Cây oliu trồng ở đâu

Dữ liệu đang được cập nhật...

Tên tiếng anh/Tên khoa học: Olive trees

Tên khoa học là Olea Europeae

Ôliu là cây gỗ thuộc họ Nhài, cao 10-25m, sống hàng trăm năm, lá mọc đối hình bầu dục, mặt lá bóng, xanh thẫm. Hoa cánh rời, nhỏ, màu trắng xanh, quả mọng hình bầu dục dài, khi chín màu xanh đen. Trồng 5-6 năm mới bắt đầu cho thu hoạch. Cây cần có giá rét và không khí khô ráo để ra hoa kết quả.

Cây Ôliu trồng nhiều ở các nước ven Địa trung hải trên đất đá sỏi và khô ráo. Cây còn được trồng nhiều ở Trung Mỹ, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Úc. Nước ta đã nhập cây Ôliu về trồng nhưng chưa nhân rộng ra được.

Tiến sĩ Schneider đã tổng kết nghiên cứu, áp dụng cây Ôliu làm thuốc chữa bệnh của các nhà khoa học thế giới và bản thân (Des plantes à votre santé – France.).

Ôliu không chỉ cho ta dầu ăn vào loại quý nhất mà còn cung cấp cho con người nhiều vị thuốc quý. Trong quả tươi có 25 – 36% dầu, trong quả khô có đến 57% dầu. Quả chín tươi có vị chát, hơi chua và nhạt. Ngoài dầu ra, trong quả tươi còn có 3% protit, 38% gluxit và 8% xellulô. Quả có tính kiềm, có 1000mg% Kali, 1000mg% Natri, 80mg% Ca, 2mg% Magie, 8mg% Sắt. Trong 100g ôliu có 190 đơn vị vitamin A. Muốn có dầu ôliu tốt, phải phơi sấy quả ở nhiệt độ không vượt quá 350C để tránh hoạt động lipaza của enzim oleasa và phải ép dầu ở nhiệt độ lạnh.

Dầu ôliu có giá trị dinh dưỡng, thực phẩm và dùng làm thuốc. Nó cung cấp cho cơ thể người những chất cần thiết mà không để lại những cặn mỡ vô ích.

Người ta đã dùng dầu ôliu cùng các vị thuốc khác để chữa các bệnh gan, mật, tuần hoàn, dạ dầy - ruột, bệnh ngoài da và thận. Uống dầu ôliu sẽ gây nhuận tràng êm dịu nhưng rất hiệu quả (trường hợp nặng hơn, có thể thụt với 1/2 lít dầu).

Có thể uống 100-200g dầu ôliu trong vài giờ khi bị đau bụng do bệnh sỏi,. Có thể thêm 0.3% Menthol để tránh nôn.

Để tống khứ sỏi mật, từ lâu người ta đã làm như sau: trong 3 ngày, vào mỗi buổi sáng, uống 100-200g dầu ôliu lúc chưa ăn gì. Chú ý: không được dùng khi người bệnh đang viêm túi mật cấp. Việc điều trị lúc này phải do thầy thuốc quyết định và phải kết hợp với các thuốc khác.

Đưa vào cơ thể bằng ống thông 20ml dầu ôliu sẽ gây co túi mật rất mạnh. Do đó, có thể dùng trong xét nghiệm tia X túi mật. Dầu ôliu được dùng để sản xuất thuốc chống cảm mạo theo mùa vì dầu này có tính chống viêm và êm dịu đối với các màng nhầy. Ngoài dầu, người ta còn dùng lá sắc uống hay làm cồn thuốc để giảm huyết áp. Tác dụng của thuốc sắc sẽ cao hơn nhiều khi kết hợp lá ôliu với lá Tầm gửi dẹt và lá Ba gạc.

Các nhà dược học Pháp dùng lá cây ôliu để chữa bệnh huyết áp cao động mạch, các bệnh tim mạch và bệnh tiểu đường không phụ thuộc vào insulin. Họ cho rằng lá ôliu có hoạt tính vì có chứa chất oleuropeosit làm giảm huyết áp và tác động lên toàn bộ các rối loạn của huyết áp cao động mạch như nhức đầu, chóng mặt, ù tai và gây lợi niệu.

Cây ôliu có ích trong ngăn ngừa bệnh xơ cứng động mạch và động mạch vành, làm giảm cholesterol xấu (LDL) và tăng cholesterol tốt (HDL). Ngoài ra nó điều tiết nhịp tim. Lá ôliu lại không độc. Ôliu còn có tác dụng giảm đường huyết nên được dùng làm chất bổ trợ trong điều trị bệnh tiểu đường không phụ thuộc vào insulin. Các nhà dược học Pháp đã sản xuất viên nhộng bột lá Ôliu nghiền lạnh (mỗi viên có 275mg bột lá Ôliu và 6% chất oleuropeosit). Người bệnh uống vào các bữa ăn sáng trưa và chiều, mỗi lần một viên (Guide pratique de la Phytotherapie – France).

Lá cây và dầu ôliu rất tốt cho sức khoẻ. Rất mong các nhà nông nghiệp, dược liệu học  nghiên cứu phát triển cây ôliu ở những vùng thích hợp nước ta để cây này có thể trở thành cây thuốc quý phục vụ tốt sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.

Ô liu (phiên âm từ tiếng Pháp olive; danh pháp khoa học Olea europaea) là một loại cây nhỏ thuộc Họ Ô liu (Oleaceae). Bản địa của ô liu là miền duyên hải Địa Trung Hải, đến Iran ven bờ nam biển Caspi. Trái Ô liu là một nông phẩm giá trị ở vùng Địa Trung Hải dùng để làm dầu ô liu.

Cây oliu trồng ở đâu
Olea europaea

Ô liu (Olea europaea)

Phân loại khoa họcGiới (regnum)Plantae(không phân hạng)Angiospermae(không phân hạng)Eudicots(không phân hạng)AsteridsBộ (ordo)LamialesHọ (familia)OleaceaeChi (genus)OleaLoài (species)O. europaeaDanh pháp hai phầnOlea europaea
L.

Cây ô liu, Olea europaea, là một cây xanh quanh năm hoặc cây bụi có nguồn gốc từ Địa Trung Hải Châu Âu, Châu Á và Châu Phi. Nó ngắn và thấp, và hiếm khi vượt quá 8 -15 mét. một giống duy nhất bao gồm 40.000 cây chỉ được tìm thấy ở khu vực xung quanh Pisciotta thuộc vùng Campania, miền nam nước Ý thường vượt quá con số này, với đường kính thân tương ứng lớn. Các lá màu xanh, thuôn dài, kích thước dài 4 –10 cm chiều dài và 1–3 cm chiều rộng. Thân cây thường lồi lõm và xoắn.

Hoa ô liu thường có màu trắng và có lông, với đài hoa và tràng hoa có 10 khe, hai nhị, và nhụy hoa, nở thành chùm mọc ra từ nách lá, Quả ô liu là một quả nhỏ dài 1 - 2,5 cm khi quả chín, thịt mỏng hơn và nhỏ hơn ở cây mọc dại so với cây ăn quả. Ô liu được thu hoạch ở giai đoạn có màu xanh lá cây đến màu tím.Ô liu đen đóng hộp thường được làm thêm màu đen nhân tạo và có thể chứa gluconat sắt hóa học để cải thiện vẻ bên ngoài.

Sáu loài phụ mọc tự nhiên của Olea europaea phân bố trên một phạm vi rộng:

  • Olea europaea subsp. europaea (Lưu vực Địa Trung Hải)

Olea europaea var. sylvestris được coi là ô liu hoang dại của Địa Trung Hải, là một giống ô liu đặc trưng bởi giống này mang trái nhỏ hơn so với ô liu thông thường.

  • O e. subsp. cuspidata (từ Nam Phi khắp Đông Phi, Ả Rập đến Tây Nam Trung Quốc)
  • O e. subsp. cerasiformis (Madeira); còn được gọi là Olea maderensis
  • O e. subsp. guanchica (Quần đảo Canary)
  • O e. subsp. laperrinei (Algéria, Sudan, Niger)
  • O e. subsp. maroccana (Ma-rốc)

Phân loài O. e. cerasiformis là thể tứ bội, và O. e. maroccana là thể lục bội.

Các dạng ô liu mọc dại đôi khi được coi là loài Olea oleaster.

Những quả ô liu được gọi là ô liu trắng và ô liu đen ở Đông Nam Á thực ra không phải là ô liu, chúng là các loài cây trám.

Trồng Trọt

Hàng trăm giống cây ô liu được biết đến. Các giống ô liu có tác động đáng kể đến màu sắc, kích thước, hình dạng và đặc điểm sinh trưởng cũng như chất lượng của dầu ô liu. Giống ô liu có thể được sử dụng chủ yếu để lấy dầu hoặc ăn.

Vì nhiều giống ô liu có khả năng không có quả hoặc gần như vậy, chúng thường được trồng theo cặp với một giống chính duy nhất và một giống thứ cấp được chọn để có khả năng thụ phấn cho cây chính. Trong thời gian gần đây, khoa học đang nỗ lực đã được hướng đến việc sản xuất các giống cây lai với các đặc tính hữu ích cho nông dân, chẳng hạn như kháng bệnh, tăng trưởng nhanh và cây trồng lớn hơn hoặc phù hợp hơn.

Bằng chứng hóa thạch cho thấy cây ô liu có nguồn gốc cách đây khoảng 20–40 triệu năm trong kỷ Oligocen, ở khu vực ngày nay tương ứng với Ý và lưu vực phía đông Địa Trung Hải. Cây ô liu được trồng lần đầu tiên cách đây khoảng 7.000 năm ở các vùng Địa Trung Hải.

Ô liu có thể ăn được dường như đã tồn tại với con người trong khoảng 5.000 đến 6.000 năm, bắt đầu từ thời kỳ đồ đồng sớm (3150-1200 TCN). Nguồn gốc của nó có thể được bắt nguồn từ Levant dựa trên các bảng viết, hố ô liu và các mảnh gỗ được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ.

Tổ tiên trước đây của ô liu được trồng là không rõ. Hóa thạch phấn hoa Olea đã được tìm thấy ở Macedonia và những nơi khác xung quanh Địa Trung Hải, cho thấy chi này là một yếu tố ban đầu của hệ thực vật Địa Trung Hải. Những chiếc lá hóa thạch của Olea được tìm thấy trong các Palaeosols của hòn đảo núi lửa Santorini (Thera) của Hy Lạp và có niên đại khoảng 37.000 năm trước Công nguyên. Dấu hiệu ấu trùng của ruồi trắng ô liu Aleurolobus (Aleurodes) olivinus được tìm thấy trên lá. Loài côn trùng tương tự ngày nay thường được tìm thấy trên lá ô liu, cho thấy mối quan hệ đồng tiến hóa động thực vật không thay đổi kể từ thời điểm đó. [28] Những chiếc lá khác được tìm thấy trên cùng một hòn đảo có niên đại khoảng 60.000 năm trước Công nguyên, khiến chúng trở thành những cây ô liu lâu đời nhất được biết đến từ Địa Trung Hải.

Từ năm 3000 trước Công nguyên, ô liu đã được trồng phổ biến ở Crete; chúng có thể là nguồn gốc của nền văn minh Minoan.

Bên ngoài Địa Trung Hải

Ô liu không có nguồn gốc từ châu Mỹ. Những người thực dân Tây Ban Nha đã mang ô liu đến châu Mỹ, nơi việc trồng trọt của nó phát triển ở Peru, Chile và Argentina ngày nay. Những cây con đầu tiên từ Tây Ban Nha được Antonio de Rivera trồng ở Lima vào năm 1560. Việc trồng cây ô liu nhanh chóng phổ biến dọc theo các thung lũng của bờ biển Thái Bình Dương khô hạn của Nam Mỹ nơi có khí hậu tương tự như Địa Trung Hải. Các nhà truyền giáo Tây Ban Nha truyền cây vào thế kỷ 18 ở California. Nó được trồng lần đầu tiên tại Mission San Diego de Alcalá vào năm 1769 hoặc muộn hơn vào khoảng năm 1795. Các vườn cây ăn quả được bắt đầu ở các nhiệm vụ khác, nhưng vào năm 1838, một cuộc kiểm tra chỉ tìm thấy hai vườn ô liu ở California. Trồng trọt để lấy dầu dần dần trở thành một lĩnh vực thương mại rất thành công từ những năm 1860 trở đi. Tại Nhật Bản, việc trồng thành công cây ô liu đầu tiên xảy ra vào năm 1908 trên đảo Shodo, nơi trở thành cái nôi của nghề trồng ô liu. Ước tính có khoảng 865 triệu cây ô liu trên thế giới hiện nay (tính đến năm 2005), và phần lớn trong số này được tìm thấy ở các nước Địa Trung Hải, với các khu vực biên giới truyền thống chỉ chiếm không quá 25% diện tích trồng ô liu và 10% sản lượng dầu sản xuất.

 

100g quả Ô liu có chứa:[1]

Calo: 145

Chất béo (g): 15,32

Tinh bột (g): 3,84

Chất xơ (g): 3,3

Chất đạm (g): 1,03

Cholesterol (mg): 0

Đây là một trong những loại cây được nhắc đến nhiều trong các tác phẩm văn học phương Tây. Trong tác phẩm Odyssey và Iliad của Homer, nhân vật Odysseus bò dưới hai nhánh cây ô liu được trồng trong một nhà kho.

  1. ^ Search the USDA National Nutrient Database for Standard Reference Lưu trữ 2015-03-03 tại Wayback Machine. Nal.usda.gov. Truy cập 2011-12-07.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Ô_liu&oldid=68468480”