắt tay vào làm việc. Nhờ thành công việc nhỏ, thêm tự tin, kinh nghiệm để làm việc lớn.
- Lòng tự tin cũng hay lây, ta nên tiếp xúc với người có bản lãnh, tự tin, dạng dĩ, để ta cũng đạt được sự tự tin.
b. Về mặt siêu nhiên.
- Tự tin cũng đừng quên Tin vào ơn Chúa, hãy tin lời Chúa Ơn ta đủ cho ngươi Chúa sẽ ban ơn hiện sủng để trợ giúp ta chu toàn sứ mệnh một cách tốt đẹp. Ơn gắn liền với chức vụ: grâces détat. Ta chỉ cần cộng tác với ơn Chúa là thành công.
II. Trung Tín.
1. Ý nghĩa.
- Là trung thành tuân giữ lời hứa.
- Là trước sau như một, không thay lòng đổi dạ với người mình kết ước, cho dù gặp biến cố, trắc trở.
2. Trung tín đối với ai?
a. Đối với Thiên Chúa: Ngày chịu Rửa tội, ta đã thời hứa từ bỏ Satan và tuyên tín vào Thiên Chúa Ba Ngôi.
b. Đối với Giáo Hội: Trung tín với Giáo Hội, qua việc gắn bó với Đức Giáo Hoàng, các vị chủ chăn và gắn bó với nhau trong tình huynh đệ: Chỉ một Chúa một đức tin, một phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha. Sự trung tín còn đòi hỏi phải tích cực góp phần xây dựng và phát triển giáo hội trong nếp sống đạo đức công bằng, bác ái.
c. Đối với tha nhân: giữ lời hứa.
Vài qui tắc giữ lời hứa:
- Trước khi hứa phải suy nghĩ cẩn thận, phải xem mình có khả năng thi hành hay không. Tuyệt đối không nên vì vui miệng, nên hứa lung tung, để rồi sau đó không giữ lời
- Đã hứa thì phải giữ, dù chịu thiệt thòi người uy tính phải tiết kiệm lời hứa, và một khi đã hứa thì luôn giữ đúng lới.
d. Trung tín trong việc bổn hận.
Ai trung tín trong việc nhỏ sẽ trung tín trong việc lớn
III. Tinh Thần Trách Nhiệm. dám làm dám chịu
1. Ý nghĩa.
a. Trách nhiệm là gì?
- Là phần việc được giao cho (hoặc coi như được giao), phải đảm bảo làm hoàn thành, và gánh chịu mọi hậu quả của việc đó.
- Là sự ràng buộc, bảo đảm đúng với lời nói, hành vi của mình, nếu sai trái, phải gánh chịu mọi hậu quả (tự điển Tiếng Việt, Thanh nghị, Tr 1228).
b. Ý thức trách nhiệm.
- Là hiểu biết nhiệm vụ vào việc làm của mình sẽ gây hậu quả nào cho chính mình và cho người khác.
- Từ đó, biết cân nhắc, chọn lựa kĩ lưỡng trước khi bắt tay vào việc và cố gắng chu toàn tốt đẹp nhiệm vụ được giao phó.
c. Tinh thần trách nhiệm.
Là tinh thần của người được giao phó một nhiệm vụ hay khi đã quyết định làm một việc gì, thì cố gắng chu toàn. Họ thi hành công tác cách có suy nghĩ, có lương tâm và dám nhận lãnh mọi hậu quả, dù thành cong hay thất bại, không thoái thác trốn chạy, hay đổ lỗi cho người khác.
2. Người lỗi trách nhiệm.
- Người sợ trách nhiệm: Là người nhút nhát, chưa dám bắt tay vào làm, không dám làm mà dám xúi.
- Người tắc tránh: Là thi hành nhiệm vụ cách lếu láo, không chuyên tâm, phải chú ý, không gắng sức là đến nơi đến chốn.
- Người đào nhiệm: Là người lãnh nhiệm vụ, rồi vì một lý do nào đó không chính đáng, lại bỏ nhiệm vụ, lý do có thể vì tình, tiền
- Người phản trắc: Là người hèn kém, lãnh nhiệm vụ, không khắc phục khó khăn, nên gặp thất bại, rồi đổ thừa, đổ lỗi cho người khác.
3. Sự lợi hại.
- Bất cứ tổ chức nào, dù lớn hay nhỏ, mỗi phần tử cần ý thức trách nhiệm, nghĩa là lo chu toàn phận sự được giao, cách hoàn hảo, thì tổ chức đó sẽ tiến hành trật tự và thu hoạch thành công.
- Nếu cấp trên thi hành nhiệm vụ, còn cấp dưới thì tắc trách hay đào nhiệm, hoặc cả cấp trên lẫn cấp dưới đều vô trách nhiệm, thì tổ chức đó luôn thất bại, đi đến đổ vỡ.
4. Người Kitô hữu có trách nhiệm nào?
Người Kitô có rất nhiều trách nhiệm:
Trách nhiệm trước lương tâm và đời của mình.
Trách nhiệm làm chứng cho Đức Kitô, bằng đời sống tốt.
Trách nhiệm trước những người nghèo khổ.
Trách nhiệm trong cuộc sống chung huynh đệ, hòa bình.
Trách nhiệm phải dùng cuộc đời trần gian để: Phụng sự Thiên Chúa; nâng đỡ người nghèo khổ vật chất, tinh thần; để làm cho sự sống chiến thắng sự chết, tình yêu thắng thù hận.
BÀI 10.
CÔNG DUNG NGÔN HẠNH
CÔNG DUNG NGÔN HẠNH được coi là những đức tính dành riêng cho người phụ nữ Việt Nam. Nó là thước đo phẩm hạnh, là tiêu chuẩn tuyệt vời nơi người phụ nữ lý tưởng mà mọi người hằng mơ ước.
I. CÔNG.
Công việc, Nữ Công Gia Chánh:
- Công là gì? Được hiểu là công việc, những việc trong nhà chính yếu là người phụ nữ cần biết nữ công gia chánh, đó là sự khéo léo của đôi tay sáng kiến của bộ óc, thành thạo khi thực hiện, và trật tự, sạch sẽ khi hoàn tất.
- Những công việc nào? Đó là việc nội trợ như: Nấu nướng và trình bày các món ăn. Việc thiêu may quần áo. Việc quét dọn sắp xếp nhà cửa trật tự, sạch sẽ. Việc trang trí tranh ảnh, chưng bông hoa, cây kiểng. Việc xã hội nghề nghiệp.
- Điều kiện: Muốn đạt được sự khéo léo đòi hỏi người phụ nữ cần có kiến thức cơ bản về công việc bếp nút, về thẩm mỹ, về thêu may, được học hỏi thường xuyên và thực hành thường ngày.
- Giá trị: Do thiên chức làm mẹ, Thiên Chúa phú bẩm nơi người phụ nữ bản tính cần mẫn, siêng năng, quán xuyến từng chuyện nhỏ đến chuyện lớn trong nhà (nội tướng) vào một nơi, chỉ cần nhìn thoáng là biết có bàn tay phụ nữ hay không, đó chính là do công của người phụ nữ mà người khó có được.
II. DUNG:
Dung nhan, sắc đẹp.
- Dung là gì? Dung nhan, sắc đẹp nơi gương mặt nói riêng và được hiểu là sắc đẹp ngoại hình của người phụ nữ. Dung cũng được gắn liền với dáng điệu đi đứng uyển chuyển, nhẹ nhàng.
- Thế nào là đẹp? tùy năng khiếu thẩm mỹ và văn hóa văn tộc, tùy thời đại mà vẽ đẹp người phụ nữ được đánh giá theo các tiêu chuẩn quan điểm khác nhau: mập, ốm, cao , lùn, khỏe
- Làm đẹp thế nào? Nên làm đẹp cả bề ngoài lẫn bên trong tâm hồn (hạnh). Làm đẹp bề ngoài do trang điểm theo nguyên tắc: nghệ thuật trang điểm là trang điểm nổi không ai biết mình trang điểm. ngày nay, quan niệm phụ nữ đẹp không chỉ ở sắc đẹp mà còn có sức khỏe tốt và sống vui.
- Giá trị sắc đẹp phụ nữ: Phái nữ được mệnh danh là phái đẹp có câu nói không có người phụ nữ xấu, chỉ có những người phụ nữ không biết làm đẹp. Thiên Chúa đã tạo dựng người phụ nữ với ngoại hình nhỏ nhắn, dáng dịu dàng, tươi đẹp như những bông hoa biết cười nhằm để tạo cho cuộc sống chung trở nên nhẹ nhàng, thổi mái, vui tươi. Tuy nhiên, nhan sắc là thứ mau phai tàn theo năm tháng, vì thế, người phụ nữ khi làm đẹp, cần biết trang điểm thêm sự duyên dáng, tinh tế, để sắc đẹp có giá trị bền lâu nơi người gặp gỡ.
III. NGÔN
Ngôn ngữ lời nói.
- Ngôn là gì? Là ngôn từ, ngôn ngữ, được hiểu chung là những lời nói, giọng nói, cách nói của người nữ.
- Nguyên tắc về ngôn từ: Nói đúng nơi, đúng việc, đúng người, đúng sự thật. Nói với lời lẻ lịch sự, chân thành, khiêm tốn, lễ phép. Tóm lại: Nói có văn hóa, giáo dục.
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe!
- Nên tránh: Đụng đâu nói đó, nói xía vào mọi chuyện của bất cứ ai, không coi trọng trên dưới, trước sau ăn nói bạt mạng, phát ngôn bừa bãi, nói lẽo mép, nói giai như đĩa đói, nói hành nói xấu, nói láo nói xạo, nói tục nói phét
- Giá trị: Lời nói là quà tặng Chúa ban cho con người để truyền thông tư tưởng, tình cảm, để giúp hiểu nhau, an ủi, chia sẻ, cảm thông với nhau trong cuộc sống. Chúa còn ban cho chất giọng người nữ thanh cao, nhẹ nhàng để xoa dịu nổi đau thân thế. Khi sử dụng không tốt lời nói sẽ trở thành con giao hai lưỡi, hại người, hại mình.
- Tập nói chuyện: Quyết tâm trau dồi nhân cách, thể hiện nơi giọng nói, cách nói chuyện, lễ phép, dịu dàng, nói lời xây dựng, tránh những lời dối trá, nịnh hót, phê bình, chỉ trích, noi xấu nhau. Hãy tập biết cách nói chuyện, gợi chuyện và nhất là biết nghe nhiều hơn nói
IV. HẠNH.
Hạnh kiểm, tiết hạnh.
- Hạnh là gì? Là hạnh kiểm, tiết hạnh gồm những nét đẹp nới tâm hồn của người nữ như: Nết na, duyên dáng, dịu dàng, đoan trang, thùy mị, vị tha, chung thủy, chân thành, vui tươi
- Sự duyên dáng, dịu dàng: Đó là phẩm tính đặc biệt dành cho người nữ thôi đàn ông bản lĩnh, đàn bà duyên dáng. Cái duyên là một thứ sắc đẹp tâm hồn khiến cho người nữ trở nên hấp dẫn phong phú cho cuộc sống chung. Cái duyên người nữ bao gồm cả các tính tốt như: nết na, đoan trang, thùy mị, chân thành, vui tươi, quan tâm giúp đỡ người khác. Người nữ mà bị coi là vô duyên thì kể như là quá tệ có thể bị ế người nữ được coi là duyên dáng là họ đã tạo được thiện cảm, ấn tượng đẹp nơi người họ gặp gỡ.
- Vị Tha: Cũng là đức tính thiên phú tiêu biểu của người phụ nữ, vị tha là biết quan tâm, lo lắng và phục vụ cho người khác, muốn làm vui lòng người khác. Họ thể hiện lòng vị tha qua việc chăm sóc chu đáo, tinh tế, qua việc hy sinh tự nguyện, qua công việc nội trợ đảm đang. Tính vị tha làm cho người nữ có lòng thương người, đọng lòng trắc ẩn trước những nỗi đau khổ nơi thể xác và tâm hồn người khác, nơi họ sẵn sàng ra nước mắt để cảm thông, chia sẽ, an ủi
- Chung thủy: Đó là son sắc một lòng, trung thành giữ đã lời hứa. Sự chung thủy làm cho người nữ kiên tâm chịu đựng, nhịn nhục, chịu thiệt thòi để cho gia đình êm ấm, hạnh phúc. Sự thủy chung gìn giữ người nữ không thay lòng, đổi dạ, trước sau như một
BÀI 11
ĐỐI THOẠI
I. Ý Nghĩa Đối Thoại.
1. Đối thoại là gì?
Đó là cuộc gặp gỡ, nói chuyện, trao đổi tư tưởng, tình cảm, ý kiến cho nhau, nhất là biết nói và biết nghe những gì đang chất chứa, đang xảy ra, thậm chí trong những ngôn ngữ không lời, những gì ở giữa và ở sau lời nói.
2. Nền tảng của đối thoại.
Chính là sự tôn trọng tình người.
- Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trên chuyến bay từ Rôma sang Habana thăm Fidel Castro, Tổng thống nước Cuba, các ký giả coi đó như là cuộc đối đầu giữa thiên thần và ma quỉ, nhưng ĐGH khẳng định: Đây chỉ là cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa hai con người.
3. Thế nào là đối thoại thật sự?
Theo Gregory Bateson, có 3 điều kiện thiết yếu hình thành cuộc đối thoại thật sự:
- Chấp nhận ngồi lại với nhau.
- Chân thành trình bày các quan điểm của mình.
- Lắng nghe, tìm hiểu, trân trọng những khác biệt của nhau, không bắt ép đối phương thay đổi.
4. Thế nào để cuộc đối thoại hữu ích?
Cần có 3 điều căn bản:
- Biết mình, biết người: Tôi muốn nói gì? Tôi nói với ai?
- Biết tìm chân lý: Tôi đã và đang biết gì? Tôi cần biết những gì?
- Biết trình bày và đón nhận quan điểm: Tôi cần nói và nghe thế nào? Tôi nhận xét quan điểm của họ thế nào? Điều tôi đã biết, tôi thêm xác tín kiện toàn. Điều hay, mới tôi chưa biết, thì tôi cần đón nhận cách khiêm tốn, can đảm.
II. Tầm Quan Trọng.
- Tinh thần đối thoại: Là điều rất cần thiết cho đời sống của Hội Thánh thời nay, ĐGH Gioan Phaolô II được mang danh là Con người của đối thoại. Đối thoại là con đường mà Chúa Giêsu đã dùng để mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Hơn bao giờ hết, con người của thế giới hôm nay khao khát được đối thoại. Các cộng đoàn tu rất cần tinh thần đối thoại.
- Bài học đối thoại: Là một bài học rất khó, nhưng là một bài học thú vị hữu ích. Độc thoại dài là điều mà con người thời nay không ưa thích. Tinh thần độc thoại làm cho con người thời đại chán ngán. Ta cần học biết đối thoại.
- Vấn đề đối thoại là một vấn đề gay go, rộng lớn và phức tạp trong mọi lĩnh vực sống: chính trị, tôn giáo, kinh tế, xã hội, văn hóa, Dòng tu Trong phạm vi bài này, ta chỉ nêu lên vài khía cạnh đối thoại trong lãnh vực nhân bản và tu đức.
III. Lý Do Phát Sinh Đối Thoại.
1. Nhu cầu gặp gỡ đối thoại.
Con người được mang danh là con vật xã hội, do tính liên đới, con người cần gặp gỡ và đối thoại. Họ cần tìm đến nhau, trao đổi kinh nghiệm, đối chiếu quan điểm, chia sẻ cuộc sống vui buồn để được phong phú hơn trong cuộc sống.
2. ý thức về giới hạn và ước muốn hoàn thiện.
Chỉ có ý thức về giới hạn mới làm nảy sinh đối thoại. Con người tự mãn không có khả năng đối thoại, chỉ biết độc thoại. Con người đối thoại là con người cầu tiến, muốn nhận ra điều sai để sửa chữa, nhìn thấy khiếm khuyết để bổ sung. Con người tự mãn chỉ có thể tranh luận hay bắt bẻ, không có khả năng đối thoại.
3. Tinh thần xây dựng lợi ích chung:
muốn tìm giải pháp tốt nhất, muốn cho việc chung được tốt đẹp, cần thiết phải có đối thoại. Chỉ những người có tinh thần công ích mới có khả năng đối thoại. Những người ích kỷ không đối thoại bao giờ.
4. Tìm hiểu một con người:
Có những lúc cần phải hiểu kỷ một con người và con người không chỉ là đối tượng để điều tra hay thẩm vấn. Vì thế, cần tìm hiểu con người bằng con đường đối thoại chân thành.
5. Thao thức tìm kiếm chan lý:
Không ai làm chủ chân lý, nhưng cần phải tìm kiếm chân lý. Đối thoại là cùng nhau đi tìm chân lý. Ánh sáng chân lý chỉ chiếu dọi cho những tâm hồn cởi mở và thao thức tìm kiếm. ( x. Nicôđêmô)
6. Thao thức mang ơn cứu độ đến cho người khác.
Bận tâm rao giảng Nước Trời. Đó là những đối thoại, những lần gặp gỡ siêu nhiên. Đối với người tông đồ của Chúa, mỗi lần gặp gỡ tha nhân là mỗi lần mang lai ân sủng cho cả hai bên. Gặp gỡ và đối thoại là con đường của ân sủng. Mọi Kitô hữu điều là trung gian của ân sủng Thiên Chua cho người khác.
IV. Nghệ Thuật Đối Thoại.
Đối thoại là một nghệ thuật và nghệ thuật thì bao giờ cũng sáng tạo, nhưng nghệ thuật cũng có vài thể loại và tuân theo một vài qui luật. Ta có thể nêu 5 bước diễn tiến của Đối Thoại.
1. Bước một: Gặp gỡ trong mến tin.
- Đối thoại bao giờ cũng khởi đầu từ một thái độ nội tâm sự mến tin đối với người mình gặp gỡ.
- Bắt đầu đối thoại là bắt đầu mở cửa tâm hồn, mở con tim để đón nhận người khác, chính vì thế mà đối thoại đôi khi khởi sự bằng một nụ cười, bằng một ánh mắt chứa chan tình thương mến.
- Thái độ hoài nghi, thiếu tin tưởng và nhất là thánh kiến xấu ngay từ đầu, là chướng ngạy cho cuộc đối thoại, tương giao không thể thiết lập được giữa hai người thiếu tin tưởng lẩn nhau.
2. Bước thứ hai: Gợi chuyện và Chờ đợi.
- Gợi chuyện là một nghệ thuật đòi hỏi sự tế nhị đồi đa. Có những cách gợi chuyện rất vụng về, làm cho người đối thoại bực mình ngay từ đầu. Khi gợi chuyện, cần sự nhẹ nhàng và tôn trong người đối thoại. Cách gợi chuyện không được gượng ép, nhưng phải biểu lộ sự thiết tha muốn thiết lập tương giao
- Người gợi chuyện phải biết chờ đợi, không được hấp tấp. Muốn thiết lập tương giao phải có thời gian. (x. Phụ nữ bên bờ giếng)
3. Bước thứ ba: Nghe và nói: Nghe khi nào? Nói lúc nào?
- Người đối thoại phải là người biết lắng nghe, không chỉ bằng đôi tai, nhưng với cả tâm hồn, cả trái tim. Thái độ lắng nghe làm cho ta trở nên rất tinh ý. Ta nghe khi người đối thoại muốn nói và nói khi thấy họ muốn nghe.
- Người không biết lắng nghe thì không thể đối thoại được. Nghe cách lãnh đạm, dửng dưng, cũng không đối thoại được. Nghe để bắt bẻ là hành vi đối đầu chứ không đối thoại. Cần nghe cách chăm chú và nghe với cảm tình, dù tha nhân đôi khi nói điều không đúng như ý ta. (x. Chuyện Nicôđêmô)
- Phải nói khi người đối thoại muốn nghe hay đang chờ đợi. Một sự thinh lặng không đúng lúc sẽ làm cho cuộc đối thoại trở nên nặng nề. Dù ta ích nói bao nhiêu đi nữa, hãy cố gắng trả lời câu hỏi và nói đôi điều khi thấy người khác chờ đợi. Nếu ta không nói gì thì người đối thoại khó tiếp tục câu chuyện với ta.
- Bước thứ ba này được coi là bước chính yếu của đối thoại, ít nữa là về phương diện nội dung. Những lần nghe và nói cần xen kẽ nhau, phải biểu lộ được thiện chí muốn lắng nghe, trao đổi tìm hiểu
4. Bước thứ tư: Biểu lộ lập trường.
- Không phải lúc nào ta cũng biểu lộ lập trường, nhất là trong những chuyện không quan trọng. Khẳng định lập trường trong những việc nhỏ nhặt đôi khi lại có hại.
- Có những lúc ta không thể không nói ra lập trường, quan điểm của mình, dù lập trường ấy khác biệt với quan điểm của đối thoại.
- Cách biểu lộ quan điểm của ta cần từ tốn, khiêm nhường, không áp đặt. Dù không đồng ý với quan điểm của người đối thoại, ta vẫn tán đồng con người họ, vẫn đón nhận, yêu thương tôn trọng con người ấy.
- Có khi phải từ chối đề nghị, không chấp nhân tư tưởng của người đối thoại, nhưng không bao giờ ta được khước từ, khinh dể bản thân con người ấy. ( x. lui đi Satan!)
- Bước thứ tư này cũng có thể là lúc các người đối thoại cố gắng thống nhất ở những điểm chung và không để cho rạn nứt vì những điểm bất đồng.
5. Bước thứ năm: Lời nói tỏ lòng biết ơn.
- Đó là biểu lộ sự sung sướng đã được trải qua một khoảng thời gian trao đổi, tiếp xúc. Phải coi cuộc gặp gỡ như một hồng ân, một cơ hội mang lại niềm vui và nhiều lợi ích.
- Trong phần cuối này, ta biểu lộ ước mong gặp lại người đối thoại. Cuộc đối thoại kết thúc với một thái độ nội tâm giống như bước khởi đầu, đó là thái độ yêu thương và tin tưởng. Giờ đây tình yêu còn đậm đà hơn và sự tin tưởng sau sắc hơn trước. (x. Đàn bà ngoại tình)
V. Bài Học Đối Thoại.
Một trong những cách mà Thánh Thần thích dùng nhất là con đường đối thoại. Người Kitô hữu tập đối thoại trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần. Cần nhận ra giá trị bài học về đối thoại.
1. Trước hết, muốn đối thoại, ta cần phải học sẵn sàng từ bỏ cái tôi quan trọng của mình, bằng thái độ tin tưởng. Muốn đồi thoại, là chấp nhận ngay từ đầu không sợ thiệt thòi, không sợ bị lừa, bị mất mát. Nếu ngay từ đầu mà coi bản thân là quan trọng, thì cuộc đối thoại chắc chắn sẽ thất bại. Đối thoại phải là một hành vi hoàn toàn hướng tha. Người quan trọng là tha nhân, chứ không phải là tôi.
2. Đối thoại đòi hỏi tinh thần sẵn sàng đón nhận người khác, xem họ ngang bằng với mình, đón nhận ý kiến, tư tưởng của người khác, mặc dù có khác biệt, nhưng có thể bổ túc và thêm lợi ích cho mình.
3. Đối thoại sẽ tập cho con người biết lắng nghe cách chân thực, biết để cho lời của người khác đi vào trong tâm hồn của mình Đối thoại không là chiếm đài, không tranh nhau nói, nhưng là cuộc trao đổi đầy kính trọng, một sự nhường nhịn lẫn nhau, một tự nguyện thinh lặng và đón chờ. Đôi khi cả hai bên cùng thinh lặng và trong thinh lặng đó, họ lắng nghe tiếng nói và lời giải đáp chung.
4. Đối thoại tập cho người bớt chủ quan. Người muốn đối thoại phải biết coi mình là nhỏ bé trước sự thật. Nếu chua biết rõ sự thật, ta cần khiêm nhường chờ đợi và tìm hiểu. Việc đối thoại không cho phép con người tự mãn, nhưng bắt con người phải chờ đợi. Sự chờ đợi là thái độ của người khôn ngoan, luôn tự coi mình còn khiếm khuyết.
5. Cuối cùng: cho đi và giữ lại trong lòng, là bài học hết sức quan trọng rút ra từ các cuộc đồi thoại đúng nghĩa:
a. Cho đi những gì?
- Không nên nghĩ rằng ta phải có rất nhiều điều để cho đi khi đối thoại. Một người chỉ cho đi mà không biết lãnh nhận, là con người không biết đối thoại. Nói nhiều quá, cho nhiều quá có thể làm cho người khác ngán sợ và không muốn gặp lại lần nữa.
- Điều mà tha nhân chờ đợi khi đối thoại với ta không là một mớ kiến thức, nhưng có khi chỉ là một lời khuyên, một ý kiến. Quan trọng hơn, là tha nhân muốn gặp gỡ ta. Chính vì thế, trong đối thoại, ta phải biết cho đi chính bản thân mình. Đối thoại là một hành vi tự hiến.
- Đời sống cầu nguyện có thể là mẫu mực cho đối thoại trong cuộc sống. Cao điểm của cầu nguyện là đối thoại tự hiến với Đấng yêu mến chúng ta. Do đó, đối thoại thực sự tự nó tạo ra một bầu khí vừa thiêng liêng, vừa ấm cúng, trong đó những người đối thoại tự hiến bản thân mình cho nhau.
b. Giữ lại những gì?
- Có những người rất hời hợt, sau khi tiếp xúc với người khác hằng giờ, ra về không giữ lại gì cả. Có lẽ vì trong khi đối thoại, họ đã không nghe được gì cả. Cuộc đối thoại của họ chỉ là độc thoại dưới hình thức đối thoại.
- Người khác, khi ra về chỉ giữ lại trong lòng những lời cay đắng. Họ nghiền ngẫm những lời ấy và chúng trở thành độc dược giết chết tâm hồn họ. Cuộc đối thoại của họ đã thất bại vì họ không biết quên đi bản thân mình, nên bản thân họ đã bị những vết thương làm nhức nhối vì những lời vô tình hay hữu ý của người khác.
- Vậy sao một cuộc đối thoại, ta phải giữ lại gì? Khi nói về Đức Maria, Tin Mừng Luca có một thành ngữ thật tuyệt diệu, làm bài học cho ta trong việc đối thoại: Bà giữ kỷ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2,19).
- Ta cần lưu giữ một lời nói, một tư tưởng sau cuộc đối thoại. Có thể đó là một lời nói có sức biến đổi cuộc đời ta theo nghĩa tốt. Có thể đó là một lời khích lệ, cũng có thể là một lời phê bình. Lời mà ta giữ lại phải là lời có tác dụng làm cho ta hoán cải. Càng suy nghĩ lại trong lòng những lời ấy, chúng ta càng canh tân đổi mới cuộc sống.
- Nhưng quan trọng hơn nữa là giữ lại tha nhân trong lòng mình, nhớ tới tha nhân, yêu tha nhân, cầu nguyện cho tha nhân. Như thế, một tình yêu, một tình bạn đã thật sự nảy nở trong tâm hồn với người đối thoại.
BÀI 12
HUẤN LUYỆN TÌNH CẢM
- HUẤN LUYỆN TÌNH CẢM được hiểu là sự rèn luyện đức Tự chủ và đức Tiết độ, nhằm chế ngự các khuynh hướng thái quá hay bất cập, để tình cảm luôn quân bình và thuần phục theo mệnh lệnh của lý trí.
- ĐỨC TIẾT ĐỘ: là đức Tự chủ được siêu hóa, có nhiệm vụ điều hòa, tiết chế các khuynh hướng, tạo sự quân bình các loại tình cảm nơi con người.
- Đặc điểm của đức Tiết độ, chính là quân bình hóa các nhân đức, các biểu lộ tình cảm, các khuynh hướng nơi con người, giữ cho các nhân đức và tình cảm ở mức độ trung dung: không thái quá, không bất cập. ví dụ: Hiền lành là nhân đức: nếu hiền quá thành nhu nhược; nếu thiếu hiền lành là dữ tợn.
- Vui vẻ là đức tính tốt: Vui vẻ quá độ thành mal mal; buồn quá mức nên ủ rũ, thất vọng.
* THẤT TÌNH: Theo lãnh vực cảm tính, người Á đông phân chia có 7 loại tình cảm:
1. Hỉ tình: vui ve, lạc quan.
2. Nộ tình: giận dữ
3. Ái tình: Yêu thương
4. Ố tình: ghét ghen
5. Ai tình: Buồn bã, bi quan
6. Cụ tình: sợ hãi
7. Dục tình: ham muốn
- Trong phạm vi bài này, ta chỉ đề cập đến:
1. Hỉ tình và Ai tình: lạc quan và bi quan.
2. Nộ tình và Ố tình: giận dữ và hiền lành
3. Cụ tình: sợ hãi và can đảm
I. Bi Quan Và Lạc Quan.
A. Bi quan.
1. Bi quan:
Là cái nhìn buồn rầu.
Người bi quan: Là người có cái nhìn lệch lạc, nên chỉ thấy toàn khía cạnh xấu của sự việc. Có thể ví người bi quan mang kiến đen, nên thấy điều gi cũng đen tối cả.
2. Tai hại của Bi quan.
- Người bi quan luôn mang tâm trạng buồn sầu, chán nản cuộc sống, nó hại cho thân mà còn lây lan cho người chung quanh, qua những tiếng thở dài, những lời chán nản, bộ mặt u sầu Tâm trạng buồn nản sẽ đưa đến các hậu quả tai hại khác:
- Tâm lý: Chủ quan, sai lạc, đưa đến hành động sai lạc , hại.
- Thể lý: Dễ sinh bệnh, rối loạn thần kinh.
3. Trị liệu: Cần điều trị tận căn, tìm ra nguyên nhân:
- Nếu bi quan do bệnh tật thể lý: Cần đến bác sĩ
- Nếu do di truyền hay do hoàn cảnh làm cho bi quan: Hãy tạo trang thái vui tươi, thoải mái, nhất là rén đức tính lạc quan, yêu đời. (xem: để vơi nổi buồn, Tr. 106)
B. Bi Quan.
1. Lạc quan:
Cái nhìn vui vẻ, yêu đời.
- Người lạc quan là người có cái nhìn vui vẻ, yêu đời, yêu người. Họ bình tĩnh cứu xét vấn đề dưới mọi khía cạnh, cách vô tư, không khinh thường mà cũng không quan trọng hóa vấn đề, nhưng cân nhắc sự việc cách cẩn thận. Khi thi hành công việc, họ làm đến hoàn tất, với nụ cười vui tươi, do ý chí quả cảm và đanh thép.
2. Lạc quan giả hiệu và đích thực.
- Lạc quan có phải là nhìn đời cách dễ dãi. mackeno, không quan tâm, luôn cười hề hề, giao công tác cứ ừ hữ cho xong chuyện? Không!
- Lạc quan có phải là đầu óc vô tư như trẻ con, mải mê vui đùa mà bỏ bê công việc? không!
- Lạc quan có phải là luôn nhìn đời toàn là màu hồng, thấy mọi việc đều êm xuôi, dễ dàng, thấy người nào cũng là tri âm tri kỷ mà không biết dè dặt, sống khôn ngoan? Không!
3. Rèn luyện tính lạc quan.
- Giữ trí tuệ minh mẫn: Dùng trí khôn để nhận xét kỹ càng, nhìn mọi khía cạnh và phán đoán chính xác về người, về các biến cố và sự việc.
- Giữ cảm giác tinh tường: Cần chế ngự tính nhạy cảm bằng im lặng, thay đổi vị trí hay làm việc, để trở về thế quân bình.
- Giữ ý chí vững bền: là tập kiên nhẫn, cố gắng liên tục.
- Giữ thể chất tráng kiện: Vì thể chất khỏe mạnh là điều kiện tạo nên lạc quan. Một tâm hồn lành mạnh trong một thể chất tráng kiện.
- Giữ nụ cười trên môi: Vui cười làm cho tâm hồn nhẹ nhàng, tạo thiện cảm cho người chung quanh, làm cơ bắp duỗi ra, thần kinh căng thẳng, hạch bài tiết dễ dàng.
4. Bí quyết vun trồng tính lạc quan:
- Sống tin tưởng phó thác: Thiên Chúa luôn yêu thương, chăm sóc mọi người: sợi tóc trên đầu rơi
- Luyện khiêm nhường: Vì đức khiêm nhường nuôi lạc quan. Ai khiêm nhường thật sự sẽ thấy bình an trong tâm hồn.
- Tính hài hước: Tạo vui cười ý nhị trong cuộc sống chung.
II. Nóng Giận Và Hiền Lành.
A . Nóng giận.
1 . Nóng giận là gì?
- Đó là thái độ nóng nảy, bực tức trong lòng hoặc biểu lộ ra ngoài, khiến ta phẫn nộ người khác và muốn báo thù. Nóng giận là cơn điên ngắn (Seneca). Quả thực, khi nóng giận, mặt đỏ lên hoặc tím ngắt, mắt trừng, môi mím, tay nắm chặt, giọng nói run rẩy, gân cổ gân tay nổi to, tim đập mạnh, nhanh gấp 3 lần bình thường (180 - 220/phút)
2 . Hai loại nóng giận:
- Giận dữ: Thường la ó, chửi rủa, đay nghiến, đấm đá...
- Giận hiền: Giận ngầm, rầu rầu, khổ tâm, cải êm thắm.
3. Tai hại Nóng giận:
- Nguồn gốc sinh ra thù hằn, báo oán, chia rẽ, giết người, loạn lạc trong gia đình và xã hội.
- Làm mất quân bình, mất khôn,làm tâm thần rối loạn, cản bước tiến trên đường trọn lành, khó cầu nguyện
4. Phương thế diệt trừ nóng giận:
- Thể chất: Ăn uống chừng mực, kiêng món ăn kích thích như rượu, thịt, gia vị, siêng tắm mát sạch sẽ.
- Tinh thần: Tập tự chủ, luyện đức hiền hòa.
- Nội tâm: Cầu nguyện.
- Câu chuyện ngậm ngụm nước khi nóng giận!
B. Hiền lành.
1. Hiền lành là gì?
- Là nhân đức luân lý có đặc tính chế ngự và kiềm hãm khuynh hướng nóng giận, giúp ta nhịn nhục, chịu đựng những trái ý và đối xử hòa dịu với mọi người. hiền lành hình thành nhờ 3 yếu tố:
- Tự chủ: Đề phòng và chế ngự xúc động của tín nóng nảy.
- Nhịn nhục: Chịu đựng nết xấu tha nhân.
- Tha thứ: Đối xử khoan dung với người, cả kẻ thù.
2. Hiền lành giả hiệu:
- Là hạng người có cử chỉ hiền hòa, khiêm nhu, nhưng chỉ cần một lời nói khích hay một sỉ nhục nhỏ, thì tức khắc lên mặt kiêu hãnh không ngờ. Một hạng giả hiệu khác là người nhu nhược.
3. Luyện tính Hiền lành.
- Diệt trừ tính nóng giận ngay lúc đầu.
- Tỏ ra tế nhị trong lời nói, cử chỉ, hành động.
- Cầu nguyện, suy niệm và sống Lời Chúa, hạnh Thánh.
- Quyết tâm không bao giờ tức giận, vì thấy mình còn nhiều khuyết điểm.
III. Nhát Sợ Và Can Đảm.
A . Sợ hãi.
1. Sợ hãi là gì?
- Đó là tình cảm bất an vì lo âu, khi đứng trước một nguy hiểm sắp xảy ra. Nguy hiểm đó có thể thuộc tinh thần hay vật chất, có thể sự thực hay tưởng tượng, tự cảm thấy không thắng nỗi nên sinh lo âu, sợ hãi.
2. Nhát đảm là gì?
- Nhát đảm là hình thức của sợ hãi, nhưng thường là loại sợ hãi khi gặp nguy hiểm tinh thần, phát sinh do óc tưởng tượng.
3. Nguyên nhân sợ hãi, nhát đảm.
- Sợ hãi là căn bệnh tinh thần, phát sinh từ những nguyên nhân tâm sinh lý và xã hội phức tạp (Waterstone)
a. Thể lý:
- Bệnh tật, dị thường, nên sinh tự ti mặc cảm, xấu hổ sợ sệt.
- Thiếu sức khỏe, giai đoạn tuổi dậy thì, mất quân bình giữa thần kinh và cảm xúc.
b. Tâm lý:
- Tham danh, tự ái: Muốn được chú ý. Nhưng sợ bị phán đoán, muốn được hoan hô, nhưng hoài nghi khả năng, nên mất tự chủ.
- Tự ti mặc cảm: Nghĩ mình thua kém, không đủ nghị lực, tự chủ để vượt qua.
c. Xã hội:
- Nô lệ dư luận, sợ dư luận phê phán, chỉ trích. Muốn giải thoát tính sợ dư luận, cần có thái độ khiêm tốn, nhìn nhận khiếm khuyết và luôn cần phục thiện. Khi gặp lời phê bình, chỉ trích, ta thận trọng kiểm điểm đời sống, tham khảo, bàn luận với người khôn ngoan, kinh nghiệm để hành xử cho đúng.
- Ảnh hưởng gia đình: Thường bị dọa nạt, đánh đập.
- Chế độ học đường dùng phương pháp hành hạ, đe dọa để học sinh chăm học
4 . Tai hại của nhát sợ.
a. Cá nhân.
- Hại cơ thể: Sợ hãi nhiều ảnh hưởng đến cơ thể, máu tứ chi rút về thần kinh trung khu, mặt tái, tim đập mạnh và nhanh, hơi thở hổn hển, run người, thất thanh, chân mềm quỵ ngã (Felix Thomas)
- Hại trí tuệ: Bị ám ảnh, phán đoán sai, quyết định mù quáng, óc tưởng tượng tự do hoành hành
- Hại ý chí: Làm nhục chí, kiệt quệ khả năng tiến bộ.
b. Hại tập thể: Nhục hại cộng đoàn, gia đình, quốc gia.
5 . Vượt thắng tính nhát sợ.
a. Tiêu cực:
- đừng sống theo óc tưởng tượng, kẻo sinh ra nản chí, mất tự tin.
- Đừng phán đoán chủ quan về giá trị chính mình và ngoại vật.
- Đừng quá nô lệ dư luận, vì Dư luận là luận dư
b. Tích cực:
- Thể lý: Tăng cường sức khỏe, tập thể dục, bổ dưỡng.
- Tâm lý: bài trừ sợ hãi: bằng óc suy luận, ví dụ: Tại sao tôi sợ? Tôi sợ ai? Bằng ý chí: cương quyết chiến thắng nhát đảm: tự kỷ ám thị để thắng và can đảm.
- Siêu nhiên: Tín thác nơi Chúa Quan Phòng, mến Chúa hết lòng, hết trí khôn. Nơi nào có lòng mến thì không sợ hãi. Thầy đây đừng sợ!.
B . Can Đảm.
1 . Can đảm là gì?
- Can đảm (gan-mật) là đức tính giúp con người mạnh mẽ trong tinh thần và ý chí, cố vượt thắng mọi trở ngại để hoàn thành nhiệm vụ.
- Đức can đảm là giữ mực trung dung giữ hai thái cực sợ hãi và táo bạo (bướng bỉnh). Vì táo bạo phát sinh hành động liều lĩnh, khinh thường; còn sợ hãi đưa đến nhục chí, rút lui, ngại làm, cả hai đưa đến thất bại.
- Can đảm là dám làm dám chịu: Dám làm: Vì muốn thành công trên mọi lãnh vực, phải dám đương đầu với cái khó, cái khổ. Dám chịu: Là dám chấp nhận hậu quả, gian nan, thử thách, không nản chí, rên rỉ, đổ thừa
2 . Lợi ích can đảm.
- Đó là bể khổ, có can đảm để chập nhận cuộc sống và biến lao khổ để trở thành niềm vui, tạo hạnh phúc cho mình và cho người.
- Có chí thì nên, có gan làm giàu, can đảm giúp ý chí vững mạnh đưa đến thành công trong cuộc sống.
- Can đảm để chiến thắng 3 thù, hầu bảo vệ và phát huy tài năng, ân sủng Chúa ban.
- Để theo Chúa, để chiếm hữu Nước Trời, cần có sức mạnh thiêng liêng, đức can đảm giúp ta. Từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày và theo Chúa (x. Mt 11,12; Lc 8,23).
3 . Rèn luyện đức can đảm.
- Cương quyết chế ngự tính nhát sợ.
- Tập lạc quan: Sau cơn mưa, trời lại sáng
- Cầu nguyện, xin ơn sức mạnh, dũng cảm để dám làm dám chịu, dám nhận chân giá trị để thi hành, dám nhận khuyết điểm để sửa sai.
- Gương Thánh Gioan Kim Khẩu khi bị kế hoạch hại:
+ Kế hoạch 1: Bỏ tù: ông coi đó là dịp để tĩnh tâm, cầu nguyện và chịu khó vì Chúa.
+ Kế hoạch 2: Lưu đày: đối với ông, đâu cũng là đất Chúa.
+ Kế hoạch 3: Tử hình: chết là Tử đạo, được về bên Chúa.
+ Kế hoạch 4: Bắt phạm tội! ông khiếp sợ nhất: Nhưng không được, người sợ tội là người mạnh nhất! Nếu con chỉ sợ tội, thì không người nào mạnh hơn con (Fx. Thuận. ĐHV).
BÀI 13
TÌNH BẠN
I . Bạn Bè Và Cuộc Sống.
1 . Nhu cầu Tình Bạn.
- Con người sinh ra mang tính xã hội, họ cần được sống liên đới với nhau. Ngoài những người thân trong gia đình, họ cần có những người thân thiết, gọi là Bạn Bè. Tình bạn thật đáng quý và cũng rất cần thiết cho cuộc sống.
- Ta cần có bạn bè để chia sẻ tâm tình, trao đổi tư tưởng, gánh vác công việc và giải trí thoải mái. Dù trẻ hay già, mọi người chúng ta đều cần có bạn.
2 . Bạn bè là ai? Các loại bạn bè.
Không phải chỉ những ai ta thích, ta mới coi là bạn. Thật ra:
- Bạn là những người có những nét gần gũi: Về tuổi đời, về tính tình, về nghề nghiệp, về hoàn cảnh, về môi trường
- Tình bạn được gắn bó theo cấp độ: Bạn sơ sơ hay bạn thân, bạn tri kỷ hay bạn xã giao.
- Tình bạn được đánh giá theo phẩm cách: Bạn tốt hay bạn xấu. Trẻ có bạn trẻ, gì có Bạn già, cũng có thứ bạn Vong Niên giữa già-trẻ.
Một người có thể có nhiều loại bạn:
a. Bạn học: Là những người cùng trường lớp. Cần có quan hệ tốt để cùng học, cùng chơi, cùng giúp nhau tiến bộ. Học thầy không tầy học bạn. Nhiều bạn học sau này thành bạn chí thân.
b. Bạn đồng nghiệp: Do làm chung một công việc làm ăn, mua bán, nên cần quan hệ. Cần chọn lựa người có uy tín, đáng tin cậy. Nếu chí quan hệ làm ăn, thì cần sòng phẳng, thành thật, tránh lừa đảo.
c. Bạn giải trí: Gặp ở những nơi giải trí, thể thao, tiệc nhậu.
d. Bạn đồng chí: Là người cùng chung chí hướng, liên kết trong lý tưởng, có thể sống chết với nhau.
e. Bạn tâm tình, hay bạn tâm giao (Tri âm tri kỷ): Đây là loại bạn hiểu nhau, tin nhau, và có thể đem những tâm tình riêng tư ra kể cho nhau nghe, để giúp ý kiến nhau. Để chọn bạn tâm giao, ta cần chọn người đặc biệt: Có tâm hồn quảng đại, trung tín.
3 . Những ảnh hưởng của Bạn Bè.
Chỉ cần biết bạn chơi thân với ai, tôi sẽ đoán được bạn là người như thế nào.
a. Ảnh hưởng về tiền bạc: Giàu vì bạn, sang vì vợ
- Nếu là bạn tốt, sẽ chung lưng, giúp vốn, góp ý để làm ăn. Nghèo túng, có bạn bè giúp đỡ nên giàu, nhưng cũng có nhiều bạn lợi dụng, gây khó khăn, thiệt hại đến tốn tiền, tốn sức, tốn giờ: như rủ rê đi ăn chơi, nhậu nhẹt, hút xách.
b. Ảnh hưởng về đạo đức, uy tín:
- Nếu có người bạn tốt, đạo hạnh, thì đó là điều đáng quý. Họ sẽ làm gương, an ủi, nâng đỡ tinh thần. Còn những bạn xấu, theo chơi với họ, ta sẽ dễ bị ảnh hưởng vào đường ăn chơi, trụy lạc, nghiện ngập, trộm cướp.
c. Ảnh hưởng đến tương lai:
- Nếu trong giai đoạn học hành mà chạy theo bạn xấu an chơi, lêu lỏng, bỏ học, thì tương lai sẽ mù tối, do bệnh hoạn, yếu đuối, thiếu khả năng. Còn nếu gặp những bạn tốt sẽ giúp đỡ, thúc đẩy ta học hành, nhờ đó, ta tiến bộ và tương lai sẽ tươi sáng.
d. Ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình:
- Biết bao gia đình tan nát vì ảnh hưởng của bạn xấu: rủ nhau ăn nhậu, say sưa, đánh vợ, đợ con, phá nhà cửa. Nếu bạn lương thiện, họ sẽ góp ý xây dựng hạnh phúc, gia đình nên đầm ấm.
II . Cho Bạn.
Ai cũng muốn có bạn tốt và mỗi người đều có những tiêu chuẩn chọn bạn khác nhau. Nếu mục đích việc chọn bạn là để chia sẻ, giúp nhau thăng tiến, thì có những tiêu chuẩn:
1 . Chọn bạn theo các tiêu chuẩn:
- Chọn bạn chăm chỉ, đạo đức: Để không bị ảnh hưởng xấu.
- Chọn bạn chân thành, trung tín: Để tình bạn được bền vững.
- Chọn bạn hơn mình về tài năng và đức độ: Để học hỏi, để thăng tiến.
- Chọn bạn có ý tưởng, có chí hướng tốt: Để cuộc đời có ý nghĩa.
2 . Thế nào là Người bạn tốt?
- Người bạn thân với ta, chưa hẳn là người bạn tốt, nếu họ không phải là người bạn trung thành, tín nghĩa, luôn gắn bó với ta trong mọi hoàn cảnh, khi vui như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại.
- Người bạn chiều theo ý muốn của ta, cũng chưa hẳn là người bạn tốt thật sự, người bạn tốt thẳng thắn, chứ không nịnh bợ, góp ý chân thành xây dựng, chứ không hùa theo hay phá đổ, nhạo cười.
Bạn tốt là người bạn:
- Biết giúp đỡ, khuyên tránh xấu, khích lệ khi làm tốt.
- Biết chia sẻ vui buồn, sướng khổ, hiểu, cảm thông, giúp đỡ.
- Biết hi sinh, quảng đại, tha thứ vì bạn, cho bạn.
III . Sống Đẹp Tình Bạn.
1 . Cách cư xử trong tình bạn:
- Tình gia đình bền chặt với nhau nhờ chung một dòng máu. Còn tình bạn là hoàn toàn tự do, chẳng có gì ràng buộc với nhau, ngoài tấm lòng. Bởi vậy, tình bạn rất mong manh và dễ tan vỡ. sống đẹp đẹp tình bạn, ta cần có những đức tính:
a. Chân thật:
- Là cư xử công bằng, hợp lý, không nói dối hay nịnh hót, lừa gạt nhau. Cần chấp nhận sự thật để cầu tiến và phục thiện. Tuy nhiên, chân thật không có nghĩa là phải kể ra hết mọi chuyện thầm kín. Có những điều ta chỉ có thể cho người khôn ngoan, hoặc với bạn chí thân, sau khi đã cân nhắc.
b. Trung tín:
- Luôn giữ đúng lời hứa với bạn. Những gì bạn tâm sự, không được tiết lộ, nếu không có sự đồng ý trước. Luôn thủy chung, những khi hoạn nạn, thất bại là lúc cần bạn nhất!
c. Biết nhớ và biết quên.
- Đó là điều làm cho tình bạn được bền bỉ. Cần nhớ những tình cảm, kỷ niệm đẹp, sự giúp đỡ của bạn dành cho ta. Nhớ ngày sinh nhật, ngày bổn mảng, kỷ niệm vui buồn bên nhau.
d. Tôn trọng bạn như tình ruột thịt.
- Tình bạn chân thật thể hiện qua việc quan tâm, tôn trong và giúp đỡ nhau, cách đặc biệt đối với bạn kém tài, kém sắc hoặc khuyết tật.
2 . Những điều nên tránh.
- Không âm mưu, lừa dối, ác tâm, ganh tị, thù hận, nói xấu.
- Không lợi dụng, bất công, hay hẹp hòi với bạn, cũng không thiên vị bạn mà quên tình gia đình.
- Không thất tín, không trọng giàu khinh nghèo.
BÀI 14
TÌNH YÊU
I . Tình Yêu Là Gì?
Con người không thể sống nếu không có tình yêu.
- Tình yêu gắn liền với cuộc sống con người, đó là một thứ tình cảm (Ái tình) vô cùng phong phú, bao hàm nhiều mặt nên khó định nghĩa cách rõ ràng, khoa học được!
- Tình yêu thường được hiểu theo nghĩa đẹp, đó là một quan hệ giữa hai người khác giới, cảm thấy có nhu cầu quyến luyến nhau, muốn gắn bó với nhau để sống, muốn chiếm hữu và hiến dâng cho nhau.
- Vài định nghĩa diễn tả tình yêu:
+Yêu là muốn điều tốt cho nhau (St Thomas)
+ Yêu là cùng nhìn về một hướng.
+ yêu là sống cuộc sống của người mình yêu.
+ Yêu là cho và nhận, là dâng hiến và khước từ, và tin tưởng và tha thứ. Yêu là dấn thân và phục vụ
- Có nhiều loại tình yêu: Tình phụ tử, mẫu tử, tình huynh đệ, tình gia đình, tình bè bạn, tình nam nữ, tình vợ chồng và trên hết là Tình Yêu Chúa.
- Tình yêu có những tính chát nào? Khi hai người yêu nhau: họ luôn nhớ nhau, thương nhau lo lăng cho nhau, mong gặp gỡ nhau, muốn chia sẻ vui buồn và hợp nhất với nhau từ thể xác đến tâm hồn.
II . Tầm Quan Trọng Của Tình Yêu.
Con người sẽ không hiểu mình, hiểu cuộc đời, nếu họ không gặp tình yêu, không có kinh nghiệm về tình yêu, không làm cho tình yêu trở thành của mình và không còn tham dự mãnh liệt vào tình yêu. ( G.P. II).
- Tình yêu đem đến hạnh phúc, niềm vui, thêm động lực để phát triển, giúp biến đổi nên hoàn thiện.
- Tình yêu là sức mạnh vượt gian khổ, thăng hoa con người.
- Tình yêu khởi điểm để liên kết 2 người nam nữ từ xa lạ đến gắn bó mật thiết và đưa vào hôn nhân. Và hôn nhân chỉ hạnh phúc bền vững khi có và còn tình yêu: Vì tình yêu giúp họ muốn sống bên nhau, tha thứ, chấp nhận, nuôi dưỡng, trách nhiệm, chu toàn bổn phận.
III . Vài Chân Dung Tình Yêu Nam Câu.
- Tình lý tưởng: Đối tượng như ý muốn: Đẹp, duyên, tài năng, địa vị, tiền của, nhân hậu, yêu trọn vẹn, chung thuỷ.
- Tình ngộ nhận: Do lịch sự, hợp nhãn, sắc đẹp, có tài, đạo đức giả tạo của đối tượng, họ nâng cảm xúc lên tình yêu.
- Tình lợi dụng: Dùng tình yêu che mục đích lợi dụng, chinh phục vì tiền của, tài sản, muốn đi nước ngoài
- Tình si mê: Do quan điểm yêu thương lệch lạc, cảm xúc, rung cảm nhục dục, yêu theo phong trào, yêu thử nghiệm.
- Tình vị kỷ: Yêu mình qua người khác, chỉ lo cho mình.
- Tình vị tha: Quan tâm, lo lắng, tạo hạnh phúc cho người yêu.
IV . Vài Lệch Lạc Trong Lối Yêu Ngày Nay.
- Lầm lẫn yêu hay lợi dụng yêu: Coi tình dục là tình yêu, yêu thử nghiệm. Lầm lẫn tình bạn và tình yêu.
- Yêu cuồng, sống vội, tò mò, muốn hưởng lạc thú, không cần tương lai.
- Muốn thoả mãn tự ái: Có người yêu mới từng trải, sợ ế!
a. Nguyên nhân:
- Thiếu giáo dục, thiếu đạo đức, bị ảnh hưởng bạn xấu, sách báo, phim ảnh xấu
- Không niềm tin vào Chúa, kém đạo đức, lười cầu nguyện, bí tích.
- Không lý tưởng sống, mặc cảm tự ti, tự tôn.
b. Hậu quả:
- Suy tàn sức khoẻ, mất sinh lực, bạc nhược thể xác, bệnh.
- Suy thoái tinh thần, mất tự tin, hết hăng sai học tập.
- Mất uy tín, mặc cảm tội lỗi, phá thai, si đa, thất tình, tự tử.
V . Tình Yêu Chân Chính.
Hãy yêu như Chúa yêu. Tình yêu chân chính có ít nhất 3 yếu tố:
- Tính quảng đại, vị tha: Yêu biết tin cậy và tôn trọng nhau, biết hi sinh và tha thứ, được chứng minh bằng hành động cụ thể: Tận tình giúp đỡ thông cảm, an ủi. Không chiếm hữu mù quáng, bạo lực, lợi dụng, thiếu tôn trọng.
- Tính đạo đức, trong sáng: Yêu là muốn điều tốt cho nhau, giúp nhau thăng tiến, yêu có trách nhiệm, không sợ hãi, lén lút, không làm tổn thương nhân cách và đạo đức.
- Tính hiệp nhất: Là tình yêu dẫn đến hôn nhân, đôi lứa có chung cuộc sống, được xã hội và Giáo hội công nhận, tình yêu được nở hoa kết quả trong hôn nhân và gia đình.
VI . Giáo Dục Tình Yêu Người Trẻ.
1 . Người trẻ sống vươn lên.
- Cần tập trung sức lực, thời giờ cho việc học tập, rèn luyện, để đạt trưởng thành về tình cảm, trí tuệ, làm chủ cảm xúc, dùng lý trí thắng đam mê, biết tu thân, tích đức. Cần chọn bạn tốt, có giải trí lành mạnh, tránh thời gian nhàn rỗi.
- Tình yêu không là tất cả, chỉ có Chúa mới là tất cả!
- Cần học hiểu tình yêu để biết yêu. Không nên yêu quá sớm, đừng vội thất vọng khi bị phụ tình.
2 . Người trẻ bước vào tình yêu
- Cần có thời gian tìm hiểu nhau, theo tiến trình: Quen bạn Bạn thân Nhân tình Nghĩa vụ VC.
- Cần tìm hiểu, cân nhắc, chọn lựa, cầu nguyện, bàn hỏi người khôn ngoan trước khi quyết định chọn người yêu.
- Yêu với ý thức trách nhiệm, xây dựng, chung thuỷ, không ích kỷ, lợi dụng, mù quáng.
- Yêu theo gương mầu tình yêu của Thiên Chúa: Vị tha, hi sinh, tạo hạnh phúc cho người yêu. Yêu nên một với người yêu, trong một tâm tình, cuộc sống, trách nhiệm cao.
VII. Xây Dựng Văn Minh Tình Yêu.
(Bài nói với giới trẻ của ĐGH GP. II)
- Hãy tin vào tình yêu: Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa và chúng ta tin vào tình yêu đó.
- Xây dựng nền văn minh của tình yêu: Trong tin thần liên đới quảng đại, tha thứ và chia sẻ. Cần có cá tính mạnh mẻ và kiên trì, biết hi sinh, vượt qua những chia rẽ của hưởng thụ, khoái lạc để tình yêu phong phú và cao thượng.
- Hãy mở lòng ra với tình yêu Đức Kitô: Chúng ta yêu thương, vì Người đã yêu ta trước. Mức độ tình yêu của chúng ta là yêu mến theo trái tim Đức Kitô.
- Làm chứng nhân tình yêu kiến tạo hoà bình: Thế giới ngày nay đang kiến cần niềm vui và việc phục vụ, sức mạnh và sự hiến nộp đời mình để biến đổi lịch sử, xây dựng xã hội mới công bằng, huynh đệ, nhân đạo và cong giáo hơn.
BÀI 15
NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH
Đã là người, ai cũng muốn được xem là người trưởng thành, thông minh, người ta gắn liền sự trưởng thành với tuổi tác. Thật ra, trưởng thành vốn là một giá trị phổ quát mà mọi người đều mong đạt được, nhưng được xem như là trưởng thành và thật sự là người trưởng thành là hai thực tại khác nhau.
I . Ngộ Nhận Về Trưởng Thành.
Người ta dễ dàng gán cho sự trưởng thành những yếu tố không phù hợp với bản chất của nó. Sau đây là ngộ nhận về trưởng thành:
1. Trước hết, người ta cứ tưởng trưởng thành không hề bị ảnh hưởng sự xấu:
Xã hội ngày nay cứ xem chuyện sai trái là chuyện của trẻ con, còn người người lớn thì không bị cám dỗ, như ghi chú: Phim dành cho người lớn: Cấm trẻ em dưới 18 như thể người lớn không hề bị cám dỗ. Thật ra, người trưởng thành thật sự thì biết thế náo đúng sai, không cần ai nhắc nhở họ chuyện ấy nữa. Người trưởng thành thì hành động theo sự xác tín cá nhân và theo lương tâm ngay thẳng.
2. Thứ hai:
Người ta tưởng rằng người trưởng thành thì không thể sa lầm. Thật ra trưởng thành không hề có nghĩa là miễn chuẩn trước sai lầm và có câu trả lời đúng cho tất cả mọi sự. Socrate có nói: người khôn ngoan nhất là người biết nhận ra sự ngu dốt của mình. Như vậy, càng trưởng thành, càng tỏ ra khiêm tốn. Người không bao giờ chấp nhận mình có sai lầm và không chấp nhận sự phê bình hay quan điểm của người khác, họ khó có thể là một người trưởng thành, bởi họ luôn xem mình đúng, mình là trọng tâm của vũ trụ.
3 . Cuối cùng, trưởng thành không hề đồng nghĩa với cứng nhắc:
Có người tưởng rằng trưởng thành thì luôn luôn nghiêm trang. Thật ra, nét đẹp của sự trưởng thành chính là sự hài hoà. Người trưởng thành là người biết lúc nào cần nghiêm chỉnh, khi nào cần tươi cười, biết nhận ra sự khác biệt và giá trị của người khác, của mỗi hoàn cảnh, trường hợp, thời điểm khác nhau. Người trưởng thành như vậy là người biết linh động thích ứng, chứ không khư khư bám vào pháo đài cổ lổ của mình và khước từ mọi khoan nhượng trước những quan điểm của người khác.
II. Trưởng Thành Đích Thực.
1. Theo nghĩa thông thường nhất, trưởng thành là sự thành toàn của bản tính, là đỉnh cao của tiến trình tăng trưởng nên loài vật và cây trái, trưởng thành hay chín muồi là hiện tượng thể lý. Còn nơi con người, ngoài bản chất thể lý còn có bản chất tinh thần. Nói đến trưởng thành là nói đến sự chín muồi của trong bản chất tinh thần. Sự trưởng thành ấy dĩ nhiên không lệ thuộc vào tuổi tác và thể lý. Người ốm đau có thể trưởng thành hơn lực sĩ; người thất học có thể thưởng thành hơn khoa bảng; một em bé 10 tuổi cũng có thể đạt trưởng thành, nghĩa là đạt bản chất tinh thần cao hơn những người có chức vị, lớn tuổi.
2. Thứ đến, người trưởng thành là người biết biến những tiêu chuẩn và nguyên tắt ngoại tệ tại thành những sát tính cá nhân trong hành động. Tiến trình này còn được ý thức và tự do. Trẻ con cần phải áp đặc những, bởi vì chúng thường chiều theo khuynh hướng tự nhiên, cảm hứng nhất thời, hơn là nghĩ đến trách nhiệm tương lai. Biết nhìn xa, trông rộng, biết khép mình vào kỷ luật chung, đó là đức tín của người trưởng thành. Mọi hành động, không vì sợ người khác nhưng theo nguyên tắt và xác tín riêng.
3. Sự trưởng thành cũng đồng nghĩa với sự hoài hoà trong bản thân. Trưởng thành chính là nhờ sự kết hợp của nhiều đức tín nhân bản để làm nên nhân cách của ta. Ý chí tình cảm, trí khôn, tất cả kết hợp hài hoà để tạo thành nhân cách con người. Bao lâu thiếu sự hài hoà ấy, con người vẫn chưa đạt trưởng thành. Bộ óc vĩ đại, nhưng lại có tâm hồn nhỏ bé; trí khôn bác học nhưng không làm chủ cảm xúc thì chưa đạt trưởng thành. Trưởng thành là vun trồng mọi đức tín và tổng hợp của nhiều giá trị mà con người đeo đuổi đạt sự hài hoà cho bản thân.
4. Cuối cùng, trưởng thành là trung thành sống những cam kết của mình. Sống phù hợp với bậc sống của mình và chịu mọi trách nhiệm về hành động, lời nói của mình. Khi đã suy nghĩ và đã đoan thề thì giữ lời hứa xét cho cùng, trưởng thành thiết yếu, là người biết sống theo tiếng nói dân tộc và chân chính của mình.
III. Chân Dung Người Trưởng Thành.
- Người trưởng thành là người đạt sự thành toàn trong nhân cách, biết vun trồng mọi đức tính nhân bản, biết linh động thích ứng trong cuộc sống và cư xử hài hoà với mọi người.
- Người trưởng thành biết suy nghĩ chín chắn, phán đoán chính xác, hành động có ý thức và tự do, theo lương tâm chân chính của mình.
- Người trưởng thành chịu trách nhiệm và hành vi, lời nói, việc làm của mình, chấp nhận phê bình và sửa sai.
- Người trưởng thành khiêm tốn chấp nhận sự thật về mình, luôn gia tăng học hỏi, trau dồi kiến thức, tu luyện bản thân.
- Người trưởng thành luôn trung thành với lời cam kết kiên trì đeo đuổi mục đích biết tự chủ dục vọng và sống phù hợp với vật sống của mình.

NGHỆ THUẬT SỐNG
ĐẮC NHÂN TÂM
KHẢ NĂNG NGÔN NGỮ
Đời sống thường ngày, ngôn ngữ có khả năng rất phi thường.
- Nhờ lời nói, người ta có thể vui thích, thông cảm và yêu mến nhau nhiều hơn, cũng có thể vì một lời nói, làm cho người ta đau khổ, căm ghét, hận thù, sát nhân.
- Có khi chỉ nhờ một câu nói bình thường mà khích lệ tinh thần và hoài bão làm việc của người khác, hay cũng chỉ vì một câu nói quá công thức hay vô trách nhiệm mà khiến tinh thần người khác chán nản, mất khí thế, bỏ cuộc.
- Ngôn ngữ còn ý nghĩa mang xã hội tính: Khi một người được thăng chức, thì họ dễ thay đổi giọng điệu lời nói, họ nghĩ làm như thế mới đủ biểu hiện bề trên. Nếu họ vẫn giữ tự nhiêu như xưa, giọng nói không những được nhận thêm nhiều sự tôn kính, mà còn làm người khác thoải mái.
- Địa vị càng thấp thì lòng tự ti càng cao. Nếu bề trên tỏ ra gần gũi, thì sẽ bù đắp mặc cảm tự ti của cấp dưới, xoá bỏ ngăn cách tâm lý, biến đổi mặc cảm tự ti của họ thành ý thức ưu việt, họ sẽ rất hăng hái thực hiện công việc, đây chính là cuộc đấu tâm lý ngôn ngữ.
6 CÁCH GÂY THIỆN CẢM.
1 . Thành thật quan tâm đến người khác.
2 . Luôn tươi nở nụ cười.
3 . Nhớ và gọi đúng tên của người.
4 . Biết nghe nhiều hơn nói, khuyến khích họ nói về họ.
5 . Hiểu và nói về điều mà họ thích thú.
6 . Thành thật làm cho họ thấy họ quan trọng.
9 CÁCH SỬA SAI NGƯỜI KHÁC
1 . Trước hết, thành thật khen ngợi vài điều tốt đã có nơi họ.
2 . Lấy thiện ý làm cho họ nhận thấy lỗi lầm.
3 . Trước khi phê bình, hãy tự phê trước (tiên trách kỷ, hậu trách nhân).
4 . Đừng ra lệnh sửa sai, nhưng hãy đặt câu hỏi ám chỉ họ.
5 . Giữ thể diện cho họ.
6 . Chân thành khuyến khích sự cố gắng, thiện chí đã có của họ.
7 . Tán dương họ, để họ xứng đáng với lời khen.
8 . Khích lệ và tạo sự dễ dàng giúp họ sửa sai tương lai.
9 . Tỏ ra vui sướng khi họ chấp nhận lỗi lầm và quyết sửa đổi.
9 CÁCH THUYẾT PHỤC
1. Đặt vấn đề, gợi ý đối thoại, để họ trình bày thoả thích.
2. Biết lắng nghe, trọng ý kiến họ, đừng bao giờ bảo họ hoàn toàn sai lầm.
3. Nên đặt những câu hỏi gợi ý sao cho họ tự nhiên trả lời có.
4. Bình tĩnh đề ra phương hướng để dẫn họ theo ý mình, khiến họ tưởng rằng ý kiến đó là của chính họ.
5. Cố gắng đứng vào quan điểm của họ để hiểu và dẫn dụ họ.
6. Ai cũng muốn được người khác quí mến, cảm thông, hãy thực hiện.
7. Kích thích thị giác và óc tưởng tượng bằng minh hoạ.
8. Thách đố, khiêu khích tức khí nơi những người có tâm huyết.
9. Khuyến khích hành động vì lợi ích, gợi lên tình cảm cao thượng.
GIÁ TRỊ CỦA NỤ CƯỜI
1. Một nụ cười chẳng mất vốn, nhưng lợi thật nhiều.
2. Nụ cười không làm nghèo người phát, nhưng làm giàu người nhận.
3. Nụ cười tươi nở trong khoảnh khắc, nhưng lưu nhớ suốt đời.
4. Nụ cười là dấu hiệu tình bạn thân thiện, gây hạnh phúc gia đình, hảo ý trong thương nghiệp.
5. Nụ cười không thể mua, xin, mượn, ăn cắp được Nếu như khư khư giữ, nó chẳng có giá trị gì, nếu trao tặng đúng lúc cách phung phí thì có giá trị vô song.
6. Nụ cười là liều thuốc bổ dưỡng mệt nhọc, là nắng xuân cho kẻ buồn sầu, là liều thốc chữa trị lo âu.
7 . Hãy mỉm cười với đời, đời sẽ vui với bạn.
Vậy, nếu bạn muốn được mọi người thương mến, xin hãy nhớ thực hiện: Giữ nụ cười trên môi
NGHỆ THUẬT KHÍCH LỆ
Làm sao khích lệ người khác?
1. Là làm người khác phấn chấn.
2. Sử dụng phương pháp cảm hoá.
3. Làm khôi phục lòng tin.
4. Dựa vào sự chân thành làm cảm động người nghe.
5. Giữ hình tượng thật thà chất phác.
6. Lời nói có sức thu hút của nhân cách.
6 CÁCH KHÍCH LỆ NGƯỜI KHÁC
1. Cách làm người khác phấn chấn.
Sử dụng phương pháp Ám thị
Hiệu quả lớn nhất của Ám thị là tạo ảnh hưởng lên tâm lý người khác, khiến họ tự động tự phát chứ không hoàn toàn nghe theo lệnh người khác.
Bí quyết là: Sử dụng lặp đi lặp lại, đó là cách tạo cho người nghe cảm nhận bản thân họ có một niềm tin, khiến họ tự động tự giác làm và làm cách kiên trì.
Vd: Trong một cuốn băng luyện tập Anh ngữ, có một câu mang tính ám thị như sau: Tôi là học sinh mới đậu vào Đại học năm nay, tôi chỉ bỏ ra hai tháng để học hết cuốn băng này.
Chỉ bỏ ra hai tháng!, một câu đơn giản, ngắn gọn. Nếu bạn mở cuốn băng này hai mươi lần thì bạn sẽ nghe được hai mươi lần chỉ bỏ ra hai tháng bạn có thể học xong, một thúc đẩy vô hình, một quyết tâm hùng mạnh được khơi dậy, làm tăng trạng thái tâm lý hi vọng ở người khác, khiến họ tăng nhan tốc độ hoàn thành công việc: đó là bí quyết Ám thị.
2. Thường xuyên sử dụng phương pháp Cảm hoá.
Thông qua sự ca ngợi người khác để đạt được mục đích cảm hoá là một phương pháp khích lệ tốt. Có thể xem đó là lời lẽ học đường. Đó là cách đánh giá họ cao hơn một chút, như thêm thuốc bôi trơn lên thực lực vốn có của bản thân họ, từ đó họ sẽ sáng tạo ra thành tích mới, bước lên một nấc cao hơn.
Dùng phương thức tự trách mình, thay vì quở trách người, sẽ dễ cảnh tỉnh người khác. Người vợ muốn chồng không uống rượu nữa, có thể nói: Em không muốn chồng em là người nát rượu!. Đối với những người làm việc không hết mình, nếu không thì anh làm sao lại như thế!.
Nên nhớ, ngôn ngữ cấm chỉ hay ra lệnh thông thường đều sẽ gặp ba phản ứng:
- Kháng cự
- Phục tùng như máy
- Co lùi lại
Khi muốn một người cảnh tỉnh bản thân, điều tối kỵ cần tránh là đừng để họ có cảm giác bị châm biếm, mạ lỵ, nếu không thì sẽ có nguy cơ tuyệt giao, chạy trốn, kháng cự.
3. Làm cho người thất bại khôi phục lòng tin.
- Nếu muốn khuyên một người từ trạng thái bi quan sang lạc quan để họ khôi phục lại lòng tin, thì hãy vạch cho họ thấy con đường hy vọng. Ví dụ:
1. Cửa đại học tuy khó vào, nhưng với thành tích của cậu mà nói thì chẳng có vấn đề gì.
2. Cậu có thể thi đậu Đại học, tuy rằng thi Đại học rất khó.
Có thể cách nói (1) hữu hiệu hơn (2), vì nó lưu lại ấn tượng sâu sắc hơn và làm lay động trong lòng người. Một lần, hai lần, nhiều lần, họ sẽ bất giác dung nạp mầm mống hy vọng, dũng khí sẽ cuồn cuộn dâng trào lạc quan.
4. Dựa vào sự chân thành làm cảm động người nghe.
- Điều cần nhất để diễn giảng thành công là: diễn giảng với tất cả sự chân thành làm cảm động người nghe.
- Khi diễn giảng, đừng kéo thời gian diễn giảng quá dài. Diễn giảng trong 3 phút không phải là một việc khó, không đòi hỏi nhiều khó khăn. Nếu bạn có ước muốn diễn giảng thành công, muốn người nghe cảm động, thì bạn nên diễn giảng vừa phải, với tất cả sự chân thành trong khi diễn đạt.
5. Giữ hình tượng thật thà chất phát.
- Học tập kỷ thuật nói chuyện cố nhiên rất khó. Vận dụng ngôn ngữ khéo léo như thế nào để lời nói được êm tai dễ nghe, đây cũng là một việc rất nguy hiểm. Vì nếu bạn cố trau chuốt làm cho lời nói quá ngọt ngào, thì người nghe cho rằng bạn là một người rất trải đời, rất khôn khéo và lắm khi họ chỉ khâm phục tài nói chuyện rất giỏi mà thôi.
- Nếu bạn nhất định muốn cho lời nói được êm tai dễ nghe mà nghĩ trăm phương nghìn kế để hết sức tu từ, thì sẽ dễ tạo ra cảm giác giả tạo. Nên nhớ: Tình cảm chân thật nhất, chính là lúc tuỳ ý phát biểu mà không có sự chuẩn bị trước. Chỉ cần ngôn ngữ hành vi của bạn như bình thương, lời lẽ của bạn thẳng thắn chân thành, thì cho dù bạn có lỡ lời cũng không đến nỗi nào.
- Chỉ cần bản chất của bạn cao nhã, bất kể khả năng nói chuyện của bạn hay, dở, thì những lời nói ra đều có cảm giác ý vị. Vì vậy, không cần phải cố sức làm cho lời nói trở nên êm tai dễ nghe. Ý vị tự nhiên của ngôn ngữ là quan trọng nhất, chỉ cần xuất phát từ đáy lòng của bạn thì cũng đủ đi vào nơi thâm sâu nhất của tâm hồn người nghe.
6. Lời nói cần tỏ ra có sức thu hút của nhân cách.
Đại triết gia Hy Lạp cổ Aristote cho rằng: Điều kiện quan trọng nhất của người diễn giảng chính là cần có nhân cách cao thượng. Nhân cách đó là nguồn hấp lực cá tính, tình người và tính hài hước.
- Điều quan trọng khi diễn giảng, trước tiên cần biểu lộ sức thu hút của cá tính. Ví dụ: Bạn thuộc kiểu người thành thật, mộc mạc, thì tuyệt đối không được nói ra những lời huỷ hoại ấn tượng ấy, mà nên cố gắng nói ra những lời hoà nhịp với bản chất mộc mạc của bạn.
- Nếu bạn muốn dùng tiếng cười châm biếm để làm cho người khác vui cười, thì sau khi tiếng cười đó kết thúc, bạn cần để lại trong lòng người nghe một cảm giác ấm áp nào đó. Chính là sự ấm áp tình người ẩn chứa trong tiếng cười châm biếm, chứ không phải là tạo cho người nghe một cảm giác bị móc lò.
- Một cuộc diễn giảng thành công không chỉ để chọc cười, mà còn là nói ra những lời hóm hỉnh hài hước nhiều ý vị. Sự hình thành những lời hóm hỉnh hài hước không chỉ dựa vào óc khôi hài, mà còn có tình người nồng hậu, nhẹ nhàng, khiến người nghe có cảm giác vấn vương lâu dài.
NGHỆ THUẬT HÀI HƯỚC
Hài hước là một nghệ thuật mang tính chất đặc thù ý vĩ của con người. Chỉ khi ta có tâm trạng an nhiên, tự tại, thoải mái thì mới có thể phát huy được tác dụng của nó.
I. HÀI HƯỚC là gì?
- Hài hước chính là sự kết tinh tư tưởng, ý thức, trí tuệ và sự linh cảm trong việc vận dụng ngôn ngữ, tạo ra hiệu quả vui cười, làm cuộc sống được nhẹ nhàng, thoải mái hơn.
- Cách nói hài hước là sự khéo léo vận dụng hình thức ngôn ngữ gây cười, khôi hài, trêu đùa để phản ánh hiện trạng đối tượng. Có người nói: Cách nói chuyện khôn ngoan là cách nói chuyện hài hước hóm hỉnh.
- Người hài hước thường có phẩm chất cao thượng, có tấm lòng rộng mở, có trí thông minh, tưởng tượng phong phú, cư xử đầy nhiệt tình với mọi người.
- Tính hài hước có thể biến tâm trạng con người trở nên thoải mái, vui vẻ, giúp cho việc giao tế được suôn sẻ, trôi chảy.
Hài hước cũng là một Nghệ Thuật, nhờ sự tu dưỡng và rèn luyện kỷ năng hài hước.
II. Tu dưỡng khả năng hài hước.
Muốn nâng cao khả năng nói chuyện hài hước, ta hãy nỗ lực thực hiện các mặt:
1. Tâm hồn cao thương, lạc quan.
- Những lời lẽ hài hước được xây dựng trên suy tư lành mạnh và tâm hồn cao thượng. Nó đề xuất với người khác thiện ý phê bình và sự khuyên nhũ, tất nhiên nó đòi hỏi ta có trình độ tư duy cao và khả năng kiềm chế tình cảm cao.
- Một con người có tâm địa hẹp hòi, tư tưởng uể oải thì không thể có tính hài hước được vì lẽ họ thốt ra thường mang ý tiêu cực, châm biếm, mỉa mai, làm người nghe khó chịu.
- Thái độ hài hước là sự phản ánh thái độ lạc quan đối với cuộc sống, là biểu hiện tràn đầy tự tin của sức mạnh cá nhân. Có lạc quan thì mới thản nhiên xử lý những chuyện xảy ra ngoài ý muốn. Hãy khai thác tính hài hước trong cuộc sống và dùng sự vui vẻ để làm dịu đi những vết thương lòng do cuộc sống mang tới.
2. Sự tu dưỡng văn hoá tốt đẹp.
- Những lời lẽ hài hước có liên hệ với tài trí thông minh của người đó. Nó đòi hỏi cần có sự tu dưỡng văn hoá tốt đẹp, phong phú. Hài hước không phải là làm điệu làm bộ, mà là một dòng, chảy tự nhiên, những lời khôi hài cứ tự nhiên từ miệng thốt ra.
- Đọc nhiều sách báo, xem nhiều phim ảnh để mở rộng tầm nhìn, đọc nhiều tác phẩm hài hước ngắn, nhờ đó tính hài hước sẻ làm nảy sinh những lời lẻ tràn đầy sự liên tưởng kỳ dịu, có khi chỉ cần vài câu là có thể đề xuất rất nhiều vấn đề.
- Ngoài ra, còn cần phải có tài nói chuyện mới khiến cho lời lẻ dào tính hài hước.
3. Khả năng quan sát và trí tưởng tượng phong phú.
- Phản ứng nhanh là một đặc điểm của tính hài hước. điều này đòi hỏi người nói phải có tư duy nhanh nhạy, do kết quả của sự quan sát kỹ lưỡng các sự vật và sự cảm nhiệm sâu sắt trong cuộc sống. Quan sát là yếu tố quan trọng để tạo ra hiệu quả hài hước trong ngôn ngữ.
- Muốn nói chuyện cho được hài hước, cần dựa vào trí tưởng tượng phong phú để sáng tạo, không có trí tưởng tượng phong phú thì khó mà có tính hài hước.
- Ngoài ra, tính hài hước còn liên quan mật thiết với hoạt động xã hội của con người. Muốn cho lời lẽ của mình có tính hài hước cách tốt nhất là học tập cuộc sống. khi tiếp xúc với đủ loại hạng người, bạn sẽ làm giàu thêm vốn ngôn ngữ và tài nói chuyện của bạn. tính hài hước cũng giống như một chất men, khi ở chung với người có tính hài hước thì bản thân cũng sẻ được lan truyền tính hài hước.
4. Chú ý ngôn ngữ lành mạnh, hàm súc.
- Nói chuyện hài hước, dí dỏm, cần tránh những ngôn từ thô tục hay kiểu nói ngọt sớt, trơn tuột. Một ngon ngữ khôi hài nhất định cần phải lành mạnh, không được dung tục, tuỳ tiện, không được coi nó như kiểu nói đùa vô vị.
- Xuất phát điểm của hài hước phải là thiện ý, có lợi cho tinh thần đoàn kết và bầu không khí lành mạnh. Thần sắc, dáng vẻ kín đáo của người nói sẽ làm tăng hiệu quả hài hước. Ngoài ra, hài hước không nên quá huyền bí, mà cần dễ hiểu, nếu không thì sẽ giống như đoán câu đố, kéo dài, làm mất đi hiệu quả hài hước.
- Cuối cùng cẩn nhắc một điều, người ta chỉ cảm thấy hứng thú với sự vật tươi mới. ví vậy, cho dù là những lời nói rất hài hước, nếu cứ kể lại nhiều lần thì cũng khiến người nghe cảm thấy chán, do đó lời lẽ cần luôn mới mẻ.
- Tóm lại, chỉ cần chúng ta chân thành nghiêm túc nỗ lực thực hiện những phương diện kể trên thì nhất định sẽ nâng cao năng lực nói chuyện hài hước của bản thân.
III. Kỹ Năng Hài Hước.
Nói thế nào để đạt được hiệu quả hài hước lý thú? Đó là thường xuyên vận dụng khéo léo các phương pháp tu từ và logic.
1. Khéo dùng sự so sánh.
- Khi nói chuyện, cố ý kết hợp hai khái niệm và sự vật không có liên quan gì với nhau để tiến hành so sánh, từ đó tạo ra hiệu quả gây cười. Câu chuyện Bí quyết vô địch.
- Phóng viên một tờ báo đến hỏi một vận động viên vừa đoạt chức vô địch môn chạy việt dã.
- Xin anh cho biết bí quyết rèn luyện nào đưa anh dẫn đầu trong suốt cuộc chạy đua?
- Ồ, có gì đâu, lúc chạy tôi cứ nghĩ mình là chủ hụi vừa bị ụp hụi, mới thu gom được một món tiền, vậy mà các vận động viên khác là những người góp hụi, đang cố chạy đuổi theo đòi tiền lại!
2. Một lời hai ý.
- Cách nói chuyện một lời hai ý là vận dụng từ và nghĩa, cố ý đặt tên từ ngữ náo đó trong một hoàn cảnh nhất định, có ý nghĩa tương đương. Câu chuyện Báo cáo.
- Một người đàn ông rao bán báo ở quảng trường: Một chuyện lường gạt kinh động, số người bị lừa gạt đã đến 82 người!. Nghe vậy, một người vội vàng chạy tới mua một tờ báo, nhưng nhìn qua nhìn lại, chẳng thấy nội dung câu chuyện lường gạt đâu cả. Còn người bán báo tiếp tục rao lớn Một chuyện lường gạt kinh động, số người bị lừa đã đến 83 người.
3. Khéo dùng ví von.
- Cách ví von là cách nói dùng ví dụ chất phác để tượng hình.
- Ví dụ: Một vị chức sắc Huyện đã phát biểu trong buổi lễ vào ngày khai Trường như sau.
- Quí thầy cô và các em học sinh phải biết rằng: Cái đức là cái căn bản, có thể thiếu tài nhưng không được thiếu đức. Tài ví như cái áo, đức ví như cái quần. không bận áo, ở trần thì còn coi được, chứ bận áo mà không bận quần thì khó coi lắm!
4. Dùng phản ngữ.
- Cách dùng phản ngữ là sử dụng những lời nói hoàn toàn ngược hẳn với ý muốn bày tỏ, những suy nghĩ bên trong khác với những ý nghĩ nói ra. Câu chuyện Ai cũng thu hoạch
- Hai ca sĩ đang ngồi nói chuyện phiếm với nhau.
- Một người nói: Tôi lần đầu lên sân khấu đã thu được thành công lớn, hoa tươi mà khán giả tặng tôi, đủ để vợ tôi mở một tiệm bán hoa
- Người kia nói: Thế thì ăn nhằm gì? Lần đầu tiên tôi lên sân khấu, tiếng hát của tôi làm kinh động toàn bộ khán giả, kết quả là họ tặng tôi một ngôi nhà!
- Hừ, chỉ nói láo!
- Không phải nói láo, mà là số gạch họ ném lên sân khấu đủ để tôi xây một ngôi nhà mới.
5. Giải thích khác.
- Cách giải thích khác là do một yêu cầu nào đó, biết rõ phải giải thích như thế này nhưng lại đưa ra lý giải kiểu khác. Đó cũng là cách nói trước tiên cố ý đưa ra kết luận khiến người nghe dễ sinh ra hiểu lầm, sau đó lại đưa ra sự phân tích và giải thích khiến người nghe bất ngờ. Cách cố ý xuyên tạc như vậy cũng có thể tạo ra hiệu quả hài hước. Câu chuyện Người gặp khó khăn.
- Một anh chàng học sinh trung học rất kém Anh ngữ, nhưng làm một chuyến du lịch sang nước Anh. Một hôm, cha mẹ điện thoại sang hỏi con:
- Ở đấy, trình độ Anh ngữ của con thế nào rồi. Chắc là gặp nhiều khó khăn phải không?
- Không hề, không hề khó khăn gì cả. Người gặp khó khăn toàn là những người Anh ở đây, chứ không phải là con. Câu chuyện Cùng nhìn một hướng
- Hai cậu con trai mới lớn bàn chuyện tình yêu.
- Cậu A hỏi bạn: Yêu là gì nhỉ? Làm sao biết được nàng yêu ta?
- Cậu B trả lời: Yêu là cùng nhìn về một hướng.
- Cậu A nhảy thốt lên: Thế thì may quá, nàng đã yêu ta rồi!.
- Cậu B ngạc nhiên: Làm gì có chuyện đó được?.
- Cậu A giải thích: Hôm qua tớ đến nhà nàng, nàng ngồi cạnh tớ, nàng mở Tivi và thế rồi 2 đứa cùng nhìn về một hướng!
6. Cố ý khoa trương.
- Cách cố ý khoa trương là cố ý khoe khoang một sự vật nào đó, thậm chí ngược với qui luật thông thường để đạt hiệu quả hài hước. Câu chuyện Tác dụng của tiếng cười.
- A: Tôi nghe nói một tiếng cười trẻ đi 10 tuổi!
- B: Một tiếng cười trẻ đi 10 tuổi! Vậy hai tiếng cười trẻ đi
- A: Hai mươi tuổi
- B: vậy tôi năm nay 40 tuổi, tôi cười 4 tiếng thì sẽ được bồng ẵm, sướng thật!
7. Phán đoán kính đáo.
- Là một lời nói ẩn chứa một phán đoán khác, nó có đặc điểm ẩn chứa không lộ ra. Câu chuyện Quá đủ.
- Sau khi xem kết quả siêu âm, bác sĩ khuyên bệnh nhân:
- Anh nên bỏ rượu đi, vì hiện giờ gan của anh sắp chai như cục gạch, phổi đầy bụi, xương sắp hoá vôi, thận anh đầy sỏi
- Nhưng tôi lại có tim bằng thép, nó không cho tôi bỏ rượu đâu, thưa bác sĩ!
- Vậy thì anh chỉ cần thêm ít xi măng nữa là quá đủ để xây cuộc đời mới rồi!
8. Hàm súc uyển chuyển.
- Cách nói uyển chuyển hàm súc là đối với chuyện nào đó, người ta không muốn trực tiếp nói thẳng ra, mà dùng những câu nói đồng nghĩa tương ứng để biểu đạt một cách uyển chuyển, khúc chiết. Câu chuyện Viết trong bóng tối
- Con trai: bố ơi, bố có thể viết trong bóng tối được không?
- Bố: Tất nhiên là được, con ạ.
- Con trai: Vậy bố thử tắt đèn đi, rồi ký vào đây sổ liên lạc nhà trường cho con nhé!
9. Lợi dụng mâu thuẫn.
- Cách lợi dụng mâu thuẫn của bản thân đối tượng, những điểm hở của vấn đề, vạch ra chỗ đáng cười, cũng sẽ đạt được hiệu quả hài hước. Câu chuyện Dở ẹc.
- Hát dở ẹc! Bác có biết cô ca sĩ đang đứng hát đó không?
- Biết! Con gái của tôi đó.
- Ấy chết! Xin lỗi bác, kể ra thì giọng hát cũng hay hay Nhưng có lẽ bài hát dở quá. Bác biết ai sáng tác bài hát đó không?
- Chính tôi đây!
10. Trao đổi khái niệm.
- Cách lén đổi khái niệm là cố ý dùng một khái niệm này, để đổi một khái niệm khác nhằm đạt được mục đích nhất định, tạo ra hiệu quả hài hước. Câu chuyện Một bước không rời.
- Hai cha con đi ra ngoài thành du ngoạn, cha nói với con:
- Hãy cẩn thận, nơi đây có loại rắn gọi là Ngũ bộ xà, bị nó cắn thì đi năm bước sẽ chết.
- Không sao, lỡ có bị nó cắn thì con chỉ đi bốn bước rồi không đi nữa.
- Tốt! Con thông minh lắm, thế nhưng con làm như thế sẽ rất nguy hiểm, vì chỉ cách cái chết có một bước!
- Thế phải làm sao!
- Không đi bước nào cả mới an toàn.
11. Nói bóng gió, canh khoé.
- Là cách nói lợi dụng ngôn ngữ dí dỏm lý thú để nêu lên một tệ trạng, phản bác một quan điểm sai lầm náo đó. Cách nói này muốn được hiệu quả còn tuỳ thuộc vào sự suy ngẫm thưởng thức của người nghe. Câu chuyện Ba chàng nói khoác.
- Ba anh chàng sinh viên nổi tiếng nói khoác ngồi lại than thở về đời sống kham khổ của sinh viên.
- Anh học Tổng hợp bảo: Bữa cơm Sinh viên ở trường tớ ngay cả ruồi nó không đụng vào.
- Anh học Bách khoa nói luôn: Còn trường tớ, thì cả ruồi cũng phải đánh nhau với sinh viên để tranh từng hạt cơm. Lắm lúc nhìn những chú ruồi gầy còm đang nghẹn ngào nuốt những hạt cơm cứng như đá, tớ thấy thương quá.
- Anh học Sư phạm lên tiếng: Trường của các cậu vậy là khá lắm. ở trường tớ đấy à, cứ vào nhà bếp sau bữa ăn thế nào cũng thấy vài chú ruồi đang nằm hấp hối trên những cái đĩa đã vét sạch trơn bóng loáng, mặt đầy lệ, miệng than thở đói quá, đói quá, và sau đó thì chú ruồi tắt thở.
12. Sự chất phác, trong sáng.
- Rất nhiều người hài hước gây cười, chính là kết quả tư duy hài hước chất phác áp đảo tư duy bình thường tạo ra. Tư duy chất phác giống như đứa trẻ, thì sẽ gây ra hiệu quả hài hước rất mạnh. Câu chuyện Tuổi con gì?
- Ông khách hỏi đứa bé: Cháu tuổi con gì?
- Đứa bé lắc đầu: Cháu không biết.
- Sao thế?
- Ở nhà, lúc cháu giỡn thì chị bảo cháu là đồ khỉ; khi cháu làm việc chậm chạp, thì mẹ bảo cháu là đồ rùa; khi cháu đem sổ liên lạc nhà trường để cho ba ký, thì cháu bị mắng là đồ bò!
- Kết: Từ những điều kể trên, chúng ta có thể thấy việc khéo vận dụng phương pháp tu từ và logic sẽ khiến lời nói hài hước dí dỏm. Đương nhiên, kỹ năng hài hước không chỉ có 12 loại trên, chúng ta có thể học hỏi thêm nhiều hơn từ trong thực tế.
BÍ QUYẾT THÀNH CÔNG
Thành công không chỉ dành cho những thiên tài, nhưng là dành cho những người siêng năng và lao động không mệt mỏi.
8 BÍ QUYẾT GIÚP BẠN THÀNH CÔNG:
1. Phải có niềm tin đặt vào ước mơ: Trước tiên đó là sự lạc quan tin tưởng vào sự thành công của công việc.
2. Thời khoá biểu làm việc: Làm việc siêng năng là cần thiết, nhưng làm việc có tổ chức, đều đặn, giờ giấc rõ ràng sẽ đem hiệu quả cao.
3. Từng bước khắc phục khó khăn: Cần phải biết xác định mục tiêu phấn đấu và từ từ tiến lên vượt qua thử thách.
4. Cố gắng khắc phục yếu điểm: Đừng bỏ qua nhược điểm, nếu bạn không muốn sớm nhận lấy thất bại.
5. Tự thưởng cho những thành công bản thân: Như thế sẽ kích thích bạn siêng năng làm việc hơn.
6. Kiểm điểm những việc đã thực hiện trong ngày: Để kịp thời sửa sai. Nên đặt câu hỏi: Tôi đã hoàn thành được việc gì? Tôi cần làm gì kế tiếp? Tôi chuẩn bị gì cho ngày mai?
7. Phải biết nghỉ ngơi: Nên nhớ, mệt mỏi sẽ dễ sai lầm, mệt mỏi có thể gây cẩu thả trong công việc.
8. Cần có sự động viên khích lệ: Thân nhân, bàn bè là những người bạn cần tâm sự để nhận lấy những lời động viên, khuyên nhủ kịp thời.
ĐỂ VƠI NỖI BUỒN
Ai trong chúng ta lại không có những lúc buồn chán, thất vọng và muốn buông xuôi tất cả?
Dưới đây là kinh nghiệm của một số chuyên gia tâm lý nói về phương cách làm NỖI BUỒN:
1. Hãy tự chủ cuộc sống của bạn.
Những sự việc thất bại có thể làm cho bạn cảm thấy chán nản vá bắt đầu có hiện tượng tự ti mặc cảm. Bạn hãy chấm dứt ngay triệu chứng tự ti nầy bằng cách tự nhủ với mình rằng: Chính tôi phải làm chủ cuộc đời của tôi, chẳng có gì là quá quan trọng. Rồi bạn can đảm tìm cách giải quyết vấn đề, đôi khi cũng cần một thái độ dứt khoát tưởng chừng như muốn đối đầu với khó khăn, ngay cả với những khó khăn hầu như không vượt qua được.
2. Tạo nhiều cơ hội để CƯỜI.
Còn cười là còn thấy cuộc đời đáng sống! Thật sự cười có thể giúp bạn sống lâu hơn. Ở một số nước, thậm chí người ta còn tham gia vật lý trị liệu để được cười, giúp kéo dài tuổi thọ. Do đó, khi bạn cảm thấy buồn chán, hãy đi xem phim, kịch hài để tiếng cười được bật ra và liền đó, bạn sẽ thấy bớt căng thẳng hơn nhiều.
3. Kiếm việc tay chân để làm
Việc làm và không gian thoáng sẽ khiến tâm trạng của bạn giải toả phần nào. Ví dụ như lau chùi nhà cửa, giặt ủi quần áo Cho nên, thay vì bạn nằm dài suy nghĩ về những tiêu cực, những khúc mắc, khó khăn trong công việc thì bạn hãy nhanh nhẹn tay chân sẽ có lợi gấp đôi.
4. Tự mình làm giảm căng thẳng (Stress).
Khi tâm trạng không vui, tốt nhất bạn không nên trả lời bất cứ ai. Bởi vì bạn có thể làm tổn thương tình cảm của họ do những câu nói nhát gừng, nét mặt cau có của bạn. Tốt hơn, bạn hãy vào phòng riêng đóng cửa lại, mở nhạc lớn, nếu có thể, bạn cũng nên reo hò, la hét để đẩy sự bực dọc ra khỏi tâm trí bạn. Nếu cần thiết, bạn cũng có thể đấm vào gối hay la mắng cái gươngVì một sự giải toả như thế cũng giúp bạn bớt căng thẳng mà không làm tổn thương đến người khác.
5. Chăm sóc bản thân.
Hãy tự làm đẹp cho mình hoặc đến các dịch vụ cắt tóc, sửa móng chân, móng tay hay massage. Bạn cũng có thể thưởng thức những món ăn ngon và nghĩ rằng bản thân mình là đáng quí. Tức khắc bạn sẽ bớt buồn ngay.
6. Hoạt động cơ bắp để thư giãn.
Ngồi thần thừ suốt ngày càng làm cho bạn buồn chán hơn. Bạn hãy tập thể dục, chơi thể thao, bạn cũng có thể đi bộ ở công viên hoặc dọc theo bờ biển hóng mát mà hít làn khí trong lành. Thậm chí điệu nhảy giậm chân cũng giúp tâm hồn bạn lắng dịu.
7. Thăm viếng bạn bè.
Lúc buồn chán mà có được một người bạn tốt để tâm sự là bạn đã vơi được một nửa. Bên cạnh đó, những hoạt động có tính chất tập thể sẽ làm bạn quên sự chán nản, nỗi buồn riêng của mình. Bạn hãy sắp xếp thời gian để cùng bạn bè đi picnic, đi tham quan, hoặc tham gia một phong trào hay một công tác xã hội nào đó.
8. Lên kế hoạch cho những hoạt động yêu thích.
Bạn hãy thực hiện việc làm gì đó mà bạn ưa thích, như đi nghỉ xa tại một nơi mà bạn ao ước, đi mua sắm hoặc tham gia vui chơi hội hè. Bạn sẽ bị cuốn hút vào niềm vui mà quên đi nỗi buồn.
9. Hết mình với công việc.
Bạn hãy tăng thêm thời gian làm việc để không còn thời gian rảnh rỗi, suy nghĩ đến chuyện buồn. Làm việc mệt mỏi sẽ đem bạn đến giấc ngủ ngon. Một khi thời gian biểu của bạn lắp đầy với những công việc, thì nỗi buồn chán sẽ không có chỗ chen chân vào.
10. Tự khích lệ.
Hãy nghĩ về những khía cạnh tích cực của bạn cũng như những thành quả bạn đã đạt được để có thể tin vào mình. Từ đó bạn tự động viên mình Thua keo này, bày keo khác và nhất là Thất bại là mẹ thành công Bạn sẽ có thêm can đảm để bắt đầu lại.
BÍ QUYẾT
GIỮ TÂM HỒN THANH THẢN
1. Vài phút tĩnh lặng tâm hồn.
Đây là điều rất cần thiết cho những người quá bận rộn với nhiều công việc chồng chất, mà không có thời gian cho sự thư giãn. Bí quyết để giải tỏa stress (căng thẳng) đơn giản này: Chỉ cần 30 giây để thực hiện: Hãy tìm một chiếc ghế, ngồi thoải mái, suy nghĩ về vài điều thật dễ chịu, kéo dài chừng 30 giây, lặp lại nhiều lần trong ngày. Nếu được thực hiện đều đặn, bạn sẽ cảm thấy tinh thần thanh thản hơn nhiều.
2. Hãy dự đoán trước sự việc sẽ xảy ra.
Không phải là lúc nào cũng bi quan, lo lắng thái quá, nhưng bạn nên hiểu rằng sẽ có những tình huống thách thức sự kiên trì và sức chịu đựng của bạn. Vậy bạn hãy học cách chấp nhận và đề ra phương hướng giải quyết cách tích cực để ngăn ngừa hậu quả bất ngờ.
3. Hãy tư vấn chính mình.
Bạn thường lo lắng, hốt hoảng trong những tình huống khó khăn và bi quan trước những điều thậm tệ nhất có thể xảy ra?
Trong những trường hợp này, bạn nên tự đặt cho mình những câu hỏi hóc búa, nhưng thực tế, chẳng hạn:
Nguyên nhân nào chuyện không hay ấy lại xảy ra?
Có cách nào để giải quyết vấn đề không?
Làm cách nào để chấm dứt cơn stress đó.
Bằng cách nhìn thẳng vào thực tế sự việc, cuộc sống đối với bạn sẽ không còn là nỗi lo triền miên nữa.
4. Hãy là người năng động.
Quá nhàn rỗi cũng như quá bận bịu, tất bật sẽ làm cho ta dễ bị stress. Một cuộc nghiên cứu nhóm người phụ nữ mất việc vẫn ăn lương, thì hệ thống miễn dịch của họ hoạt động kém hơn nhóm người phụ nữ có làm việc. Vì vậy, nếu bị mất việc hay quá nhàn rỗi, bạn hãy học cách sử dụng thời giờ nhàn rỗi cách tích cực và hiệu quả.
5. Hãy dậy sớm vào buổi sáng.
Một nhà tâm lý trị liệu cho rằng: Dậy sớm vào mỗi buổi sáng sẽ giúp giảm bớt tần số bị stress (Bà Ursula Markham). Nhờ thói quen tốt này, bạn sẽ có thời gian để làm việc trong trạng thái bình tĩnh, thong thả hơn, và sẽ thoát những cơn khủng hoảng thường xảy ra và giờ phút chót.
6. Ấn huyệt hỗ trợ.
Đặt các ngón tay ở phần cuối cổ, nơi tiếp giáp với vai, ấn xuống 20 giây, hít sâu và từ từ thở ra. Nhích các ngón tay lên cao 1 cm và làm lại động tác này. Sau đó nhích lên cao nữa Thư giãn cơ lưng, bằng cách dang tay tự ôm lấy mình, duỗi tay ra xa, rồi ôm lấy mình lần nữa (khoảng 5 lần). Đây là phương pháp dạy ấn huyệt kết hợp với massage vận động, rất có hiệu quả trong các trường hợp bị stress. (Theo Womens Day).
10 LỜI KHUYÊN
ĐỂ PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO
1. Dám suy nghĩ khác mọi người.
Hãy rời khỏi những con đường đã vạch sẵn, đừng cầu toàn theo ý tưởng của đa số và dám tránh xa những chủ nghĩa xu thời trong trường hợp cần thiết. Đưa ra một ý tưởng riêng của mình có thể làm phật lòng người khác, song như thế bạn sẽ dễ làm quen với cách suy nghĩ độc lập.
2. Giải quyết theo cách của mình.
Đối với mỗi vấn đề, bạn hãy tập tìm ra giải pháp theo cách của mình.
3. Đừng hài lòng một giải pháp duy nhất.
Nên tìm ra ít nhất hai giải pháp cho mỗi vấn đề. Chẳng hạn đối với câu hỏi 2 với 2 là mấy, bạn có thể trả lời là 4 hay 22.
5. Tự đặt câu hỏi nếu?
Nếu ngày mai thành phố không còn xe hơi? Nếu ngày mai tôi lạc vào một hoang đảo?... Nếu thường xuyên đặt câu hỏi dạng này, đầu óc bạn sẽ quen với việc tìm ra các giải pháp sáng tạo cho một vấn đề nào đó.
6. Sáng tạo những câu chuyện và trò chơi.
Nếu đang buồn bã ở một nơi công cộng, bạn hãy chơi đùa bằng cách quan sát những người chung quanh, tưởng tượng ra cuộc sống của họ và xây dựng kịch bản từ thái độ hoặc hình dáng của mỗi người.
7. Phá vỡ những thói quen.
Đừng ngồi vào bàn ăn cùng một chỗ, đừng đi lại trên cùng một con đường, đừng thực hiện những động tác như nhau khi đến văn phòng
8. Tìm kiếm mặt tích cực của sự vật.
Nếu không có những kết quả như tiên liệu thì bạn hãy chấp nhận nó. Đôi khi đó là một kết quả thú vị nhiều so với những gì bạn tìm kiếm. Nhiều phát minh lớn đã ra đời như thế.
9. Giữ đầu óc phê bình.
Mỗi khi có điều gì hoạt động không đúng, bạn hãy tự hỏi sai lầm phát xuất từ đâu và bằng cách nào người ta có thể khiến nó hoạt động hợp lý và tốt đẹp trở lại.
10. Tìm những cái mới.
Để làm điều này, bạn hãy tìm kiếm những thông tin và quan sát trong những lĩnh vực khác nhau, rồi phối hợp chúng lại. Đó là những gì Gutenberg đã làm khi đặt chồng máy ép và hộp mực lên nhau để tưởng tượng ra máy in. (Theo Quo)
HẠNH PHÚC TRONG BÀN TAY
Câu chuyện ngụ ngôn Ba Tư được kể như sau:
Tại quảng trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố giải đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế. Một hôm, giữa một đám đông đang say mê lắng nghe giảng thuyết thì có một người mục tử (chăn chiên) từ trên cao nguyên xuống, anh nghe tiếng đồn về sự khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn chứng kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông. Anh đến gần nhà hiền triết, trong tay anh nắm chặt một con chim nhỏ. Anh đặt câu hỏi như sau:
Thưa ngài, ngài là bậc thông thái và khôn ngoan, ngài biết được mọi sự. Vậy, trong tay tôi có một con chim: Xin ngài nói cho biết con chim tôi đang cầm trong tay sống hay chết?.
Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra. Nếu trả lời con chim đang sống, tức khắc anh chàng sẽ bóp cho nó chết trước khi mở tay ra. Còn nếu ông bảo con chim đã chết, tức thì người ma lanh ấy sẽ mở bàn tay ra, và con chim sẻ bay đi. Sau một lúc thinh lặng trước sự chờ đợi của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như sau:
Con chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy, còn sống hay chết là tuỳ ở ngươi. Nếu ngươi muốn nó sống, thì nó sống, nếu ngươi muốn nó chết thì nó chết.
Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc.
Ai trong chúng ta cũng mong ước cuộc sống an bình, vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc, hơn là hưởng nếm chính hạnh phúc đang cầm trong tay chúng ta. Hạnh phúc của chúng ta đang có, cũng giống như con chim mà mỗi người chúng ta đang cầm trong bàn tay. Con chim ấy sống hay chết là tuỳ ở mỗi người chúng ta.
- Bí quyết của hạnh phúc, chính là đón nhận những niềm vui nho nhỏ trong cuộc sống. Đôi lúc chính chúng ta đánh mất hạnh phúc, bóp chết niềm vui của chính mình, thế mà chúng ta không ngờ, hoặc lại đổ lỗi cho tha nhân.
- Hạnh phúc đích thực của người Kitô hữu là chính Thiên Chúa. Nếu chúng ta để cho Thiên Chúa chiếm ngự, nếu chúng ta để cho Thiên Chúa lấp đầy, thì dẫu nghịch cảnh có như mây đen bao phủ đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy an bình, hạnh phúc.
- Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa chiếm trọn tâm tư, chọn Chúa là tất cả trong cuộc sống, chúng ta sẽ có niềm vui đích thực toàn vẹn và vĩnh cửu.
Bạn đã cảm nhận hạnh phúc đang nằm trong bàn tay bạn hay chưa?
SỐNG LIÊN ĐỚI
Có một chàng thanh niên nọ khao khát trở thành thánh nhân. Chàng xin vào một dòng tu. Không mấy chốc, chàng khám phá ra tính tình nóng nảy của mình. Nhưng thay vì tìm căn nguyên nơi mình, chàng qui trách cho người xung quanh. Tha nhân trở thành hoả ngục đối với chàng. Sau cùng, không còn chịu nổi đời sống tập thể nữa, chàng nghĩ có thể tìm thấy sự yên tĩnh trong sa mạc. Thế là chàng lên đường tìm đến một nơi hoang vu vắng vẻ để cắm lều sống đời ẩn sĩ. Mà thật thế, chàng tìm lại được sự thanh thản trong tâm hồn
Tuy nhiên, sự bình an trong cô quạnh ấy không kéo dài được. Ma quỉ kéo đến và chúng gây xáo trộn trong căn lều xinh xắn của chàng. Không còn giữ được bình tĩnh, chàng đã nổi tam bành và đạp đổ tất cả
Sau cơn giận dữ, trở lại trạng thái bình thường, chàng mới hồi tâm suy nghĩ: Tôi đã bỏ lại tu viện các anh em của tôi, nhưng tôi lại mang chính tôi vào sa mạc. Không phải anh em tôi là căn nguyên đau khổ của tôi, nhưng tính tình của tôi mới là căn nguyên của mọi đổ vỡ
Không ai là một hòn đảo.
Chúng ta được sinh ra trong một gia đình. Chúng ta lớn lên trong một xã hội. Chúng được ơn gọi để sống trong một cộng đoàn. Tha nhân có thể là một trở ngại, nhưng tha nhân cũng chính là sự trợ giúp để chúng ta phát triển nhân cách và thành toàn hơn. Tha nhân không là hoả ngục, nhưng tha nhân có thể là luyện ngục, giúp ta tinh luyện nhân đức và sống hạnh phúc hơn.
Vào đời, chúng ta bị ràng buộc với người, chúng ta trao đổi công việc với người, chúng ta chia sẻ nghĩa tình với người, chúng ta phục vụ người và được người phục vụ. Chúng ta liên đới với nhau về vật chất lẫn tinh thần. Chúng ta liên đới với nhau trong hạnh phúc lẫn đau khổ. Không ai hạnh phúc một mình và cũng không ai một mình đau khổ. Nhờ người ta vui và nhờ người, ta mới trúc bớt những cơ cực, sầu khổ.
Thế giới này quá nặng nếu chỉ một người mang lấy, và sự khổ cực của vũ trụ quá lớn cho một trái tim. Đừng tưởng rằng một mình có thể sống giữa vũ trụ mà không cần đến ai, không cần ai giúp đỡ!
Tâm lý thông thường của con người là thích đòi hỏi người khác hơn là đòi hỏi chính mình, thích xét đoán người khác hơn là chất vấn chính mình, thích sửa lưng người khác hơn là thay đổi chính mình. Ta đòi hỏi người phải tốt hơn ta, mà quên rằng chính ta chưa tốt cho người.
Nếu chúng ta không muốn người khác cau có với mình, thì hãy mang bộ mặt vui tươi phấn khởi đến với mọi người. Nếu chúng ta không muốn ai cư xử hẹp hòi với mình, thì hãy sống quảng đại, bao dung với người khác.
Tất cả mọi căn nguyên của thất bại hay thành công, hạnh phúc hay đau khổ, vui hay buồn đều nằm trong ta. Cuộc chiến cam go nhất và liên lỉ nhất, chính là cuộc chiến nội tâm chống lại bản thân ta. Xã hội có thể thay đổi, cuộc sống có thể tốt đẹp hơn, nếu chúng ta biết cải thiện con người của ta trước.
Tha nhân không là hoả ngục, và thiên đàng không đợi chờ ở đời sau.
Thiên đàng là hạnh phúc có thể đến ngay trong cõi đời này rồi. Thiên đàng và hạnh phúc ấy là gì, nếu không phải là: Những lần ta cố gắng làm cho người khác hạnh phúc.
Cho đi là nhận được
Quên mình là tìm thấy
Tha thứ được thứ tha
Chết đi là sống mãi.
ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN
Ông Lothartli, thần học gia và thi sĩ người Đức đã tưởng tượng ra câu chuyện này:
Một ngày kia, có một bạn trẻ đến gặp Chúa Giêsu và hỏi Ngài: Thưa Ngài, tất cả chúng con đều biết Thầy đến bởi Chúa Cha và dạy dỗ chúng con những điều chân thật. Nhưng về phần cộng đoàn của Thầy, những người đi theo Thầy, thì con phải thú thật là họ chẳng sống những gì Thầy dạy đâu, ngược lại đằng khác! Mới đây, có tiếng tăm đồn thổi là các tín đồ của Thầy chẳng hiệp nhất gì với nhau, cãi lộn tùm lum! Vì thế, con xin Thầy một điều: Cho con theo Thầy, mà không cần phải sống liên kiết với những đoàn thể của Thầy? Con muốn theo Thầy và làm một tín hữu tốt, nhưng con không cần đến cộng đoàn, không cần Giáo Hội và những thứ lề luật lòng thòng nào khác
Chúa Giêsu nhìn người trẻ ấy một cách trìu mến và nói: Hãy nghe đây, Thầy muốn kể cho con câu chuyện này: Một ngày kia có một nhóm người quây quần bên nhau tán gẫu. Khi chiều về và bóng tối lan rộng tứ phía, họ kiếm củi và nhóm lên một nhóm lửa. Họ ngồi sát cạnh nhau. Lửa cháy sưởi ấm lòng họ, và chiếu sáng từng khuôn mặt của họ lên. Nhưng có một người trong nhóm lại không thích ở chúng với mấy người khác, mà chỉ thích ở một mình. Chàng cầm lấy que củi đang cháy và đi xa khỏi bọn họ, ngồi chơi vơi một xó. Ngọn lửa của chàng cũng khiến cho chàng ấm áp và mặt chàng cũng được dọi sáng lên như những người ngồi chung với nhau đằng kia. Nhưng càng về khuya, ngọn lửa của chàng càng tàn lụi dần. Chàng cảm thấy lạnh lẽo cũng như tối tăm. Chàng bắt đầu suy tư. Rồi chàng mang que củi sắp tắt của mình trở về với đồng bọn. Thế là que củi của chàng cũng cháy sáng lên. Chàng ngồi xuống với những người khác như trước. Chàng cảm thấy ấm áp và khuôn mặt của chàng cũng rạng sáng trở lại.
Sau cùng Chúa Giêsu thêm: Ai thuộc về Thầy thì người ấy cũng gần lửa. Thầy đến thế gian để nhóm lên ngọn lửa cháy trên thế gian, và Thầy mong muốn biết bao được thấy ngọn lửa ấy bừng lên trong lòng mọi người.
Chúng ta sinh ra trong cộng đoàn nhân loại, chúng ta lãnh nhận đức tin từ một cộng đoàn Giáo Hội, và đức tin của chúng ta chỉ có thể sống và lớn mạnh trong cộng đoàn Giáo Hội mà thôi. Không ai có thể theo Chúa Kitô, làm môn đệ Chúa Kitô mà có thể ở ngoài cộng đoàn Chúa Kitô: Vì Chúa Kitô là đầu Hội Thánh. Người Kitô luôn được mời gọi nhận thấy Chúa nơi tha nhân.
Tha nhân chính là hình ảnh của Chúa. Trong cái nhìn ấy, cuộc sống của chúng ta phải luôn hướng tới chiều kích cộng đoàn: Niềm đau của anh em phải là niềm đau của ta và hạnh phúc của anh em cũng là hạnh phúc của ta. Là con người sống giữa xã hội, là tín hữu sống trong Giáo Hội là tu sĩ sống trong cộng đoàn, tình liên đới không phải là thứ xa xí phẩm chỉ để điểm tô cuộc đời. Nó cũng không phải là thứ vật phụ thêm vào nhân cách của tôi.
Tình liên đới là một đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi làm người. Tôi càng nên người hơn, khi tôi sống với anh em và sống cho anh em. Tôi càng phong phú hơn, khi tôi biết hợp tác và trao ban cho anh em. Con người chỉ thể hiện trọn vẹn tính người, khi con người sống liên đới với người khác.
Đức Cha Fulton Sheen, vị diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình Mỹ đã có lần phát biểu: Không ai trong chúng ta có thể vào thiên đàng, nếu ở đó không có ai nói với chúng ta: Chính tôi đã giúp đỡ để đưa bạn vào thiên đàng.
Phải, tha nhân là một trợ giúp để đưa ta vào thiên đàng. Họ cũng có thể là những người cùng khổ chìa tay xin ta bố thí. Đó là dịp để chúng ta thực thi bác ái. Họ cũng có thể là những người thân cận làm chúng ta phải đau khổ, chua cay. Đó là dịp để chúng ta hy sinh, đền tội. Nhưng ưu tiên hơn cả vẫn là những người chúng ta cố gắng làm cho họ hạnh phúc. Chính những người đó là những kẻ giúp ta vào hạnh phúc thiên đàng.
Nhân vô thập toàn. Giáo Hội bao gồm những con người, cộng đoàn gồm những con người, nên vẫn có những bất toàn nơi con người, trong đó có cả sự bất toàn của chính mình. Nếu chúng ta biết khiêm tốn nhận ra giới hạn của mình, và biết chấp nhận giá trị của người khác, có lẽ chúng ta sẽ không bất mãn về người khác, cũng như không bực bội chính mình.
Cuộc sống sẽ dễ thở hơn, ấm cúng hơn nếu mỗi người chúng ta biết cư xử với nhau bằng tình bác ái của Chúa Kitô. Ánh sáng Chúa sẽ tiếp tục tỏa sáng nơi từng gương mặt chúng bằng yêu thương. Dấu hiệu để tỏ ra tình yêu mến tha nhân, đó không chỉ bằng lời nói suông, nhưng bằng hành động, sự nhẫn nhục, tha thứ, giúp đỡ.
Cho dù Giáo Hội có những lủng củng, cho dù cộng đoàn có những bất hòa thì mỗi thành viên phải là ánh lửa tình yêu, phải là nhịp cầu hiệp thông, phải là chiếc phao tha thứ. Phải sống thế nào để người ta có thể nói: Niềm vui và tình yêu Chúa Kitô vẫn còn cháy sáng trong tôi, trong lòng mọi người.
Thiên Chúa đã ban cho mỗi người một ánh lửa: Lửa của Tin Yêu, và Ngài mong muốn biết bao cho ánh lửa ấy cháy lên, tỏa sáng hơn. Nếu mỗi người biết nhóm lên ngọn lửa tình yêu, biết đóng góp phần nhỏ bé của mình vào cộng đoàn, thì có lẽ thế giới này sẽ bớt lạnh lẽo hơn vì ích kỷ, hận thù, chiến tranh, đói nghèo.
Thà rằng đốt lên ngọn lửa cháy
Thà rằng thắp lên ngọn đèn sáng
Còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối.