Sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản

So sánh nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư sản

Sự giống nhau nhau giữa nhà nước XHCN và nhà nước tư sản

Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư sản đều là cơ sở tồn tại của xã hội loại người tại các giai đoạn lịch sử nhất định.

Sự khác nhau giữa nhà nước XHCN và nhà nước tư sản

Chúng ta có thể phân biệt nhà nước XHCN và nhà nước tư sản qua bảng sau:

Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Nhà nước tư sản (TS)
Khái niệm Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Là tổ chức mà thông qua đó, đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; đó là một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chuyên chính vô sản được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước tư sản là kiểu nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong lòng hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên danh nghĩa thuộc về nhân dân; cơ quan lập pháp là cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư trong xã hội do bầu cử lập nên; thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiềm chế, đối trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng trong bầu cử nghị viện và tổng thống; hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản là cộng hòa và quân chủ lập hiến.

Cơ sở kinh tế Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có đặc trưng là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, lao động là nghĩa vụ đối với mọi người, thực hiện chế độ phân phối theo số lượng và chất lượng lao động.

Lưu ý: chế độ công hữu không phải là phương tiện để xây dựng CNXH mà là mục tiêu cần đạt tới của CNXH (quá trình này diễn ra phụ thuộc vào sự phát triển của llsx)

Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất (chủ yếu dưới dạng nhà máy, hầm mỏ, đồn điền…), được thực hiện thông qua hình thức bóc lột giá trị thặng dư.
Cơ sở xã hội Quan hệ sản xuất liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân và tầng lớp trí thức, có đặc trưng là: quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân. Cơ sở xã hội của nhà nước tư sảnlà một kết cấu xã hội phức tạp trong đó có haigiai cấpcơ bản, cùng tồn tại song song có lợi ích đối kháng với nhau là giai cấp tư sản và giai cấpvô sản. Trong hai giai cấp này giai cấp giữ vị trí thống trị là giai cấp tư sản, mặc dù chỉ chiếm thiểu số trong xã hội nhưng lại là giai cấp nắm hầu hết tư liệu sản xuất của xã hội, chiếm đoạt những nguồntài sảnlớn của xã hội. Giai cấp vô sản là bộ phận đông đảo trong xã hội, là lựclượnglao động chúnh trong xã hội. Về phương diện pháp lý họ được tự do, nhưng không có tư liệu sản xuất nên họ chỉ là người bánsức lao độngcho giai cấp tư sản, là đội quân làm thuê cho giai cấp tư sản. Ngoài hai giai cấp chính nêu trên, trong xã hội tư sản còn có nhiều tầng lớp xã hội khác như: nông dân, tiểu tư sản, trí thức…
Bản chất * Tính giai cấp

– Sản phẩm của cuộc cách mạng do giai cấp công nhân và nông dân tiến hành

– Luôn đặt dưới sự lãnh đạo của đượcS, đội tiên phong giai cấp công nhân và nông dân.

– Là công cụ bảo vệ lợi ích kinh tế, chính trị, tư tưởng của giai cấp công nhân.

+ Kinh tế: từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân, xây dựng và bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân, bảo vệ địa vị của người lao động

+ Chính trị: nhà nước là công cụ của nhân dân lao động trấn áp sự phản kháng của gc thống trị cũ đã bị lật đổ và các thế lực thù địch, phản động, phản cách mạng. Trấn áp của đại đa số đối với thiểu số nhỏ có hành vi chống đối

+ Tư tưởng: truyền bá rộng rãi và bảo vệ vững chắc những tư tưởng CM, KH của chủ nghĩa Mác – Lênin.

* Tính xã hội:

– Là tổ chức của quyền lực chung của xã hội, có sứ mệnh Tổ chức và quản lý các mặt của đời sống, nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

– Không chỉ quản lý, nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện họat động kinh tế – xã hội và quan tâm đến vấn đề con người.

>>> Xem thêm: So sánh bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản

* Tính giai cấp

– Thời kì 1: “NNTB là UB giải quyết công việc chung của gia cấp tư sản”: nhà nước đối xử với các giai cấp tư sản hoàn toàn như nhau => nhà nước đều là phương tiện, công cụ giải quyết công việc chung.

– Thời kì 2: “……………tập đoàn TB lũng đoạn” => NNTB sẵn sang tước đoạt, chà đạp quyền lợi nhà tư bản nhỏ và vừa dưới danh nghĩa quốc hữu hóa vì quyền lợi quốc gia.

* Tính xã hội

Đặc điểm chung qua các thời kì:

– Giai đoạn của CNTB tự do cạnh tranh: TS và với là đồng minh chống phong kiến.

+ Cạnh tranh tự do cá thể

+ Chưa có yếu tố độc quyền

– Giai đoạn của CNTB độc quyền lũng đoạn nhà nước hay gđ chủ nghĩa đế quốc: bộ máy bạo lực đàn áp phong trào đấu tranh.

+ Hình thành tập đoàn TB lớn sở hữu tập thể.

+ Xuất hiện sở hữu TB nhà nước (Tập đoàn tư bản khống chế, không phải sở hữu toàn dân).

– Giai đoạn của CNTB hiện đại:

+ Yếu tố tư nhân hóa phát triển mạnh.

+ Người lao động có sở hữu tư liệu sản xuất.

Bộ máy nhà nước * Đặc điểm:

– Mang tính nhân dân sâu sắc: tổ chức và hoạt động trên cơ sở sự ủy nhiệm của ND

– Luôn đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền LP, HP, TP (có sự chuyên môn hóa cao, hạn chế là thiếu đồng bộ).

– Các cơ quan quản lý kinh tế phát triển hoàn thiện để thực hiện quản lý mọi mặt đời sống xã hội và các cơ quan cưỡng chế chuyên nghiệp ngày càng tổ chức thu hẹp lại.

– Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

* Các bộ phận cấu thành:

– Nguyên thủ quốc gia: do quốc hội bầu, đứng đầu và thay mặt nhà nước.

– Cơ quan quyền lực nhà nước:

+ Quốc hội: do nhân dân bầu.

+ Hội đồng nhân dân: cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, nhân dân địa phương bầu.

– Cơ quan hành chính nhà nước:

+ Chính phủ: quốc hội thành lập.

+ UBND: HĐND thành lập.

– Cơ quan xét xử: tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ.

– Cơ quan kiểm sát: có thẩm quyền rộng.

– Cơ quan quốc phòng, an ninh: tổ chức với đặc thù riêng.

* Đặc điểm:

– Nhà nước tư sản có bộ máy phát triển khá phức tạp. Thông thường, sau khi lật đổ được chế độ phong kiến giai cấp tư sản ở các nước kế thừa bộ máy nhà nước cũ, hoàn thiện nó cho thích ứng với điều kiện mới. Ngay cả ở Pháp, nơi cách mạng tư sản được coi là triệt để, bộ máy nhà nước cũ vẫn được duy trì.

– Một trong những nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức bộ máy nhà nước tư sản là nguyên tắc phân chia quyền lực.

– Đa nguyên, đa đảng: ảnh hưởng mạnh mẽ đến tổ chức họat động.

– Nguyên tắc dân chủ.

* Các bộ phận cấu thành:

– Nghị viện: lập pháp (1 viện, 2 viện).

– Nhà vua hoặc tổng thống.

– Chính phủ: hành pháp – thủ tướng..

– Hệ thống tòa án.

– Hệ thống quân đội – cảnh sát.

– Bộ máy hành chính.

Chứng năng * Đối nội:

– Tổ chức và quản lý kinh tế

+ CNXH chỉ có thể cách mạng sức sống và thắng lợi của mình bằng việc đưa ra và thực hiện một kiểu tổ chức lao động cao hơn so với CNTB.

+ Nhà nước xã hộiCN thay mặt nhân dân trực tiếp quản lý tư liệu sản xuất của xã hội.

=> Phải trực tiếp tổ chức và quản lý xã hội

– Giữ vững an ninh chính trị, trấn áp sự phản kháng của các lực lượng chống đối: quan trọng trong gđ CM mới thành công.

– Bảo vệ trật tự pháp luật, các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong xã hội: đòi hỏi khách quan của xã hội.

+ Cần có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, kỹ thuật pháp lý cao.

+ Thường xuyên ktra giám sát việc thực hiện pháp luật.

=> chú trọng phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật.

– Tổ chức và quản lý các mặt khác của xã hội: nếu thực hiện tốt sẽ thể hiện tính ưu việt, uy tín và vị thế nhà nước XHCN.

+ Văn hóa: xây dựng nền văn hóa mới, tiên tiến, dân tộc, đại chúng

+ Giáo dục, đào tạo: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài

+ Khoa học, công nghệ

+ Y tế, môi trường

+ Dân số, lao động, việc làm:

+ Giai cấp, dân tộc, tôn giáo: đảm bảo sự bình đẳng, đoàn kết,tôn trọng tự do tín ngưỡng.

* Đối ngoaị:

– Bảo vệ Tổ quốc: coi đây là nhiệm vụ chiến lược.

+ Chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; XD nền quốc phòng toàn dân;…

– Mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nhà nước khác, các tổ chức quốc tế:

+ Củng cố và tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác lẫn nhau trên tinh thần quốc tế vô sản.

+ Mở rộng quan hệ quốc tế với các nước có chế độ chính trị khác nhau và các tổ chức quốc tế.

– Ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ trên thế giới.

– Tham gia giải quyết các vấn đề chung của thế giới.

* Củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu tư sản: thực hiện bằng nhiều biện pháp

– Dùng pháp luật đề ghi nhận quyền sở hữu tài sản là một quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

– Dùng các quy định của luật dân sự và các hình phạt của luật hình để bảo vệ quyền sở hữu và trừng phạt những hành vi xâm phạm.

=> Nhà nước tư sản tuyên bố thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu của tất cả các chủ sở hữu trong xã hội, chủ yếu là bảo vệ quyền lợi cuả giai cấp tư sản vì phần lớn tài sản nằm trong tay giai cấp này.

* Chức năng trấn áp: bảo vệ địa vị thống trị và thiết lập trật tự xã hội.

– Sử dụng bộ máy bạo lực đàn áp các cuộc đấu tranh,trấn áp hành vi xâm phạm trật tự xã hội.

– Sử dụng phương tiện thông tin đại chúng tác động đời sống tinh thần toàn xã hội, tuyên truyền cho hệ tư tưởng tư sản, tê liệt tinh thần phản kháng.

* Chức năng kinh tế – xã hội:

– Giai đoạn đầu: chủ yếu tập trung vào các hoạt động nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản mà không quan tâm nhiều đến giải quyết các vấn đề bức bách trong xã hội.

– Bắt đầu can thiệp vào cuối giai đoạn thứ 2

+ Mục đích là để tạo ra các đk đảm bảo vật chất kĩ thuật, pháp lý và chính trị cho các họat động sản xuất kinh doanh.

+ Điều tiết nền kinh tế theo hai hướng gần như đối lập:

  • Tác động sự cân đối của nền kinh tế tạo sự ổn định về kinh tế dẫn đến sự ổn định xã hội
  • Khuyến khích cạnh tranh để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.

– Giai đoạn 3: do sự phát triển các phong trào dân chủ dân sinh, do sự phát triển của trình độ xã hội, do sự thay đổi của bầu không khí chính trị,do ảnh hưởng phát triển cách mạng trên thế giới mà nhiều NNTS đã chú ý giải quyết các vấn đề xã hội vì quốc kế dân sinh.

* Tiến hành chiến tranh xâm lược khi có điều kiện: chức năng cơ bản ở giai đoạn 1 và 2.

* Phòng thủ và bảo vệ đất nước.

* Xúc tiến và thành lập các liên minh trên thế giới: giai đoạn 3.

Hình thức nhà nước * Hình thức chính thể: Chính thể cộng hòa

– Quốc hội được quy định là cơ quan đại biểu cao nhất; cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; do dân trực tiếp bầu ra 1 cách dân chủ; chịu sự giám sát của nhân dân; thành viên Quốc hội có thể bị bãi hoặc miễn nhiệm; không có tình trạng QH bị nước… giải tán trước thời hạn; Quốc hội thành lập chính phủ, chủ tịch.

– Nguyên thủ quốc gia là mắt xích, cơ chế phối hợp hoạt động các cq tối cao trong nhà nước.

– Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, thực hiện chức năng hành pháp; chịu trách nhiệm trước Quốc hội; không có tình trạng tập thể chỉnh phủ bị giải tán.

– Đảng Cộng sản là chính đảng duy nhất nắm giữ quyền lực nhà nước.

* Hình thức cấu trúc nhà nước

– Đơn nhất: đầy đủ tính chất.

– Liên bang: liên minh trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng-> nhập hay tách là tự quyết, không ép buộc.

* Chế độ chính trị: dân chủ xã hội chủ nghĩa, giáo dục thuyết phục là biện pháp hàng đầu.

>>> Xem thêm:

  • Các kiểu nhà nước trong lịch sử thế giới
  • Có mấy hình thức cấu trúc nhà nước? Dấu hiệu nhận biết?
* Hình thức chính thể

– Chính thể quân chủ: hạn chế

+ Quân chủ nhị hợp: vua bị hạn chế quyền lập pháp, hành pháp thì rộng rãi, quyền lập pháp do nghị viện đảm nhiệm

+ Quân chủ nghị viện (đại nghị): vua chỉ mang tính biểu tượng, không thực quyền, nghị viện thực hiện quyền lp, chính phủ thực hiện quyền hành pháp (chính phủ bị quy định bởi nghị viện trên cơ sở Đảng chiếm đa số ghế ở nghị viện, cp có thể bị nv bất tín nhiệm).

– Chính thể cộng hòa

+ Cộng hòa tổng thống: nghị viện lp, tổng thống hp, tổng thống = chính phủ.

+ Cộng hòa nghị viện: nghị viện lp, chính phủ hp,tổng thống đại diện quốc gia (t2 quân chủ đại nghị).

+ Cộng hòa hỗn hợp: tổng thống + nghị viện, nghị viện lp, tổng thống và cphủ hp, cphủ phải chịu trách nhiệm trước tổng thống và nghị viện.

* Hình thức cấu trúc nhà nước:

– Nhà nước đơn nhất: hai biến dạng

+ Cơ quan nhà nước ở địa phương phục tùng tuyệt đối cơ quan nhà nước ở TW.

+ Cơ quan nhà nước ở địa phương có quyền tự trị nhất đinh: do nhân dân bầu ra, nhà nước TW kiểm soát 1 cách gián tiếp.

– Nhà nước liên bang: hình thành bằng nhiều con đường như tự nguyện lien kết, mua hoặc xâm chiếm lãnh thổ của nước khác rồi nhập vào thành2 bang của mình (điển hình nhất là lminh Châu Âu: sau khi liên minh ra đời NNLM mới hình thành theo đúng nghĩa là có bộ máy nhà nước riêng, còn trước đó chỉ có liên minh các nhà nước nhằm thực hiện 1 mục tiêu về kinh tế, chính trị, quân sự….

* Chế độ chính trị:

– Xu hướng chung: xu hướng dân chủ ngày càng thể hiện rõ, nhà nước sử dụng phương pháp dân chủ để thực thi quyền lực nhà nước.

– Yếu tố phản dân chủ có nguy cơ quay trở lại.

>>> Xem thêm: So sánh so sánh hiến pháp tư sản và hiến pháp xã hội chủ nghĩa

Các tìm kiếm liên quan đến so sánh nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản: sự khác nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, sự khác biệt về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa với chế độ tư bản chủ nghĩa, khái niệm chủ nghĩa tư bản, so sánh chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, sự khác nhau giữa cnxh và cntb, so sánh, hệ thống chính trị tbcn và xã hộicn, so sánh kiểu nhà nước tư sản và kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa, bản chất của cntb, so sánh nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản chủ nghĩa, so sánh bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là gì?

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Là tổ chức mà thông qua đó, đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; đó là một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chuyên chính vô sản được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Nhà nước tư sản là gì?

Nhà nước tư sản là kiểu nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong lòng hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên danh nghĩa thuộc về nhân dân; cơ quan lập pháp là cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư trong xã hội do bầu cử lập nên; thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiềm chế, đối trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng trong bầu cử nghị viện và tổng thống; hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản là cộng hòa và quân chủ lập hiến.

5/5 - (38060 bình chọn)

Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình

23/11/2020

GS.TS.PHAN TRUNG LÝ

Nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội,

NGUYỄN TRUNG THÀNH

Phó Viện trưởng Viện Khoa học Môi trường và Xã hội.

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn
Tóm tắt: Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị...”[1]. Vì vậy, để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN, trước hết cần xây dựng bộ máy hành chính nhà nước liêm chính, hiệu lực, hiệu quả. Mục tiêu đó gắn liền với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN). Trong phạm vi bài viết này, các tác giả tập trung phân tích những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; vị trí, vai trò và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình nhằm đáp ứng yêu cầu của xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Từ khoá: Công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.
Abstract: The Resolution of the XII Congress of the Party has emphasized: “Continuation of development and improvement of the socialist rule-of-law socialist state led by the Communist Party is the core task to reform the political system...”. Therefore, in order to successfully develop a rule-of-law socialist state, first of all, it is necessary to establish an effective and effective state administrative apparatus with high integrity. That goal is associated with the implementation of publicity, transparency and accountability of state administrative agencies (the State's administrative agencies). Within the scope of this article, the authors focus on analysis of the basic characteristics of the Socialist State of Vietnam; positions, roles and issues for the implementation of publication, transparency and accountability to meet the requirements of development of a socialist rule of law in Vietnam
Keywords: Publication, transparency, accountability.
1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (ngày 29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của Đảng. Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển về chất trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Thể chế hoá quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Xuất phát từ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần được xây dựng trên cơ sở đáp ứng các nguyên tắc sau: (1) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; (2) Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng; (3) Khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự bình đẳng của mọi cá nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền, không có sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội; (4) Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; (5) Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa vụ của công dân được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện, thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước đặt dưới sự điều chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con người.
2. Vị trí, vai trò của công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong hoạt động của bộ máy nhà nước, “công khai” nghĩa là mọi hoạt động của Nhà nước phải được công bố hoặc phổ biến, truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm cho mọi người dân có thể tiếp cận được các quyết định của Nhà nước một cách dễ dàng. “Minh bạch” nghĩa là không những phải công khai mà còn phải trong sáng, không khuất tất, không rắc rối, không gây khó khăn cho công dân trong tiếp cận thông tin. Minh bạch luôn phải gắn với trách nhiệm, đòi hỏi Chính phủ và đội ngũ cán bộ, công chức phải công khai quá trình thực hiện công việc cho các bên quan tâm. Ở góc độ này, minh bạch có mối quan hệ chặt chẽ với trách nhiệm, vì có trách nhiệm mới có xu hướng công khai và đảm bảo các điều kiện cho công khai.
Sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản
Trách nhiệm giải trình được coi là một trong những yếu tố quan trọng của một nền chính trị dân chủ, giúp thiết lập và duy trì mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân. Trong mô hình quản trị nhà nước, giải trình giúp người dân biết được “Nhà nước đang làm gì và đang làm như thế nào?”. Giải trình là một phần của quản trị nhà nước đồng thời là yếu tố giúp tăng tính hợp pháp cũng như độ tin cậy của Nhà nước trong mắt người dân. Do vậy, trách nhiệm giải trình được hiểu là nghĩa vụ cung cấp thông tin một cách đầy đủ, rõ ràng về những dữ liệu do mình tạo ra và phải chịu trách nhiệm về hoạt động đó. Với ý nghĩa đó, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước bao gồm 2 nội dung cơ bản đó là nghĩa vụ cung cấp, lý giải thông tin và phải gắn với trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân giải trình.
Nhà nước pháp quyền XHCN là một mô hình nhà nước mà Việt Nam đang hướng tới, trong đó kết hợp giữa một số yếu tố cơ bản của “xã hội pháp quyền” với đặc thù của hệ thống chính trị nước ra, đó là hệ thống chính trị nhất nguyên, do một đảng chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Tính nhất nguyên còn thể hiện ở chỗ, mặc dù có tiếp thu những yếu tố hợp lý của các học thuyết chính trị, pháp lý khác, song nền tảng tư tưởng về tổ chức, vận hành của bộ máy nhà nước và quản lý xã hội là chủ nghĩa Mác Lênin. Vì vậy, việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và vận hành của một “xã hội pháp quyền” theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
“Xã hội pháp quyền” theo nghĩa hẹp thể hiện ở việc hạn chế sự tùy tiện trong việc sử dụng quyền lực nhà nước, mà điều này đòi hỏi phải “ràng buộc quyền lực vào các đạo luật được xây dựng rõ ràng và chặt chẽ”[2]. Đây chính là một đòi hỏi về sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực thi pháp luật, để có thể “buộc các quan chức chính quyền và công dân phải hành xử phù hợp với pháp luật”[3].
“Xã hội pháp quyền” theo nghĩa rộng được hiểu là “một hệ thống/cơ chế mà trong đó không có chủ đề nào, ngay cả nhà nước, đứng trên pháp luật; nơi mà pháp luật bảo vệ các quyền cơ bản và tất cả mọi người đều có thể tiếp cận với công lý”[4]. Hệ thông/cơ chế đó không thể xây dựng và vận hành được trong bối cảnh thiếu công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Để buộc mọi cá nhân, tổ chức, thiết chế, cả công và tư, đều phải tuân thủ pháp luật thì pháp luật phải được xây dựng một cách minh bạch, được công bố công khai, được áp dụng bình đẳng. Nguyên tắc thượng tôn pháp luật cũng đòi hỏi các chủ thể có liên quan chịu trách nhiệm trước pháp luật và trách nhiệm giải trình trước các chủ thể khác, từ đó mới có thể tạo lập sự tin cậy, tính công bằng trong áp dụng pháp luật, ngăn ngừa sự tùy tiện trong việc xây dựng và thực thi pháp luật.
Mặc dù không hoàn toàn đồng nhất với “xã hội pháp quyền”, nhưng do kết hợp nhiều yếu tố của “xã hội pháp quyền” nên công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình cũng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và vận hành Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Cụ thể, vị trí, vai trò của công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình thể hiện rõ nhất qua việc những vấn đề này là cơ sở để hiện thực hoá hai đặc trưng cơ bản sau đây của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
Đặc trưng thứ nhất, Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Đặc trưng này có nghĩa là Nhà nước phải công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình trước Nhân dân; nó cũng có nghĩa Nhân dân-với tư cách là chủ thể lập nên Nhà nước-có quyền yêu cầu Nhà nước phải công khai, minh bạch cũng như phải báo cáo, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về tổ chức và hoạt động của mình.
Đặc trưng thứ hai, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước của Nhân dân thông qua các tổ chức xã hội. Trong đặc trưng này, việc các cơ quan nhà nước thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình vừa là một yêu cầu, vừa là một điều kiện để Nhân dân có thể thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình với hoạt động của các cơ quan.
3. Yêu cầu đặt ra đối với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đáp ứng yêu cầu của xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Thứ nhất,yêu cầu gắn vấn đề công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong tổ chức, hoạt động của các CQHCNN với việc kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình có thể kiểm soát được việc sử dụng quyền lực nhà nước một cách hiệu quả nhất, vì thế phải xem công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình như là một yếu tố cấu thành cốt lõi trong mọi chiến lược, kế hoạch, chính sách, pháp luật về kiểm soát quyền lực của bộ máy CQHCNN.
Thứ hai, yêu cầu về xây dựng,áp dụng các quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệpcủa cán bộ, công chức, viên chức hành chính.
Quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp cần đưa ra những yêu cầu về thái độ, hành vi của cán bộ, công chức, viên chức hành chính khi thi hành công vụ. Đồng thời, các hình thức xử lý trách nhiệm cũng cần được quy định rõ và tương xứng nhằm đảm bảo thực hiện các quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp trên thực tế. Mặt khác, cần giáo dục, nâng cao ý thức của cán bộ, công chức hành chính về thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự liêm chính. Mỗi cán bộ, công chức hành chính phải coi công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong thi hành công vụ là trách nhiệm của mình. Tính liêm chính thể hiện phẩm chất của mỗi người và cần được coi như một yêu cầu bắt buộc đối với cán bộ, công chức - những người công bộc của nhân dân và phải gương mẫu trước Nhân dân.
Thứ ba, yêu cầu bảo đảm sự tuân thủ pháp luật về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các CQHCNN.
Bảo đảm sự tuân thủ pháp luật về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải thực hiện nghiêm túc các quy định có liên quan của của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, đặc biệt là quy định tại Điều 9, trong đó việc công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình phải bảo đảm chính xác, rõ ràng, đầy đủ, kịp thời theo trình tự, thủ tục của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền và phù hợp với quy định của pháp luật. Tuân thủ pháp luật về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình đòi hỏi áp dụng nhiều hình thức công khai khác nhau để các chủ thể có thể theo dõi, giám sát bộ máy nhà nước nói chung, các CQHCNN nói riêng. Bảo đảm sự tuân thủ pháp luật về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình đòi hỏi phải nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong vấn đề này, thông qua việc chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản lý thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.
Thứ tư, yêu cầu bảo đảm công khai, minh bạch trong xây dựng chính sách, pháp luật.
Cần thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc tham vấn ý kiến người dân và doanh nghiệp về các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; kết hợp với việc minhbạch hóa quá trình chuẩn bị, soạn thảo, trình, ban hành các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, cần chú trọng rà soát, hệ thống hóa, công bố danh mục tài liệu bí mật nhà nước để ngăn ngừa, hạn chế việc lợi dụng bí mật nhà nước theo nguyên tắc: Công khai là tối đa, bí mật là tối thiểu.
Quản lý nhà nước không tách rời thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quyết định đối với các chủ thể quản lý. Vì vậy, cần hoàn thiện khung khổ pháp luật để tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị hành chính, cũng như các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các ngành, các cơ quan, đơn vị hành chính nhằm đảm bảo sự công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.
Thứ năm, yêu cầu về việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện công khai, minh bạch.
Các cơ quan nhà nước cần thực hiện nghiêm quy định về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động, có trách nhiệm giải trình rõ những ý kiến, kiến nghị của người dân về các vấn đề liên quan, đem lại hiệu quả cao nhất trong vấn đề này. Đồng thời, Nhà nước cần đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng đơn giản hóa để tạo thuận lợi nhất cho các tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu giải quyết công việc; tạo điều kiện để người dân có thể giám sát và kiểm soát được hoạt động của cơ quan công quyền với phương châm lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm thước đo của hiệu quả hành chính công.
Thứ sáu, yêu cầu về nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức hành chính trong thực thi công vụ.
Việc này đòi hỏi phải tổ chức thực hiện tốt quy định của Luật Cán bộ, công chức; xây dựng và thực hiện chế độ, định mức công việc theo vị trí việc làm gắn với phân công rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cán bộ, công chức hành chính. Việc đảm bảo công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong đánh giá cán bộ, công chức hành chính và sự minh bạch trong quản trị nhà nước sẽ tạo thuận lợi cho người dân giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, trong đó, việc xây dựng, thực hiện định mức theo vị trí việc làm và trách nhiệm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình là điều kiện để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính liêm chính, kỷ cương, trách nhiệm. Nhà nước cũng cần duy trì và nâng cao chất lượng quản lý hoạt động cơ quan hành chính theo tiêu chuẩn ISO hiện đã và đang áp dụng tại một số cơ quan, đơn vị. Ngoài ra, Nhà nước cần hoàn thiện và thực hiện các bộ quy tắc ứng xử, đạo đức công vụ để công dân có căn cứ giám sát hoạt động của cán bộ, công chức và cơ quan hành chính.
Thứ bảy, yêu cầu đảm bảo sự giám sát của người dân và quyền giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Sự tham gia của Nhân dân vào quản trị nhà nước không chỉ làm cho các quyết định của Nhà nước được ban hành sát với thực tế, mà còn là cơ sở tăng cường sự minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ. Vì vậy, cần đảm bảo sự giám sát của người dân và quyền giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trên thực tế. Ngoài ra, cần phát huy vai trò của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng trong việc cung cấp thông tin về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, các CQHCNN nói riêng, tạo diễn đàn tranh luận cho công chúng và tạo dư luận để thúc đẩy tiến trình, nội dung minh bạch hóa hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, các CQHCNN nói riêng.
Kết luận: Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Yêu cầu đặt ra là Đảng phải luôn đảm bảo được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với Nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của Nhân dân. Do đó, việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các CQHCNN là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016.
2. Trần Ngọc Đường, Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Tuyên giáo, ngày 2/1/2016, http://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/xay-dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-83808.
3. Lương Đình Hải, Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hoá xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1 (176), tháng 1-2006.
4. Trần Đại Quang, “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”,www.nhandan.com.vn, 2017.
5. Lưu Ngọc Tố Tâm, Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong xu thể hội nhập và phát triển, Tạp chí Tổ chức nhà nước, ngày đăng 12/04/2018.
6. Rule of Law, tại https://www.lexico.com/en/definition/rule­­_of_law, truy cập ngày 25/10/2019.
7. Brian Tamanaha (2007), “A Concise Guide to the Rule of Law”, tại http://ssrn.com/abstract=1012051, truy cập ngày 28/10/2019.
8. The World Justice Project, tại: http://worldjusticeproject.org/about-us/overview/what-rule-law, truy cập ngày 25/10/2019.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016.
[2] Xem Rule of Law, tại https://www.lexico.com/en/definition/rule­­_of_law, truy cập ngày 25/10/2019.
[3] Xem: Brian Tamanaha (2007), “A Concise Guide to the Rule of Law”, tr.3, tại http://ssrn.com/abstract=1012051, truy cập ngày 28/10/2019.
[4] Xem: The World Justice Project, tại: http://worldjusticeproject.org/about-us/overview/what-rule-law, truy cập ngày 25/10/2019.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15 (415), tháng 8/2020.)