Show
Hợp tác xã theo quy định tại Điều 3 Luật hợp tác xã năm 2012 là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã. Việc thành lập hợp tác xã được quy định chi tiết tại Luật Hợp tác xã. Đôi nét cơ bản về việc thành lập hợp tác xã như sau: Một là, hợp tác xã được thành lập từ các sáng lập viên hợp tác xã là cá nhân, hộ gia đình; pháp nhân tự nguyện cam kết sáng lập, tham gia thành lập hợp tác xã. Sáng lập viên sẽ tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã thảo luận về dự thảo điều lệ; phương án sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã; liên hiệp hợp tác xã và dự kiến danh sách thành viên, hợp tác xã thành viên. Hội nghị thông qua điều lệ. Những người tán thành điều lệ và đủ điều kiện trở thành thành viên, hợp tác xã thành viên thì trở thành thành viên, hợp tác xã thành viên. Các thành viên, hợp tác xã thành viên tiếp tục thảo luận và quyết định các nội dung quan trọng khác của hợp tác xã. Hai là, chuẩn bị đầy đủ hồ sơ các giấy tờ quy định của pháp luật và mang nộp hồ sơ tại phòng tài chính – kế hoạch thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và chờ nhận kết quả. Ba là, cơ cấu tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gồm đại hội thành viên, hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) và ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên. Tư cách pháp nhân của hợp tác xã Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng hợp tác xã là tổ chức có tư cách pháp nhân, nó đáp ứng đầy đủ điều kiện để có tư cách pháp nhân theo quy định tại Điều 74 Bộ luật dân sự 2015. Một là: Được thành lập theo quy định của Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan. Như đã trình bày một cách khái quát nhất về thủ tục thành lập thì hợp tác xã được thành lập dựa trên những quy định chung nhất của Bộ luật dân sự 2015 và cụ thể hóa bởi Luật hợp tác xã 2012. Hợp tác xã; liên hiệp hợp tác xã được cấp giấy chứng nhận đăng ký khi có đủ các điều kiện sau đây: Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm; Hồ sơ đăng ký theo quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật Hợp tác xã năm 2012; Tên của hợp tác xã; liên hiệp hợp tác xã được đặt theo quy định tại Điều 22 của Luật Hợp tác xã; Có trụ sở chính theo quy định tại Điều 26 của Luật Hợp tác xã. Hai là: Hợp tác xã được thành lập dựa trên sáng kiến của sáng lập viên hợp tác xã; được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật và được công bố công khai. Ba là: Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Ngay tại định nghĩa về hợp tác xã quy định ở khoản 1 Điều 3 Luật hợp tác xã 2012 đã khẳng định điều này. Bên cạnh đó, tại Điều 7 Luật này quy định về nguyên tắc tổ chức; hoạt động của hợp tác xã cũng nhấn mạnh việc tự chủ; tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật. Cuối cùng là nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Hợp tác xã khi đã được thành lập hợp pháp thì đương nhiên có thể tự mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Hợp tác xã cùng với các hình thức tổ chức kinh tế khác; ngày càng thể hiện vai trò của mình trong việc thể hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; đóng góp không nhỏ trong việc phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Việc có tư cách pháp nhân giúp cho hợp tác xã phát huy tính độc lập, tự chủ; tạo ra lợi thế trong việc tham gia các giao dịch cũng như các hoạt động kinh doanh thương mại. Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
Hợp tác xã là một trong những mô hình kinh tế đang được sử dụng rộng rãi ở nước ta hiện nay, bên cạnh sự phát triển của các doanh nghiệp như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân…. Có thể hiểu, hợp tác xã là một hình thức thể hiện cho thành phần kinh tế tập thể, nhưng không phải ai cũng hiểu về khái niệm cũng như bản chất của hình thức “hợp tác xã” này. Hợp tác xã có tư cách pháp nhân không là vấn đề được khá nhiều người quan tâm. Luật Gia Phát sẽ trả lời câu hỏi này của quý khách qua bài viết sau đây. Căn cứ theo khái niệm “hợp tác xã” được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật hợp tác xã năm 2012 được trích dẫn ở trên, có thể khẳng định, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Thứ nhất, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế được thành lập một cách hợp pháp theo quy định chung của pháp luật.Để thành lập được một hợp tác xã, trước hết phải có một người được xác định là sáng lập viên tham gia thành lập hợp tác xã và đứng ra vận động, tuyên truyền người khác tham gia vào tổ chức hợp tác xã, đồng thời tạo dựng phương án sản xuất kinh doanh của hợp tác xã, dự thảo điều lệ và những công việc cần thiết khác. Sau đó, sáng lập viên sẽ thực hiện việc tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã với sự tham gia của các thành viên có nguyện vọng tham gia, gia nhập vào hợp tác xã. Hội nghị thành lập hợp tác xã sẽ thực hiện việc thông qua quyết định thành lập, các nội dung về cơ cấu, phương án hoạt động, điều lệ và các nội dung khác liên quan đến sự thành lập và phát triển của hợp tác xã. Trước khi chính thức đi vào hoạt động thì hợp tác xã phải thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi hợp tác xã dự định đặt trụ sở chính. Sau khi hoàn tất thủ tục, hồ sơ đăng ký hợp tác xã theo đúng quy định của pháp luật và đáp ứng đủ các điều kiện để thành lập hợp tác xã thì hợp tác xã này sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã. Như vậy, hợp tác xã là một tổ chức được thành lập một cách chặt chẽ với trình tự, thủ tục đều phải chấp hành theo đúng quy định của pháp luật và được sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thứ hai, cơ cấu tổ chức của hợp tác xã có cơ quan điều hành với những chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được quy định chung trong điều lệ và quyết định thành lập hợp tác xã, bao gồm:– Đại hội thành viên là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của hợp tác xã, thường thực hiện thông qua các hình thức tổ chức đại hội thành viên thường niên và đại hội thành viên bất thường. – Hội đồng quản trị hợp tác xã là cơ quan quản lý hợp tác xã, gồm chủ tịch và thành viên trong đó số lượng thành viên của hội đồng quản trị sẽ do điều lệ quy định cụ thể nhưng tối đa không quá 15 người và tối thiểu ít nhất là 03 người. – Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) là người trực tiếp điều hành, và quản lý các hoạt động của hợp tác xã. – Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên là bộ phận hoạt động độc lập, do đại hội thành viên bầu trực tiếp trong số thành viên hợp tác xã theo hình thức bỏ phiếu và có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp tác xã và Luật. Ban kiểm soát có số lượng thành viên không quá 07 người. Lưu ý: Đối với các hợp tác xã có từ 30 thành viên trở lên thì bắt buộc phải thành lập ban kiểm soát, còn trường hợp có dưới 30 thành viên trở xuống thì hợp tác xã có thể thành lập ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên theo nội dung của Điều lệ hợp tác xã đó. Thứ ba, tính độc lập, tự chủ, và tự chịu trách nhiệm của hợp tác xã:Căn cứ theo quy định của Luật hợp tác xã thì tài sản của hợp tác xã bao gồm vốn điều lệ, vốn hoạt động, và các khoản trợ cấp, hỗ trợ từ Nhà nước, từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài và các nguồn thu hợp khác cũng như các tài sản khác, được xác định là những tài sản, độc lập, và có sự phân định rõ ràng với các tài sản khác của thành viên hợp tác xã, được hình thành theo các hình thức góp vốn và huy động vốn nhất định, cũng như có cách thức phân phối lợi nhuận riêng theo quy định của pháp luật và điều lệ của hợp tác xã. Ngoài ra khi hợp tác xã đang còn hoạt động, hợp tác xã cũng có những quy chế riêng trong việc xử lý các khoản lỗ, khoản nợ của hợp tác xã khi kết thúc năm tài chính thông qua việc xử ký giảm lỗ, hay sử dụng quỹ dự phòng tài chính để bù đắp, hoặc chuyển lại sang năm sau. Đồng thời, trong quy định tại Điều 15 Luật hợp tác xã năm 2015 thì các thành viên của hợp tác xã cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ hay nghĩa vụ tài chính khác của hợp tác xã trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã. Thứ tư, Hợp tác xã, trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, hoàn toàn có thể nhân danh mình để tự tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.Có thể thấy, với những khía cạnh được phân tích nêu trên, Hợp tác xã hoàn toàn đáp ứng điều kiện để được xác nhận là một pháp nhân theo quy định của pháp luật, cụ thể là Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015, và tư cách pháp nhân của tổ chức này cũng đã được khẳng định rõ ràng trong khái niệm hợp tác xã theo khoản 1 Điều 3 Luật hợp tác xã năm 2012. Để được tư vấn, bạn đọc vui lòng liên hệ: Hotline: 098.1214.789 Mọi thông tin chi tiết có thể xem tại website: luatgiaphat.com/luatgiaphat.vn Luật Gia Phát – Niềm tin pháp lý doanh nghiệp! |