Phần tích thực trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam hiện nay

Luật Kinh doanh Bảo hiểm (sửa đổi) vừa được thông qua tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội XV ngày 16/6/2022 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2023, với điều khoản chuyển tiếp. Giới phân tích và cộng đồng doanh nghiệp tin tưởng Luật Kinh doanh Bảo hiểm mới sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển lâu dài của thị trường bảo hiểm.

GẤP RÚT XÂY DỰNG HẠ TẦNG CƠ SỞ DỮ LIỆU

Theo Bộ Tài chính, hiện có 77 doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường, bao gồm: 31 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 19 công ty bảo hiểm nhân thọ, 2 công ty tái bảo hiểm, 24 công ty môi giới bảo hiểm và 1 chi nhánh công ty bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài. Ngoài ra, số liệu từ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cho thấy, tính đến hết tháng 5/2022, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường ước đạt 94.279 tỷ đồng (tăng trưởng 16% so với cùng kỳ 2021).

Doanh thu thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 27.564 tỷ đồng, tăng 13,1 % so với cùng kỳ, bồi thường 7.658 tỷ đồng, tỷ lệ bồi thường 27,8% (chưa bao gồm dự phòng bồi thường).

Phần tích thực trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam hiện nay

Đối với lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, tổng số hợp đồng khai thác mới của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là hơn 1,1 triệu hợp đồng, giảm 19,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Phí bảo hiểm khai thác mới 5 tháng năm 2022 giảm 4,8% đạt 19.547 tỷ đồng. Số lượng hợp đồng có hiệu lực đến cuối kỳ là hơn 13 triệu, tăng 7,1%. Tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt là 66.715 tỷ đồng, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước.

Giới phân tích nhận định rằng, thị trường bảo hiểm Việt Nam còn nhiều dư địa để phát triển, nhờ sự hỗ trợ từ kinh tế vĩ mô ổn định. Từ năm 2000 – 2019, GDP tăng trưởng trung bình khoảng 6,5%/năm, nhưng sau đó rơi xuống còn 2,91% vào năm 2020 và 2,58% vào năm 2021 do tác động của đại dịch Covid-19.

Ngân hàng Thế giới dự báo GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng 5,3% vào năm 2022, trong khi đó Chính phủ đặt mục tiêu GDP sẽ tăng trưởng từ 6,0-6,5%.

GDP bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp nhưng đang tăng mạnh trong những năm gần đây. Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 của Chính phủ, GDP bình quân đầu người của Việt Nam được kỳ vọng đạt 3.900 USD trong năm 2022. Việt Nam đặt mục tiêu GDP bình quân đầu người đạt 5.000 USD vào năm 2025 và đạt hơn 12.000 USD (quốc gia phát triển) vào năm 2045.

Ông Ngô Việt Trung, Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính, nhận định dân số Việt Nam đang trong độ tuổi vàng. Đó là cơ hội phát triển rất nhiều sản phẩm bảo hiểm nhân thọ như: bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm liên kết chung, bảo hiểm hưu trí...; bên cạnh đó, kinh tế phát triển, đầu tư xây dựng mới ngày càng nhiều, lưu thông buôn bán giữa các địa phương, các quốc gia ngày càng gia tăng, tạo nhiều cơ hội cho việc phát triển các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ.

Triển vọng là vậy, song ông Trung cũng lưu ý nhiều thách thức mà Việt Nam phải đối mặt nếu muốn phát triển thị trường bảo hiểm, trong đó nhấn mạnh kênh phân phối đại lý bảo hiểm còn thiếu chuyên nghiệp, thị trường bảo hiểm vẫn còn hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, thiếu hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong chia sẻ thông tin phòng, chống gian lận bảo hiểm, làm giảm năng lực cạnh tranh của toàn thị trường.

Cùng quan điểm với Cục trưởng Ngô Việt Trung, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Nga, Viện trưởng Viện Phát triển bảo hiểm Việt Nam chỉ ra một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trên là thị trường đang thiếu cơ sở dữ liệu chung cho toàn ngành.

“Hiện nay, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam đã xây dựng cơ sở dữ liệu bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới và cơ sở dữ liệu về bồi thường bảo hiểm xe tự nguyện. Tuy nhiên, các doanh nghiệp bảo hiểm chưa thực sự tự nguyện chia sẻ thông tin nên việc thống kê không được đầy đủ và chính xác, dẫn đến các thông tin chiết xuất từ hệ thống không mang lại hiệu quả quản lý như kỳ vọng. Hệ thống phần mềm quản lý đại lý bảo hiểm cũng chỉ có dữ liệu đại lý của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ”, bà Nga nói.

Ngay tại cơ quan quản lý (Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm) cũng chưa có hệ thống dữ liệu chung toàn ngành. Tất cả mới chỉ nằm ở dạng đề án.

Tại các doanh nghiệp bảo hiểm, hệ thống công nghệ thông tin đều đã được xây dựng nhằm phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp nhưng trên bình diện chung toàn thị trường, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm đang sử dụng một hệ thống công nghệ thông tin khác nhau, không có sự liên thông dữ liệu chung, tình trạng phân tán dữ liệu, gây khó khăn cho công tác quản lý, chia sẻ dữ liệu, chia sẻ thông tin… trong toàn ngành dẫn đến tình trạng trục lợi bảo hiểm đã xảy ra.

THỊ TRƯỜNG TÁI BẢO HIỂM NHƯỜNG SÂN CHO NƯỚC NGOÀI

Báo cáo “Thị trường tài chính Việt Nam 2021 và triển vọng 2022” của Viện Đào tạo BIDV nhận định thị trường tái bảo hiểm của Việt Nam còn tương đối sơ khai. Tới cuối năm 2021, mới chỉ có hai doanh nghiệp tái bảo hiểm trong nước là Tổng công ty cổ phần Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare) và Tổng công ty cổ phần Tái bảo hiểm PVI (PVI Re), với tổng lợi nhuận sau thuế đạt hơn 490 tỷ đồng năm 2021 (theo báo cáo tài chính của hai doanh nghiệp).

Cũng theo báo cáo trên, tính đến năm 2020, phí hoạt động tái bảo hiểm đạt 21 nghìn tỷ đồng trong tổng số 186 nghìn tỷ đồng phí bảo hiểm gốc (chiếm khoảng 11,3%). Trong đó, hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ chiếm tới 86,02% tổng số phí tái bảo hiểm.

Theo nhóm nghiên cứu, việc thị trường tái bảo hiểm còn nhỏ cũng ảnh hưởng tới khả năng phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung. Bởi, các doanh nghiệp tái bảo hiểm có vai trò quan trọng trong phân tán rủi ro, góp phần ổn định tài chính cho công ty bảo hiểm gốc, đặc biệt là trong những trường hợp xảy ra các sự cố thảm họa hay tích lũy rủi ro.

Bà Hoàng Tú Anh, Trưởng ban Kinh doanh của PVI Re, cho biết năm 2020, thị phần của hai nhà tái bảo hiểm VINARE và PVI Re đã tăng lên nhưng chưa đến 20% (VINARE 10% và PVI Re 7%). Toàn bộ thị phần còn lại thuộc về các nhà tái bảo hiểm nước ngoài. Điều này dẫn đến tình trạng phụ thuộc nhiều vào các nhà tái bảo hiểm nước ngoài, làm lệch cán cân lưu chuyển ngoại tệ. Tình trạng này không chỉ xuất hiện tại thị trường Việt Nam mà còn diễn ra tại hầu hết các thị trường bảo hiểm đang phát triển trên thế giới.

Bà Hoàng Tú Anh chỉ ra hai lý do khiến thị phần của các công ty tái bảo hiểm trong nước còn khiêm tốn. 

Thị trường tái bảo hiểm còn sơ khai, phần lớn thị phần nằm trong tay các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, khiến cán cân lưu chuyển ngoại tệ mất cân đối.

Thứ nhất, cả PVI Re và VINARE đều tập trung vào mảng bảo hiểm thương mại vốn chỉ chiếm khoảng 40% doanh thu thị trường bảo hiểm gốc, trong khi 60% còn lại là các sản phẩm bán lẻ (nghiệp vụ con người, xe cơ giới, sức khỏe), vốn thuộc mức giữ lại của doanh nghiệp bảo hiểm gốc và nếu có thu xếp tái bảo hiểm thì cũng chỉ dành cho một số thị trường quốc tế (ví dụ như nghiệp vụ xe cơ giới). Dù vậy, lợi nhuận từ nghiệp vụ này thường mỏng, thậm chí thua lỗ do có tỷ lệ tổn thất cao, chi phí khai thác lớn.

Thứ hai, do thị trường tái bảo hiểm Việt Nam chỉ có hai doanh nghiệp nội, lại không có lợi thế về vốn nên việc thu xếp tái bảo hiểm phụ thuộc nhiều vào các nhà tái bảo hiểm nước ngoài, đặc biệt trong các rủi ro có trách nhiệm bảo hiểm lớn, vượt quá khả năng giữ lại của các doanh nghiệp bảo hiểm/tái bảo hiểm trong nước, nhất là các nghiệp vụ đặc thù như: hàng không, dầu khí. Ngoài ra, các công ty tái bảo hiểm trong nước cũng chưa đáp ứng được các yêu cầu cao về xếp hạng tín nhiệm (rating) của khách hàng bảo hiểm gốc…

Cũng theo bà Tú Anh, thị trường Việt Nam vẫn đang thu xếp tái bảo hiểm theo các phương pháp truyền thống, chủ yếu là tái bảo hiểm tỷ lệ. Các hình thức hợp đồng chịu rủi ro chung (Pool), tái bảo hiểm tài chính hoặc chuyển giao rủi ro thay thế (ART) không phổ biến và chưa xuất hiện nhiều tại thị trường Việt Nam.

Với sự phát triển của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và tái bảo hiểm nói riêng, các doanh nghiệp tái bảo hiểm trong nước còn rất nhiều dư địa để mở rộng và phát triển cũng như nâng cao thị phần.

Trước tình hình đó, các doanh nghiệp tái bảo hiểm trong nước cần nâng cao vị thế, năng lực của mình qua việc đẩy mạnh tăng vốn, nâng mức xếp hạng tín nhiệm, cơ cấu tổ chức quản lý theo chuẩn quốc tế, xây dựng chương trình quản trị rủi ro doanh nghiệp chặt chẽ, đa dạng hóa danh mục rủi ro…

Bên cạnh đó, sự hỗ trợ từ các cơ quan quản lý, bộ, ngành là yếu tố quan trọng góp phần giúp các doanh nghiệp tái bảo hiểm trong nước nâng cao cơ hội cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, đẩy mạnh phát triển thị trường bảo hiểm/tái bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. Qua đó, giúp thị trường nâng cao tính chuyên môn hóa và hoạt động chuyên nghiệp hơn.

Kinh tế – xã hội nước ta năm 2019 diễn ra trong bối cảnh: Kinh tế thế giới, thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm lại; cạnh tranh chiến lược và căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn gia tăng; giá vàng tăng cao, giá dầu thô biến động mạnh; rủi ro trên thị trường quốc tế tăng lên; nhiều quốc gia nới lỏng chính sách tài chính, tiền tệ… Trong khi đó, những khó khăn, hạn chế nội tại của nền kinh tế và thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống.

Mặc dù vậy, tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn đạt khá cao, năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng tiếp tục được cải thiện. Cùng với đó, cơ chế, chính sách trong lĩnh vực bảo hiểm tiếp tục được hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tăng cường công tác quản lý tài chính, quản trị doanh nghiệp và đơn giản hoá thủ tục hành chính đã giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài (DNBH) tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng ổn định, mở rộng địa bàn hoạt động kinh doanh, đa dạng hóa và tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm, tăng cường công tác quản lý tài chính.

Trong bối cảnh đó, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đã có một số điểm sáng tích cực:

          Thứ nhất, về quy mô thị trường: Đến hết năm 2019, toàn thị trường có 30 DNBH phi nhân thọ, 01 chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài và 02 doanh nghiệp tái bảo hiểm. Một số chỉ tiêu cơ bản của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong năm 2019 tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định như: Tổng tài sản của các DNBH phi nhân thọ ước đạt 89.447 tỷ đồng, tăng 6,9% so với cùng kỳ 2018. Đầu tư trở lại nền kinh tế của các DNBH phi nhân thọ ước đạt 46.591 tỷ đồng, tăng 10,1 % so với cùng kỳ 2018. Tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc của các DNBH phi nhân thọ ước đạt 52.387 tỷ đồng, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2018. Tổng số tiền bồi thường bảo hiểm gốc của các DNBH phi nhân thọ ước là 21.202 tỷ đồng, tăng 4,9% với cùng kỳ năm 2018.

          Thứ hai, về cơ chế chính sách: Trong năm 2019, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg ngày 26/6/2019 về việc thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp. Bộ Tài chính cũng đã trình Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (thay thế Nghị định số 103/2008/NĐ-CP). Ngoài ra, các chính sách bảo hiểm khác như bảo hiểm tài sản công, bảo hiểm bảo lãnh thông quan cũng được triển khai nghiên cứu.

Việc trình Chính phủ ban hành Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg về thực hiện hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, góp phần thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội giao cho Chính phủ tại Nghị quyết số 32/2016/QH14 ngày 23/11/2016 về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp. Chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp được thực hiện phù hợp với khả năng cân đối ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, thông qua việc hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp cho một số tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp, đối tượng bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm và trong phạm vi địa bàn nhất định nhằm thực hiện chính sách an sinh xã hội và thực hiện các chương trình mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp của Chính phủ.

Trên cơ sở đề nghị xây dựng Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, Chính phủ đã có Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 12/11/2019 về việc thông qua đề nghị xây dựng Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, theo đó Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công an và các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng Nghị định trình Chính phủ trong vòng 6 tháng kể từ ngày ký Nghị quyết. Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đóng góp tích cực trong việc bù đắp tổn thất, mất mát về người và tài sản, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia giao thông. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện, chính sách bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới cũng cần phải hoàn thiện để đảm bảo sự phù hợp, đồng bộ và nhất quán với hệ thống pháp luật hiện hành; đồng thời khắc phục những tổn tại, hạn chế về chính sách trong thực tiễn. Hiện nay, Bộ Tài chính đang tiến hành dự thảo Nghị định theo quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, dự kiến sẽ trình Chính phủ xem xét, ban hành vào năm 2020.

Đối với bảo hiểm tài sản công, thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ giao, hiện nay Bộ Tài chính đã phối hợp với cơ quan liên quan, doanh nghiệp bảo hiểm, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam để nghiên cứu đề xuất danh mục tài sản phải mua bảo hiểm tài sản công và cơ chế bảo hiểm đối với tài sản công theo quy định tại Khoản 2 Điều 135 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật Quản lý tài sản công.

Đối với bảo hiểm bảo lãnh thông quan, Bộ Tài chính đang phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng đề án thí điểm bảo lãnh thông quan bao gồm dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện thí điểm cơ chế bảo lãnh thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; dự thảo Nghị định hướng dẫn Nghị quyết và dự thảo Đề án chi tiết triển khai cơ chế bảo lãnh thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Đề án được triển khai sẽ tạo điều kiện cho DNBH tham gia vào việc thực hiện bảo lãnh thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, qua đó mở rộng hoạt động kinh doanh của các DNBH, góp phần thúc đẩy vào sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm.

          Thứ ba, các DNBH phi nhân thọ tiếp tục mở rộng địa bàn, mạng lưới kinh doanh: Năm 2019, các DNBH phi nhân thọ mở thêm hơn 9 chi nhánh; nâng tổng số chi nhánh lên đến 635; hoạt động tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Các chi nhánh mới được thành lập đã tổ chức triển khai hoạt động kinh doanh, góp phần vào tăng trưởng doanh thu chung của toàn thị trường. Bên cạnh đó, 8 chi nhánh hoạt động không hiệu quả cũng được các DNBH thu hẹp để đảm bảo hiệu quả kinh doanh.

          Thứ tư, về công tác phát triển thị trường, đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm

Trong năm 2019, có khoảng trên 1.500 sản phẩm thuộc các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ và nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe được các DNBH triển khai trên thị trường, cơ bản đáp ứng nhu cầu bảo hiểm ngày càng đa dạng của các tổ chức, cá nhân; góp phần ổn định nền kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Đối với sản phẩm bảo hiểm sức khỏe, Bộ Tài chính đã phê chuẩn sản phẩm bảo hiểm sức khỏe theo đề nghị của các doanh nghiệp bảo hiểm.

Đối với sản phẩm bảo hiểm vật chất xe ô tô, Bộ Tài chính chấp thuận đăng ký, thường xuyên giám sát việc tuân thủ quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô đã được Bộ Tài chính chấp thuận đăng ký.

Bên cạnh các sản phẩm bảo hiểm được chủ động triển khai, năm qua, các DNBH còn tích cực tham gia tiếp tục chương trình bảo hiểm chính sách của Nhà nước, các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc, góp phần ổn định phát triển kinh tế, an sinh xã hội như:

Chính sách bảo hiểm theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản và Nghị định số 17/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ sửa đổi Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, tạo điều kiện hỗ trợ cho ngư dân, chủ tàu yên tâm vươn khơi bám biển, phát triển hoạt động khai thác hải sản xa bờ, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc. Bộ Tài chính đã tổ chức làm việc, trao đổi thảo luận với DNBH, Bộ NN&PTNT về các khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình triển khai và thành lập các đoàn công tác làm việc tại các địa phương về việc thực hiện chính sách bảo hiểm theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP.

Bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc bồi thường kịp thời, nhanh chóng; giúp các tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do cháy, nổ chủ động khắc phục hậu quả và khôi phục sản xuất, kinh doanh; đảm bảo môi trường đầu tư an toàn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài để thu hút nguồn vốn đầu tư ngoại. Ngoài ra, các DNBH còn đóng góp kinh phí, hỗ trợ tích cực cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy (PCCC) như: Trang bị phương tiện, thiết bị cho lực lượng Cảnh sát PCCC; tuyên truyền, khen thưởng, phổ biến kiến thức pháp luật về PCCC….

Bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng, góp phần huy động nguồn lực từ thị trường bảo hiểm để bảo vệ cho các công trình xây dựng trước các rủi ro, đảm bảo khôi phục tổn thất nhanh chóng, đầy đủ để hoạt động xây dựng được thông suốt, tạo sự yên tâm cho các chủ đầu tư, nhà thầu tư vấn, người lao động tham gia hoạt động đầu tư xây dựng.

Đồng thời, trong năm 2019, Bộ Tài chính tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan trong nước, các đối tác nước ngoài (GIZ, Ngân hàng thế giới…) để nghiên cứu chính sách và phát triển sản phẩm bảo hiểm rủi ro thiên tai.

          Thứ năm, về công tác quản trị doanh nghiệp: Trong năm 2019, các DNBH phi nhân thọ đã đề nghị Bộ Tài chính chấp thuận thay đổi 08 chức danh Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên; 06 chức danh Chuyên gia tính toán dự phòng và khả năng thanh toán – là các chức danh quản trị, điều hành quan trọng nhằm tăng cường công tác quản trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các vị trí quản trị, điều hành yêu cầu nghiệp vụ chuyên sâu trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm như Trưởng Ban kiểm soát, Kế toán trưởng, Giám đốc chi nhánh, Trưởng bộ phận nghiệp vụ cũng được các DNBH phi nhân thọ quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm.

Quy trình nghiệp vụ (phát triển sản phẩm sản phẩm, khai thác, giám định, bồi thường, tái bảo hiểm…) và hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ cũng được các DNBH phi nhân thọ quan tâm thường xuyên đánh giá, rà soát, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu theo quy định hiện hành, đồng thời tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác quản trị doanh nghiệp, góp phần giảm thiểu các rủi ro trong kinh doanh, kiểm soát tình trạng nợ phí bảo hiểm.

          Thứ sáu, năng lực tài chính của các DNBH phi nhân thọ tiếp tục được tăng cường: Trong năm 2019, đã có 04 DNBH phi nhân thọ có hồ sơ đề nghị tăng vốn điều lệ và được Bộ Tài chính cấp Giấy phép điều chỉnh tăng vốn điều lệ với tổng số vốn chấp thuận tăng lên là 1.526 tỷ đồng.

Theo ước tính, tổng nguồn vốn chủ sở hữu của các DNBH phi nhân thọ ước đạt 30.118 tỷ đồng, tăng 12,06% so với cùng kỳ 2018; tổng dự phòng nghiệp vụ thuộc trách nhiệm giữ lại của các DNBH phi nhân thọ ước đạt 21.638 tỷ đồng, tăng 0,07% so với cùng kỳ năm 2018.

(Nguồn: Bản tin Thị trường Bảo hiểm Toàn cầu – Cục Quản lý, Giám sát Bảo hiểm – BTC)