Khó khăn cơ bản của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sau cách mạng Tháng Tám 1945 là gì

Nhiều năm gần đây, cứ mỗi khi đến dịp các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước hoặc những lúc đất nước gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, các thế lực thù địch thường đẩy mạnh các hoạt động chống phá về tư tưởng thông qua truyền thông và mạng xã hội. Đây cũng là thời điểm nảy sinh nhiều nhận thức và quan điểm khác nhau về nhiều vấn đề lịch sử, thậm chí là xuyên tạc, bóp méo và phủ nhận những thành quả của cách mạng, trong đó có sự kiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945.




Khó khăn cơ bản của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sau cách mạng Tháng Tám 1945 là gì

Mít tinh tổng khởi nghĩa tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội (Ảnh tư liệu).


Họ cho rằng “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”, rằng thắng lợi mà Việt Nam giành được “đó là sự ăn may vì Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai chứ Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”, rằng “do khoảng trống quyền lực nên Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”, rằng Cách mạng Tháng Tám “là nguyên nhân dẫn đến 2 cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”, hoặc “nếu không có Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã giàu mạnh từ lâu và không mất dân chủ như bây giờ”...

Thực tiễn lịch sử của đất nước ta gần 1 thế kỷ qua là những luận cứ hiển nhiên không thể phủ nhận thành quả lớn lao và giá trị bất biến của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thứ nhất, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là sai lầm lịch sử, nó bùng nổ và giành thắng lợi do Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng suốt lựa chọn con đường giải phóng dân tộc một cách đúng đắn. Ngay trong những năm 20 của thế kỷ XX, trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Muốn cứu nước, muốn giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Sau 15 “diễn tập” qua các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945, khi tình thế và thời cơ cách mạng chín muồi, Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã phát động Tổng khởi nghĩa đứng lên giành chính quyền trên toàn quốc đúng thời cơ, vào thời điểm thuận lợi nhất nên đã giành thắng lợi.

Thứ hai, nếu không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì chúng ta không thể có cơ đồ, vị thế như hiện nay. Trước 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến, nghèo nàn, lạc hậu, chưa có tên trên bản đồ thế giới. Nạn đói năm 1945 do phát-xít Nhật gây ra đã cướp đi sinh mạng hơn 2 triệu người. Ngay sau khi vừa giành độc lập, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịchHồ Chí Minhđã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó cứu đói là nhiệm vụ hàng đầu và phong trào “Diệt giặc đói” được triển khai ngay. “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!”, “Không một tấc đất bỏ hoang”, “Tấc đất tấc vàng”... trở thành hành động thực tế của toàn Đảng, toàn dân. "Giặc đói" đã được đẩy lùi, tài chính bắt đầu được gây dựng lại. Chiến thắng “giặc đói” là một trong những thành tựu lớn đầu tiên của nhà nước cách mạng, thể hiện tính ưu việt của chế độ mới. Nhân dân càng thêm tin yêu và bảo vệ chính quyền cách mạng.

Song song với diệt “giặc đói”, Chính phủ còn vận động nhân dân xây dựng nền văn hóa mới, nếp sống mới, xóa bỏ văn hóa nô dịch của chủ nghĩa thực dân, phong kiến, phát triển phong trào “Bình dân học vụ” để từng bước xóa nạn mù chữ, tiếng Việt được chính thức dùng trong hệ thống trường học. Nếu không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chăm lo của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “giặc đói”, “giặc dốt” không thể bị đẩy lùi chỉ trong một thời gian ngắn như vậy. Ngày nay, nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986-2021), 30 năm thực hiện “Cương lĩnh đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (1991-2021), đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần. “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Đây là một sự thật lịch sử không thể phủ nhận, là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin có cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từng bước vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước. Những thành tựu đó là những minh chứng hùng hồn bác bỏ sự vu cáo, bịa đặt hòng chia rẽ khối đoàn kết toàn dân tộc, cố tình phủ nhận những thành quả cách mạng mà chúng ta đã đạt được.

Thứ ba, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã xóa bỏ sự thống trị của thực dân Pháp, phát-xít Nhật và phong kiến tay sai, dựng nên nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên trong lịch sử dân tộc, một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Mục tiêu của Cách mạng Tháng Tám là đánh đổ đế quốc Pháp, phát-xít Nhật và phong kiến tay sai, giành độc lập cho dân tộc. Đó không chỉ là sự chuyển giao từ chế độ “quân chủ phong kiến” sang chế độ “dân chủ cộng hòa”, mà là từ chế độ cai trị tàn bạo của thực dân, phong kiến sang chế độ nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước dân chủ nhân dân. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân”. Đồng thời, đối với cuộc cuộc xây dựng chế độ xã hội mới khác hẳn về chất so với chế độ xã hội cũ (phong kiến, thực dân). “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng dân chủ cộng hòa và thống nhất độc lập”.

Thứ tư, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời thì ngày 23-9-1945, được thực dân Anh giúp sức, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” bởi thù trong giặc ngoài, giặc đói, giặc dốt, sự khô kiệt về tài chính, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều giải pháp về đối nội lẫn đối ngoại, thực hiện chính sách để giữ gìn hòa bình, tránh “cuộc chiến tranh đổ máu vô nghĩa”.

Với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp đã bùng nổ ngày 19-12-1946. Vì bảo vệ chính quyền và nền độc lập dân tộc, bảo vệ thành quả cơ bản của Cách mạng tTháng Tám, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm gian khổ, ác liệt làm nên Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ngày 7-5-1954, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21-7-1954, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước trên bán đảo Đông Dương.

Song, với bản chất hiếu chiến, phản động, thực dân Pháp đã cấu kết và “bật đèn xanh” cho đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược miền Nam Việt Nam và Đông Dương, buộc nhân dân ta phải tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và tay sai suốt 21 năm (1954-1975). Với đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, độc lập tự chủ và tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất, bất chất mọi gian khổ, hy sinh với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới tàn bạo của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất non sông.

Như vậy, nguyên nhân sâu xa và cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), chống đế quốc Mỹ và tay sai (1954-1975) chính là do bản chất hiếu chiến xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai, chứ không phải một lý do nào khác, càng không phải do Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Tròn 76 năm qua, thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám dẫn tới sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà thành quả và giá trị của sự kiện đó luôn lớn lao và bất biến bởi nó đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Đó là bước nhảy vọt vĩ đại nhất, một đóng góp có ý nghĩa lịch sử cực kỳ to lớn.

Ngày 19-8-1945 được ghi vào lịch sử như một ngày mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đối với lịch sử dân tộc ta, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là sự kết thúc mà chính là sự mở đầu cho những giai đoạn phát triển thắng lợi tiếp theo của cách mạng Việt Nam.

Trần Trung HiếuGiáo viên Lịch sử, Trường THPT chuyên Phan Bội Châu - Nghệ An

Khó khăn cơ bản của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sau cách mạng Tháng Tám 1945 là gì
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người dân trong cả nước đã tích cực góp gạo cứu đói cho đồng bào. (Ảnh tư liệu)

(Stxdd.thanhuytphcm.vn) - Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám vừa thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời thì đã lập tức đối đầu với bao nhiêu khó khăn, thử thách, trong đó thù trong giặc ngoài đã đe dọa trực tiếp đến sự sống còn của chính quyền cách mạng.

Ngay trước khi Chính phủ lâm thời chính thức ra mắt đồng bào, ngày 22/8/1945, 20 vạn quân Tưởng do Lư Hán chỉ huy bắt đầu kéo vào Đông Dương. Ngày 7 đến ngày 10/9, các tên Tạ Sùng Kỳ và Tiêu Văn đến Hà Nội nhân danh phái bộ Trung Hoa, đem theo các tổ chức phản động: Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách). Ngày 14/9, Lư Hán đáp máy bay đến Hà Nội. Ngày 26 và 27/9, hàng vạn quân Tưởng lếch thếch kéo vào thủ đô. Ngày 7/10, Hà Ứng Khâm, Tổng Tham mưu trưởng quân đội của Tưởng Giới Thạch, đến Hà Nội cùng tướng Mỹ Mac Lure để xúc tiến xâm lược nước ta. Ngày 24/10, bọn Việt Quốc, Việt Cách dựa vào áp lực của quân Tưởng đã bắt cóc nhân viên chính phủ ta, đòi ta phải nhượng cho chúng 7 ghế trong Chính phủ: Nội vụ, Quốc phòng, Tài chính, Kinh tế, Thanh niên, Giáo dục, Kiều vụ và 2 chức Tổng lý Nội các và Tổng Tham mưu trưởng. Tuy nhiên, chúng ta chỉ chấp nhập nhân nhượng hạn chế: lãnh đạo Việt Cách Nguyễn Hải Thần được bổ nhiệm vào ghế Phó Chủ tịch Chính phủ; đồng thời hai ghế bộ trưởng Y tế và Vệ sinh, một ghế thứ trưởng Quốc dân kinh tế được giao cho các thành viên của Việt Quốc, Việt Cách. Cuối tháng 12/1945, Lư Hán đưa tối hậu thư đòi Chính phủ ta phải loại các bộ trưởng là đảng viên cộng sản… Cùng với các hoạt động chính trị, quân Tưởng và các thế lực phản động liên tục thực hiện nhiều hoạt động cướp bóc, khủng bố, phá hoại, buôn lậu…

Ở miền Nam, dựa vào quân Anh, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. Ngày 23/9/1945, tiếng súng chống Pháp đã nổ tại Sài Gòn, sau đó lan rộng toàn Nam bộ, báo hiệu một trận chiến mới vô cùng khắc nghiệt.

Tình thế lúc này được những người trong cuộc và những người chép sử gọi là “ngàn cân treo sợi tóc”. Thực sự không có hình tượng nào phản ánh đúng hơn!

Khó khăn cơ bản của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sau cách mạng Tháng Tám 1945 là gì
Cố vấn Vĩnh Thụy (cựu hoàng Bảo Đại) phát biểu trong buổi đấu giá tranh Chủ tịch Hồ Chí Minh trong ngày bế mạc Tuần lễ Vàng, ngày 29/9/1945). (Ảnh tư liệu)

Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đối sách vô cùng sáng suốt, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết. Riêng trong việc xây dựng và củng cố chính quyền, vấn đề được coi là cơ bản, cốt yếu của mọi cuộc cách mạng xã hội, đã được thực hiện rất quyết liệt và đạt được những kết quả rất quan trọng, góp phần giữ vững thành quả cách mạng.

Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: chống giặc đói; chống giặc dốt; tổ chức tổng tuyển cử; giáo dục lại tinh thần của nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò và cấm thuốc phiện; thực hiện tự do tín ngưỡng.

Đối với thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu. Ngày 5/9/1945, Người kêu gọi: “(Nhân dân Việt Nam) cương quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ một lần nữa… Hiện một số quân Pháp đã lọt vào nước ta. Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu!”.

Ngày 10 và 11/9/1945, Hội nghị cán bộ Bắc kỳ của Đảng đã ra nghị quyết, trong đó về vấn đề chính quyền, nghị quyết nêu rõ: huy động các hạng nhân tài và chính trị phạm ra giúp việc; cấp tốc tổ chức các ủy ban nhân dân các làng, các phố; thi hành thống nhất các chương trình của Việt Minh và do Chính phủ quyết định…

Ngày 11/9/1945, với bút danh Chiến Thắng, Hồ Chí Minh nêu “cách tổ chức các ủy ban nhân dân” (làng, huyện, tỉnh, thành phố), đăng trên báo Cứu quốc. Theo đó, mỗi ủy ban có từ 5 - 7 người, gồm một chủ tịch, một phó chủ tịch, một thư ký, một ủy viên phụ trách chính trị, một ủy viên phụ trách kinh tế - tài chính, một ủy viên phụ trách quân sự, một ủy viên phụ trách xã hội. Người nhấn mạnh: “Ủy ban nhân dân tổ chức và làm việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới, khác hẳn các cơ quan do bọn thống trị cũ đặt ra”.

Khó khăn cơ bản của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sau cách mạng Tháng Tám 1945 là gì
Nhân dân Hà Nội đón Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị ứng cử đại biểu Quốc hội khóa I tại Hà Nội. (Ảnh tư liệu)

Từ ngày 17 đến 24/9/1945, Chính phủ tổ chức “Tuần lễ vàng” để có nguồn tài chính phục vụ việc xây dựng đất nước và chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược. Trong một tuần, nhân dân quyên góp tổng cộng 60 triệu đồng Đông Dương và 370 ký vàng. Khi Cách mạng thành công, chúng ta chiếm được Ngân hàng Đông Dương nhưng chỉ thu được 1,25 triệu đồng Đông Dương mà trong đó phần lớn là tiền rách nát! Điều đó cho thấy ý nghĩa lớn lao của “Tuần lễ vàng” như thế nào.

Để đối phó với sự công kích trực diện của kẻ thù, ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt động bí mật, đồng thời thành lập Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, hoạt động công khai.

Bấy giờ, để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động cách mạng, Đảng ta đã chỉ đạo phát triển rộng khắp các tổ chức quần chúng, mở rộng mặt trận đoàn kết toàn dân. Chẳng hạn, trong các xí nghiệp thì có ủy ban công nhân (sau đổi thành ủy ban xí nghiệp); tổ chức lực lượng Thanh niên cứu quốc, Tự vệ chiến đấu (kể cả trong học sinh, thanh niên Công giáo và hướng đạo); tổ chức Phụ nữ cứu quốc; tiếp tục phát triển Hội Văn hóa cứu quốc; đồng thời hình thành nhiều tổ chức quần chúng khác như Công thương cứu quốc đoàn, Cựu binh sĩ cứu quốc đoàn, Liên đoàn Công giáo cứu quốc, Hội Phật giáo cứu quốc…

Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ban hành chỉ thị về kháng chiến kiến quốc (mật), nêu rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược” nên “chiến thuật của ta lúc này là lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”, đồng thời “phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”, “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức”.

Khó khăn cơ bản của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sau cách mạng Tháng Tám 1945 là gì
Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra ngày 2/3/1946 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. (Ảnh tư liệu)

Ngày 6/1/1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I đã diễn ra tại 71 tỉnh thành trong cả nước theo lối phổ thông đầu phiếu và chọn ra 333 đại biểu. Hai Đảng đối lập trong Chính phủ là Việt Quốc và Việt Cách không tham gia bầu cử; trong kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế thuộc các đảng này, nâng tổng số đại biểu là 403. Cuộc bầu cử đã được toàn dân nô nức tham gia; dù diễn ra trong điều kiện chiến sự, có sự cản trở, phá hoại của bọn phản động và sự hạn chế đi lại nhưng có đến 89% cử tri đi bầu; thậm chí ở Trung bộ và Nam bộ, cuộc bầu cử đã có đổ máu, với ít nhất 42 cán bộ của ta hy sinh. Tại kỳ họp đầu tiên, Quốc hội đã công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu; với hai đảng đối lập, Việt Quốc nắm một số bộ gồm Kinh tế, Ngoại giao, Việt Cách nắm chức Phó Chủ tịch Chính phủ, Bộ Xã hội, Y tế, Cứu tế - Lao động, Canh nông. Sau đó, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1946 tại kỳ họp thứ hai.

Đối với vấn đề ngoại xâm, ngày 6/3/1946, Chính phủ ta đã ký Hiệp định Sơ bộ với Pháp, đồng ý cho 15.000 quân Pháp thay thế quân Tưởng giải giáp quân Nhật. Đến tháng 6/1946, toàn bộ quân Tưởng rút khỏi Việt Nam; bọn phản động mất chỗ dựa nên ra sức chống phá, nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Pháp đã mưu toan đảo chính lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 7/1946, âm mưu của chúng bị vạch trần, thông qua sự kiện vụ án phố Ôn Như Hầu. Vụ phá án đã đập tan cuộc đảo chính phản cách mạng, làm tan rã hệ thống tổ chức của một đảng phản động, phá vỡ liên minh phản cách mạng giữa bọn phản động bên trong với thế lực xâm lược bên ngoài.

Có thể thấy, việc giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh đạo của Đảng là hết sức ngoạn mục, vừa chớp được thời cơ, vừa giành thắng lợi trọn vẹn, vừa hạn chế tối đa đổ máu. Các diễn biến tiếp theo đó trong việc giữ vững thành quả cách mạng cũng ngoạn mục không kém, khi chính quyền non trẻ đã phải cùng lúc đương đầu với rất nhiều kẻ thù, rất nhiều thử thách khốc liệt. Nhưng dưới sự sáng suốt của Đảng, của Chính phủ, đứng đầu là Chính phủ Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng không những được giữ vững mà còn không ngừng được củng cố và phát triển. Đến tháng 12/1946, khi toàn quốc kháng chiến nổ ra, chính quyền cách mạng đã thực sự vững mạnh và đủ sức lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng là vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Nhờ đó, cuộc kháng Pháp của nhân dân ta dù lúc đầu hết sức khó khăn nhưng dần dần ta đã chiếm ưu thế và giành thắng lợi cuối cùng.

Nguyễn Minh Hải

Tin liên quan