So sánh ý thức và nhận thức

Sự khác biệt giữa ý thức và nhận thức

Ý thức và Nhận thức, cả hai từ dường như mang cùng một ý nghĩa, nhưng chúng khác nhau về ngữ nghĩa vì có ự khác biệt giữa chúng. Cả hai thuật ngữ n

So sánh ý thức và nhận thức

Ý thức Nhận thức

Ý thức và Nhận thức, cả hai từ có vẻ mang ý nghĩa giống nhau, nhưng khác với ngữ nghĩa vì có sự khác biệt giữa chúng. Cả hai thuật ngữ này có chức năng như danh từ trong tiếng Anh. Nhận thức là có kiến ​​thức về một cái gì đó. Mặt khác, ý thức là trạng thái nhận thức được cái gì đó và điều này có thể được coi là một định nghĩa tinh thần hơn. Khi một người có ý thức về điều gì đó, anh / cô ấy có thể cảm thấy hay cảm nhận nó mà không biết chính xác nó là gì. Ngược lại, ai đó trở nên ý thức về một điều gì đó có nghĩa là họ hiểu rõ hoặc anh / cô ấy đã hiểu đầy đủ về bản chất. Chúng ta hãy nhìn vào các điều khoản chi tiết.

Ý thức nghĩa là gì?

Nhận thức, như đã đề cập ở trên, là kiến ​​thức về cái gì tồn tại ở đâu đó . Nếu chúng ta nghĩ về một vật thể vật chất, chúng ta có thể chạm vào nó và cảm nhận được sự tồn tại của nó. Điều này có thể được định nghĩa đơn giản là nhận thức được đối tượng. Bằng cách chạm vào nó, chúng ta có thể xác định được hình dạng, kích thước và trọng lượng của vật. Điều quan trọng ở đây là người đó không cần phải có một sự hiểu biết đầy đủ về đối tượng mà họ cảm thấy. Nếu họ cảm nhận được điều đó, họ có thể nhận thức được nó. Hơn nữa, nhận thức không chỉ được áp dụng cho các vật thể vật lý. Người ta có thể nhận thức được cảm xúc, cảm giác và các mô hình cảm giác. Có thể nói rằng mọi người đều ý thức được hành động tự nguyện của họ. Hành động không tự nguyện có thể xảy ra mà không nhận thức của một người cụ thể bởi vì anh / cô ấy không liên quan đến hành động cố ý. Hơn nữa, nhận thức có thể được xác định là một khái niệm tương đối. Nhận thức về một cái gì đó có thể xảy ra ở mức độ khác nhau ở những người khác nhau. Điều đó có nghĩa khi một người trở nên nhận thức đầy đủ về điều gì đó, một người khác chỉ có thể nhận thức một phần về cùng một điều. Điều này phụ thuộc vào các yếu tố bên trong và bên ngoài của người như nhận thức giác quan, kiến ​​thức và khả năng nhận thức.

Mục lục

  • 1 Các giai đoạn của nhận thức
  • 2 Phân loại nhận thức
    • 2.1 Theo chủ nghĩa duy vật của Mác và Lênin
      • 2.1.1 Dựa vào trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng
      • 2.1.2 Dựa vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của sự vật
    • 2.2 Theo các học thuyết khác
  • 3 Chú thích
  • 4 Tham khảo
  • 5 Liên kết ngoài

Các giai đoạn của nhận thứcSửa đổi

Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong, như sau:

  1. Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy[2]. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:
    • Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức. Lenin viết: "Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan". Nếu dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn"[2].
    • Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn[2].
    • Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật[2].
    Giai đoạn này có các đặc điểm:
    • Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức[1].
    • Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật[1].
    • Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
  2. Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.
    • Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học[2].
    • Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ: "Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng" là một phán đoán vì có sự liên kết khái niệm "dân tộc Việt Nam" với khái niệm "anh hùng". Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện). Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng[2].
      Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau thì giữa đồng với các kim loại khác còn có các thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận[2].
    • Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ, nếu liên kết phán đoán "đồng dẫn điện" với phán đoán "đồng là kim loại" ta rút ra được tri thức mới "mọi kim loại đều dẫn điện". Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch[2].
      Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn[2].
    Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:
    • Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng[2].
    • Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng[2].
    Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật[1].
  3. Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói cách khác, thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được[2]. Do đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức[1]. Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế giới[1]. Do đó, sự nhận thức ở giai đoạn này có chức năng định hướng thực tiễn.

Nhận thức là gì?

Trước khi so sánh nhận thức và tình cảm, cần hiểu được những định nghĩa cơ bản về vấn đề này. Đầu tiên nhận thức là gì?

Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.

Theo quan điểm triết học Mac-Lenin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.

Như vậy, nhận thức là quá trình phản ánh năng động và sáng tạo hiện thực khách quan vào bộ não con người. Nhờ hoạt động nhận thức, chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh mà còn phản ánh cả hiện thực xung quanh mình. Đồng thời nhận thức cũng phản ánh cái hiện tại, cái đã qua và cái sẽ tới. Hoạt động này bao gồm nhiều quá trình khác nhau, thể hiện nhiều mức độ phản ánh hiện thực khách quan và mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan.

Dựa vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành hai mức độ:

– Nhận thức cảm tính: phản ánh thuộc tính bên ngoài( cảm giác và tri giác). Ví dụ: khi nhìn thấy một chiếc máy tính xách tay thì nhận thức cảm tính cho chúng ta thấy được màu sắc, kích thước , nhãn hiệu của chiếc máy tính

– Nhận thức lí tính: phản ánh thuộc tính bên trong, bản chất của sự vật. Ví dụ: khi nhìn thấy chiếc máy tính xách tay, bằng nhận thức lí tính ta biết được chất lượng của chiếc máy tính