Giáo an Văn THPT theo phương pháp mới

“Dạy học theo dự án” là một phương pháp dạy học tích cực cũng được cô giáo Âu Thị Huê, giáo viên dạy bộ môn Ngữ Văn- trường THPT Phù Lưu lựa chọn cho các tiết dạy của mình, qua đó giúp cô kiểm tra cơ sở kiến thức của người học, định hướng người học thông qua dự án có thể giải quyết được những vấn đề mang ý nghĩa thực tiễn.

Giáo an Văn THPT theo phương pháp mới
(Học sinh thuyết trình và phản biện về chủ đề “Ảnh hưởng của tình yêu tuổi học trò đối với học sinh lớp 12C1 trường THPT Phù Lưu”)

Qua bài dạy “Phát biểu theo chủ đề”, cô giáo đã giúp học sinh hiểu rõ về phát biểu theo chủ đề đồng thời định hướng phát triển năng lực cho học sinh như năng lực thu thập thông tin liên quan đến nội dung bài học, năng lực hợp tác để cùng thực hiện nhiệm vụ học tập, năng lực giải quyết tình huống, phản biện trong quá trình phát biểu cũng như hướng dẫn học sinh cách thức trình bày suy nghĩ của cá nhân về vấn đề cần phát biểu. Điều này giúp các em học sinh tạo ra được những sản phẩm có chất lượng.

Giáo an Văn THPT theo phương pháp mới
Học sinh tranh luận, phản biện về “Ảnh hưởng của tình yêu tuổi học trò đối
với học sinh trường THPT Phù Lưu”)

Với những chủ đề phong phú và rất thu hút các em học sinh như “Vào đại học là cách lập thân duy nhất của thanh niên trong giai đoạn hiện nay”, “Thực trạng bạo lực học đường trong học sinh THPT” và “Ảnh hưởng của tình yêu tuổi học trò đối với học sinh trường THPT Phù Lưu”, các em học sinh đã rất hứng khởi trong việc tiếp nhận chủ đề, có nhiều học sinh tự tin, phát biểu sắc bén, trọng tâm và những tranh luận phản biện thuyết phục, sự chuẩn bị chu đáo đã làm nên thành công của tiết dạy học theo dự án.

Giáo an Văn THPT theo phương pháp mới
(Học sinh thuyết trình, phản biện về quan niệm “Vào đại học có phải là cách lập thân 
duy nhất của thanh niên trong giai đoạn hiện nay”)

Giáo an Văn THPT theo phương pháp mới
Cô giáo Âu Thị Huệ định hướng nội dung tiết dạy “Phát biểu theo chủ đề”

Giáo an Văn THPT theo phương pháp mới
Ban Giám hiệu, Tổ chuyên tham gia dự giờ tiết dạy

Lương Kiều Trang trường THPT Phù Lưu

Giáo an Văn THPT theo phương pháp mới

GD&TĐ - Nhiều giải pháp được Sở GD&ĐT Bến Tre đưa ra nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn trong năm học 2016 – 2017; trong đó có cả những lưu ý quan trọng trong ôn tập môn học này cho kỳ thi THPT quốc gia và thi tuyển vào lớp 10.

Đặc biệt chú ý phát huy năng lực ngôn ngữ

Ông Nguyễn Văn Huấn - Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Bến Tre - cho biết: Một trong những lưu ý quan trọng của Sở GD&ĐT với các trường trong dạy học môn Ngữ văn cấp THCS và THPT năm học 2016-2017 là tổ chức dạy học cần bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng và phù hợp với đối tượng học sinh.

Trong đó, lưu ý căn cứ chương trình giáo dục phổ thông (đối với các trường THCS, THPT), chương trình giáo dục thường xuyên (đối với các trung tâm GDNN-GDTX), hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng, sách giáo khoa, xác định mục tiêu bài học và tổ chức dạy học theo đúng mục tiêu bài học đã được xác định. Đặc biệt chú ý phát huy năng lực ngôn ngữ cho học sinh trong việc đọc hiểu cũng như tạo lập văn bản.

Tùy thuộc vào đối tượng học sinh, giáo viên triển khai nội dung bài học phù hợp. Đối với học sinh khá, giỏi có thể mở rộng, nâng cao (bằng việc so sánh, đối chiếu) hoặc hướng dẫn phân tích vấn đề có chiều sâu. Đối với học sinh yếu kém chỉ cần dạy đúng, dạy đủ các đơn vị kiến thức, không vượt quá chuẩn quy định.

Ngoài việc phải bảo đảm nội dung bài học được thể hiện trên giáo án đáp ứng được mục tiêu bài học đã được xác định, giáo viên cần quan tâm đến các chuyên đề tự chọn bám sát để củng cố kiến thức và chuyên đề nâng cao để bồi dưỡng học sinh khá, giỏi. Đối với trường THPT chuyên, cần triển khai đầy đủ các chuyên đề chuyên sâu dành cho học sinh chuyên Văn.

Tránh biến giờ Văn thành “chiếu - chép”

Nhấn mạnh đến ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn, ông Nguyễn Văn Huấn cho rằng, cần phải quan tâm đến hiệu quả của việc ứng dụng, tránh biến giờ dạy học Ngữ văn có ứng dụng công nghệ thông tin trở thành giờ “chiếu - chép” kém hiệu quả.

Theo Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Bến Tre, đổi mới phương pháp dạy học cốt yếu là để nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học, dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng, không có nghĩa là giúp học sinh ghi lại nội dung bài học trong Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng hoặc lên lớp chỉ chú trọng một vài phương pháp dạy học mới như thảo luận nhóm, nêu vấn đề...

Điều quan trọng là phải vận dụng, kết hợp các phương pháp dạy học (kể cả phương pháp dạy học truyên thông) phù hợp với đặc trưng bộ môn, giúp học sinh khám phá, lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Đặc biệt chú ý dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh.

Đổi mới phương pháp dạy học cần chú trọng hơn nữa chuẩn về kĩ năng, nhất là hoàn thiện kĩ năng đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại. Dạy đọc - hiểu văn bản cần đặc biệt quan tâm tổ chức đọc văn bản (nắm được cốt truyện, tình tiết, diễn biến, ngôn ngữ... đối với truyện; nắm được mạch cảm xúc, hình ảnh, giọng điệu... đối với thơ;...). Từ đó, định ra hướng phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại nhằm đáp ứng đầy đủ chuẩn về kiến thức, kĩ năng.

Dạy tập làm văn cần củng cố về phương pháp làm văn như phân tích đề chính xác để tiến hành xây dựng, tổ chức bài làm cho phù hợp với yêu cầu của đề bài.

Về Tiếng Việt, cần nắm vững lí thuyết và biết vận dụng làm tốt các bài tập trong sách giáo khoa và các bài tập tương tự khác.

Nâng cao chất lượng từ hoạt động tổ chuyên môn

Khẳng định vai trò của đổi mới hoạt động tổ chuyên môn với dạy học Văn, ông Nguyễn Văn Huấn cho biết, Sở GD&ĐT Bến Tre nhấn mạnh 5 vấn đề cần lưu ý với nội dung này.

Thứ nhất, xây dựng kế hoạch phụ đạo học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh giỏi phù hợp với điều kiện dạy - học tại địa phương.

Thứ 2: Thường xuyên trao đổi rút kinh nghiệm trong việc ra đề kiểm tra thường xuyên và định kì theo đúng tinh thần đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh môn Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực, nhằm tác động đến học sinh, giúp học sinh tự điều chỉnh phương pháp học tập môn Ngữ văn cho phù hợp.

Đồng thời, cũng qua kết quả học tập của học sinh, giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp năng lực của học sinh để đạt kết quả tốt nhất.

Thứ 3:Trong sinh hoạt tổ chuyên môn, cần chú trọng sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học để qua đó, tìm hiểu năng lực của học sinh (nhất là năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực đọc hiểu và tạo lập văn văn bản...) để tìm kiếm giải pháp về cách thức tổ chức dạy học, ôn tập phù hợp với năng lực học tập của học sinh.

Thứ 4: Nội dung bài soạn của giáo viên phải thể hiện đúng, đủ các đơn vị kiến thức (theo kiến thức, kĩ năng) và cách tổ chức dạy học hợp lí. Đặc biệt đối với lớp 12, việc tổ chức ôn tập tham dự kì thi THPT quốc gia cần hệ thống hóa kiến thức (giúp học sinh nhớ và nhớ một cách chính xác); hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức trong làm bài thông qua các câu hỏi ôn tập và giúp học sinh nắm vững kiến thức về tiếng Việt để từ đó vận dụng có hiệu quả trong đọc hiểu cũng như tạo lập văn bản.

Thứ 5: Tổ trưởng chuyên môn Ngữ văn định hướng, góp ý, điều chỉnh nội dung giáo án (theo bài học, tiết học) của giáo viên trong tổ trước khi lên lớp và theo dõi, kiểm tra việc thực hiện dạy học thông qua việc thường xuyên kiểm tra giáo án, dự giờ và dự giờ không báo trước khi cần thiết.

Lưu ý ôn thi THPT quốc gia và tuyển sinh vào 10

Mặc dù còn thời gian đến kỳ thi THPT quốc gia 2017 còn cả năm học, nhưng ông Nguyễn Văn Huấn cho biết, Sở GD&ĐT Bến Tre đã có những lưu ý cho giáo viên khi hướng dẫn học sinh ôn luyện môn thi Ngữ văn.

Cụ thể, cần hệ thống hóa kiến thức theo các lĩnh vực: Văn học (lịch sử văn học, đọc - hiểu văn bản văn học theo thể loại, lí luận văn học); tiếng Việt; làm văn... nhằm giúp học sinh dễ nhớ, nhớ lâu hơn.

Đưa ra các bài tập mang tính khái quát để hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức trả lời câu hỏi đọc hiểu văn bản hoặc tạo lập văn bản (nghị luận văn học, nghị luận xã hội). Từ đó hoàn thiện kĩ năng vận dụng kiến thức của học sinh đáp ứng yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá, đổi mới thi cử.

Hướng dẫn sử dụng tốt sách tham khảo hợp lí, giúp học sinh học tập cách tổ chức bài làm, lối diễn đạt trong sáng, cách lập luận chặt chẽ.... Đặc biệt hướng đến loại đề mở nhàm tạo điều kiện, giúp học sinh trình bày một vấn đề theo cách nhìn, cách hiểu và cách trình bày mang tính cá nhân, sáng tạo giải quyết đề bài theo hướng mở. Tuyệt đối không bắt học sinh học thuộc lòng bài mẫu.

Đối với việc hướng dẫn học sinh ôn luyện môn Ngữ văn làm bài thi tuyển vào lớp 10, Sở GD&ĐT cũng lưu ý:

Tổ chức ôn tập kiến thức theo đúng chuẩn kiến thức; phải giúp học sinh hiểu, nhớ chính xác kiến thức Văn học, Tiếng Việt... đã học để vận dụng tốt trong việc làm bài thi, bài kiểm tra theo tinh thần đổi mới kiểm tra đánh kết quả học tập của học sinh theo hướng phát triển năng lực. Không được hướng dẫn học sinh tập trung ở một số lĩnh vực (cho là quan trọng, có thể gặp trong đề thi).

Cần chủ ý rèn luyện kĩ năng vận dụng tiếng Việt trong đọc hiểu văn bản cũng như trong tạo lập văn bản như viết đúng ngữ pháp, rõ ràng, trong sáng; biết tổ chức liên kết câu, đoạn văn để diễn đạt một nội dung nào đó.


Page 2

Giáo an Văn THPT theo phương pháp mới

(Nguyễn Văn Huấn)-Đổi mới giáo dục đạo đức trong nhà trường, kỹ năng sống của học sinh và giải pháp tạo ra thế hệ trẻ năng động, sáng tạo đáp ứng yêu cầu thực tiễn cuộc sống.

I. Thực trạng việc giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, rèn luyện kỹ năng sống (KNS) cho học sinh phổ thông

Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế nêu rõ mục tiêu tổng quát của giáo dục và đào tạo là giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Nếu lưu ý một chút thì thấy rằng mục tiêu của giáo dục và đào tạo theo tinh thần đổi mới nhấn mạnh đến năng lực cá nhân; các hoạt động giáo dục và đào tạo phải làm sao tạo điều kiện để mỗi cá nhân phát huy tốt nhất khả năng sáng tạo của mình.

Thực hiện các mục tiêu trên, trong thời gian qua, các trường phổ thông trong tỉnh đã đổi mới các hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, giáo dục kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện cho học sinh với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Nội dung và hình thức tổ chức trong nhà trường thực hiện qua giảng dạy chính khóa các môn Đạo đức, Giáo dục công dân; qua lồng ghép, tích hợp vào các môn học khác; qua các Hoạt động ngoài giờ lên lớp và ngoài nhà trường qua các hoạt động ngoại khóa, có sự phối hợp với cha mẹ học sinh và các đoàn thể, tổ chức xã hội, cụ thể như:

Phối hợp với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các tổ chức đoàn thể khác trong nhà trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa như: các hoạt động về nguồn, nói chuyện truyền thống, viếng nghĩa trang liệt sĩ, thắp nến tri ân, các đợt sinh hoạt chính trị “Tiếp lửa truyền thống - mãi mãi tuổi 20”, chăm sóc di tích lịch sử, văn hóa, nghĩa trang liệt sĩ... Đặc biệt, trong những năm gần đây, tổ chức cho học sinh tham gia các phong trào thanh niên tình nguyện, chương trình Học kỳ quân đội, Học làm người có ích,... Tổ chức, hướng dẫn, vận động, thu hút học sinh tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, học tập thông qua các hoạt động như: Liên hoan Tiếng ca học đường-Vũ điệu tôi yêu, Chương trình Games show Khi tôi 18, Games show Học mà vui-vui mà học, Hội thi tin học trẻ các cấp...

Theo định hướng phát triển năng lực học sinh, nhà trường đã đổi mới các hoạt động giáo dục, trong đó đẩy mạnh các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, qua đó góp phần giáo dục kỹ năng sống. Các trường phổ thông đã tăng cường các hoạt động kết nối tri thức từ bài học trong chương trình giáo dục phổ thông với kinh nghiệm thực tiễn nhằm giải quyết các tình huống, các vấn đề trong cuộc sống. Các cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề thực tiễn, Cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học, Cuộc thi Giao thông thông minh...đã thu hút nhiều học sinh tham gia. Từ các sân chơi tri thức, học sinh tích lũy cho mình các tri thức kinh nghiệm bổ sung cho các tri thức hàn lâm học trong sách vở. Được tham gia các hoạt động thực tiễn trong cuộc sống, học sinh rèn các kĩ năng sống như: giao tiếp, thuyết trình, làm việc theo nhóm, ra quyết định, kiên định.... Từ các tình huống thực tiễn, học sinh dần tự tin, chủ động xử lí mọi tình huống trong cuộc sống, đồng thời tạo môi trường thuận lợi nhằm khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo, biết phát huy thế mạnh cá nhân của từng học sinh.

Tuy nhiên, hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh vẫn chưa thật sự hiệu quả, biểu hiện qua tình trạng còn một số học sinh vi phạm chuẩn mực đạo đức, vi phạm pháp luật như bạo lực học đường, sử dụng trái phép chất ma túy, chất gây nghiện. Dẫn đến tình trạng trên có nhiều nguyên nhân:

- Tình hình tệ nạn xã hội ngày càng phức tạp, luôn rình rập học đường, sẵn sàng tìm mọi cách để lôi kéo học sinh tham gia; việc xây dựng môi trường xã hội văn hóa, lành mạnh chưa thật sự hiệu quả; tác động mặt trái của những dịch vụ, sản phẩm văn hóa, công nghệ thông tin như các trò chơi games, mạng xã hội… khó ngăn chặn; phẩm chất, lối sống, giao tiếp, ứng xử của một số người lớn chưa gương mẫu, chuẩn mực.

- Thiếu sự quan tâm, giáo dục của gia đình đối với con cái (còn tình trạng khoán trắng giáo dục con cái cho nhà trường); phẩm chất, lối sống chưa chuẩn mực của một số phụ huynh tác động rất lớn đến con cái, bởi vì từ khi mới sinh ra đến tuổi đi học, trẻ chịu sự chi phối sâu sắc của cha mẹ; mọi hành vi, cử chỉ, thái độ, tình cảm của cha mẹ đều tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của trẻ.

- Công tác phối hợp giữa ba môi trường, nhà trường, gia đình và xã hội trong quản lý, giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh dù được quan tâm thực hiện, nhưng chưa thật sự chặt chẽ và hiệu quả, đặc biệt là chưa phát huy được vai trò của cha mẹ học sinh trong việc phát hiện, phối hợp với nhà trường trong giáo dục các học sinh cá biệt, có biểu hiện khác thường, cần được hỗ trợ và can thiệp sớm.

- Chương trình, nội dung giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường còn nhiều bất cập như chưa phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi và nhận thức của học sinh, chậm đổi mới về nội dung và phương pháp giáo dục, nhất là chưa quan tâm đúng mức giáo dục kĩ năng sống.

II. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh phổ thông nhằm tạo ra thế hệ trẻ năng động, sáng tạo đáp ứng yêu cầu thực tiễn cuộc sống

Các phẩm chất và năng lực cần hình thành cho học sinh theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo được đề xuất ở 6 phẩm chất: (1)Yêu gia đình, quê hương đất nước; (2)Nhân ái khoan dung; (3)Trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; (4)Tự lập, tự tin, tự chủ; (5)Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại; (6)Nghĩa vụ công dân và 9 năng lực cụ thể là: (1)Tự học; (2)Giải quyết vấn đề; (3)Sáng tạo; (4)Tự quản lý; (5)Giao tiếp; (6)Hợp tác; (7)Sử dụng công nghệ thông tin; (8)Sử dụng ngôn ngữ (trong đó có tiếng Việt, tiếng dân tộc và tiếng nước ngoài); (9)Tính toán.

Các phẩm chất và năng lực được đề xuất như trên nhằm tạo ra thế hệ trẻ năng động,sáng tạo đáp ứng yêu cầu thực tiễn cuộc sống trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

Trong các năng lực cần hình thành cho học sinh có bao hàm các kĩ năng sống bởi vì năng lực thì bao gồm kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm. Có thể tiếp cận giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua 4 trụ cột về mục tiêu của giáo dục theo UNESCO:

+ Đáp ứng mục tiêu Học để biết thì phải giáo dục các kỹ năng tư duy, kĩ năng học tập.

+ Đáp ứng mục tiêu Học để làm việc thì phải giáo dục các kỹ năng thực hiện công việc, kĩ năng thực tiễn.

+ Đáp ứng mục tiêu Học để chung sống với người khác thì phải giáo dục các kỹ năng xã hội, ứng xử phù hợp.

+ Đáp ứng mục tiêu Học để khẳng định bản thân thì phải giáo dục các kỹ năng cá nhân, ý thức, thái độ.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh phổ thông nhằm tạo ra thế hệ trẻ năng động, sáng tạo thì cần tập trung một số giải pháp sau:

1. Trước hết phải tăng cường trách nhiệm của nhà trường trong giáo dục phát triển toàn diện cho học sinh phổ thông bằng các giải pháp đi mới

Trước hết phải đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, kỹ năng sống cho học sinh như: Thực hiện nội dung dạy học các môn Đạo đức, Giáo dục công dân, trên cơ sở lựa chọn các nội dung giáo dục có giá trị phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, tình cảm, nhận thức và sự phát triển của học sinh, của xã hội và thời đại; giáo dục hành vi và chuẩn mực đạo đức; giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, ý thức công dân; tăng cường giáo dục kỹ năng sống và giá trị sống đúng đắn. Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn Đạo đức, Giáo dục công dân theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học, phát huy tính tích cực của học sinh; tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, kỹ năng sống cho học sinh.

Trước đây thì giáo dục chủ yếu cung cấp kiến thức hàn lâm, ít gắn kiến thức đã học với thực tiễn, ít chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự học, kĩ năng nghiên cứu, sáng tạo. Tiếp cận 4 trụ cột về giáo dục của UNESCO, thì cần chú trọng hướng dẫn học sinh các kĩ năng học tập, làm việc như: phương pháp tự học, tự nghiên cứu; tăng cường tổ chức cho các em học tập, nghiên cứu, làm việc nhóm; khuyến khích, hướng dẫn và tạo điều kiện để học sinh nghiên cứu khoa học, vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế. Tiếp theo đó phải tăng cường giáo dục các kỹ năng xã hội, kỹ năng ứng xử nhằm giúp học sinh có thái độ và hành vi tích cực, có khả năng nhìn nhận vấn đề, giải quyết tình huống theo hướng tích cực, biết thích nghi với từng hoàn cảnh cụ thể, biết ứng phó, tránh xa cái xấu (ví dụ kĩ năng làm chủ bản thân, chống lại sự cám dỗ của các tệ nạn xã hội, kĩ năng ứng phó với một tình huống bạo lực…).

Việc giáo dục kỹ năng sống không chỉ thực hiện trong nhà trường, qua các môn học chính khóa, dù rất quan trọng, mà còn phải được thực hiện kết hợp với nhiều cách khác như: Trong sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội; bằng nhiều hoạt động trải nghiệm đa dạng, phong phú như: qua hoạt động sinh hoạt trong gia đình (có những kĩ năng hình thành qua giáo dục gia đình, ví dụ nấu ăn, vệ sinh gia đình, cá nhân…), qua hoạt động văn hóa, nghệ thuật, hoạt động xã hội, hoạt động ngoại khóa, hoạt động tham quan, dã ngoại; qua các hoạt động đoàn, đội…

Thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, cần phải tăng cường giáo dục thể chất, hướng nghiệp, ý tưởng, ý chí khởi nghiệp ngay trong trường phổ thông, nâng cao năng lực ngoại ngữ, tin học cho học sinh đáp ứng yêu cầu công tác, làm việc sau này trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

2. Tiếp theo là phải tăng cường công tác phối hợp nhà trường với gia đình và xã hội

Giáo dục là một hoạt động mang tính xã hội cao. Muốn thực hiện được mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh, cần phải coi trọng cả giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Chỉ riêng nhà trường, chỉ riêng ngành giáo dục thì không thể làm tốt công tác giáo dục toàn diện được.

Xin trích dẫn câu nói của Bác Hồ để thấy tầm quan trọng trong công tác phối hợp 3 môi trường giáo dục. Bác Hồ nói “Phải nhất thiết liên hệ mật thiết với gia đình học sinh. Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.

Để thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp giữa ba môi trường, nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục toàn diện học sinh, cần phải thống nhất quan điểm, triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

- Thống nhất nhận thức về tầm quan trọng của công tác phối hợp ba môi trường, nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục toàn diện học sinh.

- Coi sự phối hợp là việc thực hiện thường xuyên, liên tục ở mọi thời điểm và quá trình giáo dục là quá trình lâu dài, không ngừng phát triển.

- Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng môi trường giáo dục; mỗi môi trường giáo dục phải ý thức luôn sẵn sàng phối hợp, chủ động phối hợp mà không có thái độ trông chờ hay ỷ lại vào môi trường giáo dục khác. Trong đó:

+ Gia đình có trách nhiệm phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục cho con em mình, tránh tư tưởng ỷ lại, khoán trắng giáo dục học sinh cho nhà trường; gia đình có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc, tạo điều kiện cho con em được học tập, rèn luyện, tham gia các hoạt động của trường và xã hội; không để con em bỏ học; không phó mặc con em mình cho nhà trường; quan tâm nâng cao văn hóa gia đình; cha mẹ phải là tấm gương sáng cho con cái noi theo; người lớn phải là tấm gương trong giao tiếp, ứng xử; loại bỏ bạo lực gia đình.

+ Các cấp chính quyền, đoàn thể phải luôn quan tâm tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người dân trong việc chấp hành pháp luật, thực hiện lối sống văn hóa, kiên quyết ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm chuẩn mực đạo đức, bạo lực diễn ra ngoài xã hội; quản lý tốt các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, công nghệ thông tin; xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, an toàn.

- Xây dựng cơ chế phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội, qua đó huy động sự tham gia có hiệu quả của các lực lượng phối hợp cho giáo dục học sinh (ví dụ xây dựng quy chế phối hợp; tăng cường và đa dạng kênh liên lạc như báo cáo, gặp gỡ, đối thoại, sổ liên lạc..).

Trên đây là một số ý kiến tham luận của Sở Giáo dục và Đào tạo. Rất mong được sự thảo luận, góp ý thêm của quý đại biểu.

Trân trọng cảm ơn./.

TS Nguyễn Văn Huấn, Phó Giám đốc Sở GD&ĐT (Tham luận trong Hội thảo "Xây dựng môi trường văn hóa, trọng tâm là xây dựng văn hóa gia đình; tạo nèn tảng xây dựng nhân cách con người Bến Tre hướng đến Chân-Thiện-Mỹ")