Năm 1870 chiến tranh Pháp Phổ nổ ra trong bối cảnh lịch sử như thế nào

Năm 1870, cuộc chiến tranh Pháp – Phổ nổ ra trong bối cảnh lịch sử như thế nào?

B. Điều kiện không có lợi cho Pháp

Đáp án chính xác

C. Đế chế thứ III đang ở Pháp đang ở giai đoạn cực thịnh

D. Hoàng đế Pháp bị bắt làm tù bình

Xem lời giải

Năm 1870, cuộc chiến tranh Pháp – Phổ nổ ra trong bối cảnh lịch sử như thế nào?


Câu 45936 Nhận biết

Năm 1870, cuộc chiến tranh Pháp – Phổ nổ ra trong bối cảnh lịch sử như thế nào?


Đáp án đúng: b

Phương pháp giải

Dựa vào hoàn cảnh ra đời của công xã để trả lời

Công xã Pari 1871 --- Xem chi tiết
...

Mục lục

  • 1 Tóm lược
  • 2 Nguyên nhân
  • 3 Lực lượng hai phía
    • 3.1 Quân đội Pháp
    • 3.2 Quân đội Phổ
    • 3.3 Hoạt động của hải quân Pháp - Phổ
  • 4 Quân Pháp bất ngờ tiến công
    • 4.1 Chuẩn bị tấn công
    • 4.2 Chiếm đóng Saarbrücken
  • 5 Quân Phổ tiến công
    • 5.1 Trận Wissembourg
    • 5.2 Trận Spicheren
    • 5.3 Trận Wœrth
    • 5.4 Trận Mars-la-Tour
    • 5.5 Trận Gravelotte
    • 5.6 Trận vây hãm pháo đài Metz
    • 5.7 Trận Sedan
  • 6 Chính phủ Vệ quốc Pháp
    • 6.1 Lệnh ngừng bắn đổ vỡ và giao chiến tiếp diễn
    • 6.2 Cuộc vây hãm Paris
    • 6.3 Ngừng chiến
  • 7 Kết quả cuộc chiến
    • 7.1 Phản ứng của Phổ và cuộc rút quân
    • 7.2 Phản ứng của Pháp với sự thất trận
    • 7.3 Nước Đức thống nhất và trở thành cường quốc châu Âu
    • 7.4 Thái độ của Anh Quốc
    • 7.5 Góc nhìn của người Ba Lan
  • 8 Chú thích
  • 9 Tham khảo
  • 10 Liên kết ngoài

Tóm lượcSửa đổi

Cuộc chiến nối tiếp chiến thắng của nước Phổ hùng mạnh trong cuộc Chiến tranh Áo – Phổ, và là kết quả của sự căng thẳng kéo dài nhiều năm giữa hai cường quốc, mà ngòi nổ là mâu thuẫn về việc một Hoàng thân của Vương triều nhà Hohenzollern ứng cử ngai vàng của Tây Ban Nha bị bỏ trống sau khi Nữ hoàng Isabel II bị phế truất năm 1868. Việc bản tuyên cáo Ems bị để lộ ra cho báo chí, trong đó cường điệu sự lăng mạ giữa Quốc vương nước Phổ và đại sứ Pháp, đã như châm thêm dầu vào lửa ở cả hai phía. Bất chấp thất bại vừa qua tại México,[12] nước Pháp tổng đđội viên quân đội và đến ngày 19 tháng 7 tuyên chiến với Phổ Quốc. Quân Pháp gặp hỗn loạn và vấn đề hậu cần.[20] Thủ tướng Bismarck cho rằng chiến tranh chống Pháp là rất cần thiết cho quá trình nhất thống Đức Quốc.[27] Đúng như tầm nhìn xa trông rộng của Bismarck[24], các tiểu quốc Đức nhanh chóng đứng về phía Phổ và tham chiến chống Pháp. Với quân số đông đảo, chiến sĩ tinh nhuệ, nước Phổ tổng động viên ba quân nhanh chóng hơn hẳn Pháp,[27] trong khi Pháp còn bị rối loạn trầm trọng.[20] Theo lệnh của nhà chiến lược thiên tài Moltke, ba đạo quân Phổ (trong đó có Đệ Tam Đại quân gồm có cả Quân đội Nam Đức) - đều được trang bị hoàn hảo và có khoảng 472 nghìn chiến sĩ với những Tiểu đoàn hùng hậu tiến đánh Pháp Quốc, nhằm tiêu diệt quân Pháp và đánh chiếm Paris.[19][24][28]

Sức mạnh vượt trội của nước Phổ và Đức hiển hiện nhanh chóng, một phần bằng việc sử dụng hiệu quả vận chuyển bằng đường sắt (hệ thống đường sắt Phổ lớn thứ tư trên thế giới trong khi hệ thống đường sắt Pháp thì lớn thứ năm[29]) và Pháo binh tân tiến hiệu Krupp. Sức mạnh khủng khiếp của lực lượng Pháo binh Đức, cùng với sự bày binh bố trận rất chuẩn mực của Tổng Tham trưởng Moltke đã hoàn toàn áp đảo thế mạnh của Pháp về súng trường Chassepot.[28] Quân đội Đức-Phổ chọc thủng lỗ hổng Lorraine,[27] giành thẳng thế chủ động từ tay quân Pháp,[20] nhanh chóng giành được một loạt thắng lợi tại miền đông nước Pháp (ví dụ như Trận Spicheren nơi quân Đức của Thống chế Karl Friedrich von Steinmetz dùng đại pháo hiệu Krupp hủy diệt địch và đánh tạt sườn địch[30], Trận Wörth nơi Hoàng thái tử Friedrich đại phá quân của Thống chế Patrice de Mac-Mahon[31], Trận Gravelotte cực kỳ khốc liệt nơi các chiến sĩ Đức anh dũng trở nên rạng danh uy chấn nhờ đánh bại tan tác đạo quân Pháp có thế mạnh hơn và đuổi quân Pháp về Metz[32][33]), những chiến thắng lẫy lừng này là bước ngoặt ban đầu phá vỡ tinh thần tấn công của Pháp.[23] Đội Kỵ binh Phổ của Thiếu tướng Friedrich Wilhelm Adalbert von Bredow đã lập nên chiến công ngàn thu mang lại thắng lợi lớn cho quân Phổ trong Trận Mars-la-Tour.[34] Loạt thắng lợi chứng tỏ sự tinh nhuệ, nề nếp của quân Phổ hơn hẳn sự kém hiệu quả, bất lực của quân Pháp - chỉ trong vòng sáu tuần mà đoàn binh tinh nhuệ Phổ đã tiến công nhanh gọn và hạ nhục Pháp.[35][36] Đỉnh điểm là Trận Sedan, khi mà quân Pháp thất thế,[35] Đại tướng Moltke đại thắng Thống chế Mac-Mahon,[31] đồng thời Napoléon III và toàn bộ đạo quân dưới quyền bị bắt vào ngày 2 tháng 9 - thất bại thảm hại của Pháp chỉ 6 tuần sau khi chiến sự nổ ra.[27] Với tính chất hủy diệt rất cao, đại thắng mang tính bước ngoặt ở Sedan là một thắng lợi "thiêng liêng"[37], huyền thoại, lớn lao hàng đầu trong suốt chiều dài lịch sử quân sự Phổ - Đức, khắc họa kế hoạch vây bọc của Moltke và đỉnh cao vinh quang của Bismarck.[12][38][39] Không những Đệ Nhị Đế chế Pháp sụp đổ mà do đạo quân đồn trú Pháp tại La Mã phải sang giao chiến với Đức nên quân đội Ý thừa cơ đoạt lấy thành La Mã.[40] Chiến thắng huy hoàng trong trận đánh Sedan với ý nghĩa quyết định đã tạo điều kiện cho Liên minh Đức sớm chấm dứt chiến sự với thắng lợi của mình.[35][41] Ngoài ra, Quân đội Phổ sau khi nhử được mồi còn xiết chặt quân Pháp và chiếm đoạt được pháo đài Metz.[24][33][35] Nước Pháp thất trận hoàn toàn náo loạn.[20] Tuy nhiên, cuộc chiến chưa chấm dứt: Đệ Tam cộng hòa được tuyên bố thành lập ngày 4 tháng 9 tại Paris, và người Pháp tiếp tục kháng cự dưới sự chỉ huy của Chính phủ Vệ Quốc (Le Gouvernement de la Défense Nationale) và sau đó là Adolphe Thiers. Trong vòng 5 tháng, quân đội Đức-Phổ đánh bại những đạo quân mới được tuyển mộ của Pháp trong một loạt trận chiến dọc miền Bắc nước Pháp, tiếp tục sự chiếm đóng của người Đức trên đất Pháp.[5] Nỗ lực của Chính phủ Vệ quốc hoàn toàn bị binh lính Đức đập tan.[35]

Sau đại bại, Napoléon III chạy sang Anh Quốc[36]. Tuy thất bại thảm hại nhưng cuộc chiến đấu tiếp diễn của Pháp trong thời gian này đã biểu hiện vai trò, sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ ấy.[5] Quân đội Đức – Phổ cùng công hãm thủ đô Paris của Pháp và cắt nguồn tiếp tế, đánh lui các đợt chống trả của Pháp[42]. Những đoàn quân hùng mạnh của Von Moltke trên đà thắng lợi, và rồi với thất bại hết sức thê thảm trong trận Le Mans, quân Pháp đã suy sụp nhuệ khí nghiêm trọng và chẳng thể nào cứu vãn Paris.[43][44] Quân Đức thắng thế cũng đánh cho tan nát Binh đoàn Lê dương Pháp vừa đổ bộ lên nghênh chiến.[20] Quân Lê dương Pháp bị giải ngũ trong ô nhục,[20] trong khi dân chúng Paris đói khổ.[35] Sau cùng, Paris thất thủ vào ngày 28 tháng 1 năm 1871 sau một cuộc vây hãm kéo dài. Quân Đức lấy được Paris buộc chính quyền Pháp phải cầu hoà, đầu hàng Đế quốc Đức.[5][20] Mười ngày trước đó, tại cung điện Versailles,[45] các tiểu quốc Đức đã tuyên bố hợp nhất dưới sự trị vì của nhà vua nước Phổ, thống nhất nước Đức thành Đế quốc Đức do nước Phổ làm minh chủ.[2] Đây là thắng lợi quyết định của Thủ tướng Otto von Bismarck,[24] đánh dấu chiến thắng toàn diện về mặt chính trị của ông.[12] Ông được Đức hoàng phong làm Vương công.[14] Chiến thắng lừng lẫy của nước Đức trong cuộc Chiến tranh Pháp – Đức này cũng thể hiện hiệu quả lớn lao của sự kết hợp giữa sự lãnh đạo dân sự mạnh mẽ của Bismarck và tài năng tổ chức quân sự xuất sắc của Moltke.[1] Với những điều khoản khe khắt của nước Đức áp đặt cho kẻ thù bại trận,[46] Hiệp ước Frankfurt được ký kết giữa nước Đức trỗi dậy với nước Pháp thất trận vào ngày 10 tháng 5 năm 1871 chấm dứt chiến tranh,[24] trong giai đoạn máu lửa của phong trào Công xã Paris năm 1871. Nước Đức đã hoàn toàn cuộc chinh phạt và áp đảo Pháp, buộc Pháp phải đóng một khoản chiến phí khổng lồ, dù điều này không hệ trọng bằng việc Pháp nhượng hai tỉnh Alsace - Lorraine.[35][47] Chiến thắng lớn lao trong cuộc chiến tranh này đưa Đế quốc Đức trở nên vô cùng hùng mạnh, phá vỡ hoàn toàn cán cân quyền lực ở châu Âu.[36][48] Nhiệt huyết của người Đức trở nên sục sôi dâng trào với chiến thắng quyết định này, họ quên đi tất cả những chia rẽ xưa kia.[24][27] Đồng thời, chiến thắng này cũng thể hiện những điểm ưu việt của lực lượng Quân đội Phổ như các chiến sĩ được trang bị tốt và có Bộ Tổng Tham mưu tổ chức chiến sự,[23] và còn là một thắng lợi của nền giáo dục quân sự Đức lúc ấy.[49] Như một chiến quả rực rỡ của thắng lợi trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ nói riêng và hàng loạt của chinh chiến của vị Thủ tướng đại tài Bismarck nói chung, nền Đế quốc Đức ra đời, là một dân tộc hùng mạnh có chủ quyền, phát triển vô song về mọi mặt và mở ra một thời đại mới mẻ trong lịch sử châu Âu, đóng vai trò vô cùng to lớn và quan trọng đối với cả tình hình chính trị quốc tế thế kỷ XX.[3][20][27] Dưới ảnh hưởng từ chiến thắng vang lừng [50], nền quân sự Đức vẫn tiếp tục phát triển rực rỡ, phát huy đại pháo hiệu Krupp sau thắng lợi hiển hách,[51] trong khi Pháp sau thất bại ô nhục đã tiến hành cải cách – mà đến khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ thì vẫn thất bại.[52] Trong quá trình cải tổ ấy, nước Pháp thất trận thậm chí còn áp dụng theo khuôn mẫu của nước Đức chiến thắng.[49] Sau đại thắng trong cuộc Chiến tranh Pháp – Đức, nước Đức dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bismarck không những rộng hơn mà còn nhanh chóng công nghiệp hóa.[53] Trong khi ấy, nếu như nền Đệ Tam Cộng hòa Pháp có cái xuất thân tệ hại là ra đời với chiến bại ô nhục trong cuộc Chiến tranh Pháp – Đức lần thứ nhất này, nó sẽ bị sụp đổ với một thất bại khác, trong cuộc Chiến tranh Pháp – Đức lần thứ ba (1940).[54]

Nguyên nhânSửa đổi

Nguyên nhân chiến tranh Pháp – Phổ có gốc rễ từ sự phân chia quyền lực giữa các liệt cường kể từ sau cuộc Chiến tranh Napoleon. Người Đức và Pháp vốn đã có mối thù từ lâu, kể từ năm 843 khi Đế quốc Frank bị chia cắt theo Hiệp ước Verdun. Dưới triều nhà Bourbon, Tể tướng Pháp là Hồng y Richelieu đã bắt đầu thực hiện chính sách gây bất lợi cho Đức để mà khiến nước Pháp trở nên cường thịnh hơn.[23] Tuy nhiên, những cội nguồn gần đây nhất của mối thù này là cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoléon. Trong những cuộc chiến ấy, hai liệt cường của người Đức là Áo và Phổ đã tấn công Paris trong các năm 1792 - 1793, trong khi Pháp xâm lược Áo và Phổ trong các năm 1805 - 1813 và liên quân Áo – Phổ lại tiến đánh Paris vào các năm 1813 – 1814.[55] Nước Pháp thất trận, Hoàng đế Napoleon đệ Nhất bị đày ở đảo Elba. Song trong thế kỷ thứ XIX, vùng đất Đức hãy còn bị chia rẽ, với nhiều quốc gia khác nhau (trong đó có Vương quốc Phổ).[20] Với việc Napoleon đệ Tam lên ngai vàng sau cuộc đảo chính ở Pháp, và việc Otto von Bismarck trở thành Thủ tướng vương quốc Phổ, căng thẳng giữa hai nước ngày càng lên cao kể từ cuộc chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Nước Phổ giờ đây trở thành một liệt cường mới nổi trên lục địa châu Âu.

Otto von Bismarck, Thủ tướng Phổ
Napoleon III, Hoàng đế Pháp

Sau khi thắng trận Königgrätz, đàm phán hòa bình giữa Áo và Phổ diễn ra. Một phần do Pháp đứng trung lập, không can thiệp vào cuộc chiến cũng như quá trình đàm phán, nên Hoàng đế Áo là Franz Joseph I chấp nhận những đòi hỏi mà Bismarck đưa ra, theo đó Bismarck tuyên bố Liên minh các quốc gia Đức thành lập từ năm 1815 không còn giá trị, thay thế vào đó là một tập hợp các tiểu quốc Đức dưới quyền lãnh đạo của Phổ. Các tiểu quốc như Frankfurt-am-Main, Hannover, Hesse-Kassel (còn gọi là Hesse-Cassel), Holstein, Nassau, và Schleswig bị sáp nhập vào Phổ, trong khi Đại công quốc Hesse-Darmstadt, Mecklenburg, Sachsen, và công quốc Thüringen, cũng như các thành phố Bremen, Hamburg, và Lubeck phải hợp nhất vào Liên minh Bắc Đức.[56] Liên minh này tuy chưa hẳn là một quốc gia dân tộc nhưng có tiền tệ, phong tục riêng và trên lý thuyết thì có nền quân sự riêng. Quốc vương Wilhelm I trở thành Chủ tịch của Liên minh trong khi Bismarck là Thủ tướng, với quyền hành đáng kể. Như vậy, Liên minh Bắc Đức là một liên minh quân sự theo đó vị Quốc vương nước Phổ thống suất toàn bộ quân đội các quốc gia ở Đức.[57]

Đại sứ Pháp tại Phổ là Vincent Benedetti ngay sau đó xin được hội kiến với Bismarck. Benedetti mang theo đề nghị bí mật của Napoleon III, theo đó Pháp sẽ chấp thuận để Bismarck thâu tóm các tiểu quốc miền bắc Đức và quyền điều khiển các tiểu quốc nam Đức, để đổi lại việc Pháp sáp nhập Bỉ và Luxembourg, dù trước đó Pháp đã cam kết bảo vệ nền độc lập của Bỉ trong Hiệp ước Luân Đôn năm 1839. Bismarck hết sức kinh ngạc, vì Đức đã vươn lên hàng cường quốc châu Âu sau khi ký kết bản hòa ước, và gọi đề xuất của Napoleon là sự vòi vĩnh hoa hồng của một anh hầu bàn. Ông yêu cầu Benedetti viết đề xuất này ra giấy trắng mực đen, và tài liệu này sau trở thành một con bài quan trọng trong tay Bismarck.[58]

Vị thế của Pháp trên chính trường châu Âu vốn đã trở nên lung lay vì việc nước Phổ trỗi dậy, nay càng yếu thế trước những thắng lợi mà Bismarck gặt hái được. Rõ ràng, chiến thắng quyết định của Vương quốc Phổ trước Đế quốc Áo đã thể hiện thất bại của chính quyền Napoléon III trong chính sách kìm hãm sự nhất thống của nước Đức[22]. Thêm vào đó, tình hình chính trị ở nước Pháp cũng rất không thuận lợi cho hoàng đế Napoleon III, với việc những người cộng hòa gia tăng sức ép đòi hỏi cải cách dân chủ[59], cùng với những tin đồn về khả năng cách mạng bùng nổ. Hơn nữa, cuộc can thiệp vào México thất bại, với việc Hoàng đế Mexico là Maximilian đệ Nhất - nguyên là một Hoàng thân Áo - bị bắt và bị xử tử năm 1867.[60]. Tình thế khiến chính quyền Pháp phải tìm kiếm thắng lợi từ bên ngoài, để xoa dịu quần chúng. Nếu như Pháp có thể đánh bại Phổ và giành được các lãnh thổ trên sông Rhine, và sau đó là Luxembourg và Bỉ, thì đó sẽ là cơ hội tốt nhất tập hợp sự ủng hộ của dân chúng cho Vương triều Bonapart[61]. Không những lo sợ nước Phổ dẫn đầu cả đất Đức, Napoléon III muốn kiếm lại vinh quang cho mình.[20]

Nước Phổ cũng phải đối mặt với những khó khăn của họ. Một mặt, khả năng xảy ra cách mạng ở Phổ là không đáng kể, nhưng kể từ sau chiến thắng Áo năm 1866, Phổ giành thêm được hàng triệu thần dân mới. Các tiểu quốc Đức khác có thái độ hẹp hòi, cục bộ, hờ hững với Phổ và mong muốn thống nhất nước Đức dưới ngọn cờ của Phổ. Các công vương Đức khăng khăng đòi duy trì sự độc lập của mình, phản đối bất kỳ nỗ lực nào nhằm xây dựng một liên bang Đức với thủ phủ đặt tại kinh kỳ Berlin của nước Phổ. Họ càng tỏ ra lo ngại với chiến thắng chớp nhoáng của Phổ và việc Phổ tiến hành sáp nhập một số tiểu quốc Đức sau đó[62] Trước khi chiến tranh Pháp - Phổ nổ ra, chỉ có một vài tiểu quốc Đức tỏ ra mong muốn thống nhất nước Đức.

Von Bismarck vốn có quan điểm riêng, ông chỉ quan tâm vào việc thống nhất nước Đức nếu nó giúp củng cố vị thế của nước Phổ[63] Bismarck trước chiến tranh đã đề cập đến việc cắt cho Pháp các lãnh thổ dọc sông Rhine, và Napoleon III, bị thúc giục bởi các cố vấn của mình, trên cơ sở đó đòi thêm các lãnh thổ mà Phổ giành được sau chiến tranh với Áo. Các cuộc đàm phán đó bị Bismarck để lộ ra ngoài, khiến cho các tiểu quốc Đức vốn thù nghịch với Phổ nhanh chóng đổi thái độ, cam kết với Phổ đặt quân đội của họ dưới quyền chỉ huy của Phổ trong trường hợp chiến tranh với Pháp nổ ra[64]

Quốc vương Wilhelm I ra trận mạc (ngày 31 tháng 8 năm 1870), qua nét vẽ của nhà danh họa Adolph von Menzel.

Tình hình châu Âu cũng tỏ ra thuận lợi cho Phổ. Các tiểu quốc Đức vốn thù nghịch với Phổ và thân thiện với Pháp nay e ngại tham vọng lãnh thổ của Pháp dọc sông Rhine và tìm kiếm sự bảo vệ quân sự từ Phổ. Đan Mạch từng thua Phổ trong hai cuộc chiến tranh trước đó, và chưa sẵn sàng tham chiến. Áo muốn báo thù trận thua vừa rồi, nhưng ra điều kiện chỉ tham chiến nếu Ý cũng tham gia liên minh. Tuy nhiên dư luận Ý đang hết sức không thân thiện với Pháp, do việc Hoàng đế Pháp gửi quân bảo vệ Giáo hoàng tại La Mã, cản trở việc sáp nhập thành La Mã vào quá trình thống nhất nước Ý. Nước Nga ủng hộ Phổ, cam kết gửi quân đội chống lại Áo trong trường hợp Áo tiến hành các hoạt động quân sự chống Phổ. Như vậy nước Phổ có thể yên tâm dốc lực lượng về mặt trận Pháp. Anh không hài lòng với tham vọng lãnh thổ của Pháp ở Bỉ và Luxembourg, nên sẽ không làm gì để giúp Pháp hết.

Nguyên nhân trực tiếp xảy ra chiến tranh là vấn đề ngai vàng nước Tây Ban Nha. Một cuộc Cách mạng bùng nổ đã dẫn đến sự sụp đổ của Vương triều Bourbon vào năm 1869. Sau khi Nữ hoàng Tây Ban Nha phải chạy trốn sang Pháp[37], người Tây Ban Nha muốn chọn hoàng thân Đức Leopold dòng Hohenzollern-Sigmaringen kế vị, nhưng Pháp không chấp thuận để một hoàng thân Đức họ hàng với vua Phổ lên làm vua Tây Ban Nha, vì lo ngại Pháp sẽ bị kẹp giữa hai gọng kìm (họ vốn lo sợ Vương triều Hohenzollern sẽ vây bọc họ giống như Vương triều Habsburg dưới triều Hoàng đế Karl V của Đế quốc La Mã Thần thánh dân tộc Đức hồi thế kỷ thứ XVI và thế kỷ thứ XVII[37]). Vào tháng 2 năm 1870, Thủ tướng Tây Ban Nha là Marshal Prim đã thỉnh tấu vua nước Phổ cử Leopold làm người kế thừa ngai vàng Tây Ban Nha.[37] Lời qua tiếng lại trên bàn ngoại giao làm căng thẳng gia tăng ở cả hai phía. Bị thúc giục bởi cả ngoại trưởng Pháp và Phổ, Nhà vua nước Phổ Wilhelm đệ Nhất chấp thuận thuyết phục hoàng thân Leopold từ chối đề nghị ngai vàng Tây Ban Nha. Tuy nhiên phía Pháp tỏ ra thất vọng Phổ bỏ cuộc quá dễ dàng, nên tiếp tục lớn tiếng đe dọa chiến tranh nếu việc một Hoàng thân của Vương triều nhà Hohenzollern trên ngai vàng Tây Ban Nha được đặt lên bàn thương lượng trở lại. Nhà vua Wilhelm đệ Nhất gửi điện trả lời, với lời lẽ nhã nhặn, nhưng cương quyết, bác bỏ tối hậu thư của Pháp, nhưng tối hôm ấy, khi Otto von Bismarck vời vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Phổ là Đại tướng Helmuth Karl Bernhard von Moltke cùng Bộ trưởng Chiến tranh là Đại tướng Albrecht von Roon đến ăn tối nhằm thảo luận để xoa dịu tình hình, ông chợt đọc được bức điện báo này,[35] và khôn khéo sửa chữa lời lẽ của bức điện, khiến nó trở nên khó mà chấp nhận được với chính phủ Pháp. Ông rút ngắn bức điện, nhưng không thay đổi các sự thật, và biểu hiện rõ rằng chính Bá tước Benedetti đã lăng mạ nhà vua nước Phổ và nhà vua nước Phổ thẳng tay trừng trị Benedetti.[35] Từ ban đầu, Bismarck là người kịch liệt ủng hộ sự lên ngôi của Hoàng thân Leopold.[37] Bức điện nhanh chóng được để lộ cho báo chí, với kết quả là người Pháp cho rằng vua Phổ đã lăng mạ Đại sứ Pháp, bá tước Benedetti, trong khi người Phổ thì lại cho rằng chính bá tước Benedetti là người đã làm nhục nhà vua nước Phổ. Chính phủ Pháp nhanh chóng nhóm họp và tuyên bố "tiến hành ngay tức khắc các biện pháp để bảo vệ quyền lợi, an ninh và danh dự của nước Pháp."[65]. Dân chúng Pháp trở nên xôn xao về việc Ngoại trưởng bị "sỉ nhục". Lập tức, quần chúng tụ tập ở kinh thành Paris và biểu hiện thái độ căm phẫn.[35] Không những thế, Ngoại trưởng Pháp là Công tước Gramont cũng có lời tuyên bố trước Quốc hội Pháp vào ngày 6 tháng 7 năm 1870: "một thế lực ngoại bang, đã đưa một Hoàng thân của mình lên ngai vàng của Karl V, để phá vỡ thế cân bằng quyền lực của châu Âu, khiến chúng ta bất bình, do đó gây tai họa cho quyền lợi của nước Pháp".[37] Ông ta quyết tâm không để cho Đế quốc của Karl V được hồi phục.[35] Nước Pháp tổng động viên quân đội vào ngày 14 tháng 7 năm 1870, một ngày trước khi nước Phổ ban lệnh này, tuy nhiên quân Pháp không những tổng động viên chậm hơn Phổ mà còn rối loạn.[23] Đã hỗn loạn rồi, người Pháp còn gặp phải vấn đề về lô-gíc.[20] Tại kinh thành Berlin, khi tin này truyền đến, Tổng Tham mưu trưởng Von Moltke liền bắt tay vào việc soạn thảo kế hoạch chiến tranh.[66] Pháp chính thức tuyên chiến với Phổ ngày 19 tháng 7 năm 1870, chỉ vài giờ sau khi lời tuyên bố được đưa ra. Người Pháp cả tin rằng nước Phổ nhất thiết sẽ phải thất trận.[67] Ngay bốn ngày trước khi Hoàng đế nước Pháp phát lệnh tuyên chiến, Thủ tướng Pháp là Emile Ollivier đã tuyên bố rằng ông ta cảm thấy nguy cơ chiến tranh với nước Phổ sắp tới, mà không chút băn khoăn lo sợ.[24] Thể theo các hiệp ước bí mật được ký với nước Phổ và theo đòi hỏi của dân chúng, các vương quốc Đức như Bayern, Baden, và Württemberg tổng động viên quân đội để tham chiến chống Pháp.[68] Như vậy, tầm nhìn xa trông rộng của Thủ tướng Bismarck đã mang lại lợi ích cho Phổ Quốc.[24] Chỉ không lâu sau lời tuyên chiến với mỗi nước Phổ, nước Pháp trong tình trạng chiến tranh với toàn thể dân tộc Đức.[35]

Việc Napoléon III tuyên chiến với nước Phổ bị xem là một sai lầm ngu ngốc.[20] Nhìn chung, những sự kiện 1867 – 1870 toàn liên quan tới đàm phán giữa Thủ tướng Bismarck và Triều đình Napoléon III, mà cuối cùng là dẫn đến cuộc Chiến tranh Pháp – Phổ.[35]