Nội dụng cơ Bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là gì

Cách mạng công nghiệp lần 2 bùng nổ với tốc độ phát triển tiến bộ khoa học - kỹ thuật được thể hiện một cách rõ ràng.

Cuộc cách mạng công nghiệp 2.0, hay còn gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần 2, là một cuộc cách mạng tạo ra những tiến bộ đột phá trong sản xuất, công nghệ và phương pháp sản xuất công nghiệp. 

Cuộc cách mạng công nghiệp lần 2 diễn ra khi nào?

Cuộc cách mạng này tiếp nối từ Cuộc cách Mạng Công nghiệp lần thứ nhất diễn ra từ khi kết thúc Nội chiến Hoa Kỳ và bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất từ khoảng năm 1870 đến năm 1914.

Cách mạng công nghiệp lần 2 gắn liền với sự phát triển của những cường quốc hùng mạnh như nước Đức, Hoa Kỳ giúp thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp lần 2 mở rộng và đạt tới đỉnh cao.

Nội dụng cơ Bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là gì

Hoạt động trao đổi máy móc sản xuất

Đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần 2

Đặc trưng tiêu biểu của cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là việc sử dụng năng lượng điện và động cơ điện, để tạo ra những dây chuyền sản xuất có tính chuyên môn hóa cao, chuyển nền sản xuất cơ khí sang nền sản xuất điện – cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ sản xuất.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần 2 này đã tạo dựng tiền đề và cơ sở để nền công nghiệp ngày càng phát triển hơn. 

Thành tựu của cách mạng công nghiệp thứ 2

Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ 2, nhiều phát minh vĩ đại đã ra đời thúc đẩy nhiều lĩnh vực phát triển bao gồm:

Điện khí hóa

Năm 1876, Paul N. Jablochkoff, đã phát minh ra đèn hồ quang cải tiến sử dụng dòng điện xoay chiều. Năm 1878, Charles F. Brush ở Ohio đã phát minh ra bóng đèn dòng điện một chiều.

Phát minh của Faraday về thiết bị quay điện tử là nền tảng của việc sử dụng điện trong thực tế công nghệ. Nhà máy điện hiện tại đầu tiên trên thế giới được xây dựng bởi kỹ sư điện người Anh Sebastian de Ferranti. 

Điện khí hóa được gọi là “thành tựu kỹ thuật quan trọng nhất của thế kỷ 20”.

Phương tiện giao thông

Ô tô: Nhà phát minh người Đức Karl Benz đã được cấp bằng sáng chế cho chiếc ô tô đầu tiên trên thế giới vào năm 1886. Henry Ford đã chế tạo chiếc ô tô Ford Model T đầu tiên của mình vào năm 1896.

Máy bay: Năm 1903, hai anh em người Mỹ, Wilbur và Orville Wright đã biến giấc mơ của loài người thành hiện thực bằng cách chế tạo cỗ máy bay thực sự đầu tiên có tên là "máy bay".

Đường sắt: Năm 1857, Robert Forester Mushet là người đầu tiên chế tạo đường ray bền bằng thép.

Nội dụng cơ Bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là gì

Chiếc ô tô đầu tiên sản xuất vào năm 1896

Điện thoại

Năm 1876, Alexander Graham Bell, đã phát minh ra một thiết bị gọi là "điện thoại". Những thí nghiệm của ông với âm thanh, giúp cho người điếc giao tiếp, dẫn đến việc phát minh ra điện thoại.

Sắt

Kỹ thuật thổi nóng, trong đó khí thải nóng từ lò cao được sử dụng để làm nóng trước không khí cháy được thổi vào lò cao, được phát minh và cấp bằng sáng chế bởi James Beaumont Neilson vào năm 1828 tại Wilsontown Ironworks ở Scotland

Thép

Quy trình Bessemer, do Ngài Henry Bessemer phát minh, cho phép sản xuất hàng loạt thép, tăng quy mô và tốc độ sản xuất vật liệu quan trọng này, đồng thời giảm yêu cầu lao động. 

Làm giấy 

Máy làm giấy đầu tiên là máy Fourdrinier, được chế tạo bởi Sealy và Henry Fourdrinier, những người đóng quân ở London. Vào những năm 1840, Charles Fenerty ở Nova Scotia và Friedrich Gottlob Keller ở Sachsen đều đã phát minh ra một chiếc máy thành công chiết xuất sợi từ gỗ để làm giấy.

In ấn

Kỹ thuật in ấn tang quay dẫn động bằng năng lượng hơi nước, một phát minh từ nhiều thập kỷ trước. Kỹ thuật này được phát triển là kết quả của phát minh máy sản xuất giấy cuộn từ đầu của thế kỷ 19.

Ý nghĩa của cách mạng công nghiệp lần thứ 2

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là một cuộc cách mạng về khoa học và kỹ thuật với những ý nghĩa vô cùng to lớn:

  • Mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. 
  • Tốc độ đô thị hóa bắt đầu gia tăng.
  • Chất lượng cuộc sống tăng và dân số cũng tăng trưởng nhanh.
  • Cuộc cách mạng tạo ra tiền đề thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội có quy mô thế giới.

Nhưng bên cạnh đó, không ít những tác động của cách mạng công nghiệp lần 2 làm ảnh hưởng đến đời sống - xã hội:

  • Đòi hỏi lao động có trình độ ngày càng cao dẫn đến sự phân hóa xã hội ngày càng rõ nét.
  • Bóc lột, mâu thuẫn giai cấp xảy ra.
  • Tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt.
  • Tình trạng ô nhiễm do chất thải nhà máy và các tệ nạn xã hội gia tăng.
  • Các nghệ nhân và thợ thủ công bị mất kế sinh nhai. Vì vậy, không thể cạnh tranh với giá thành thấp hơn của hàng hóa sản xuất hàng loạt.

Nội dụng cơ Bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là gì

Tác động của cách mạng công nghiệp lần 2

Cuộc cách mạng công nghiệp lần 2 đem lại bước tiến mới trong sản xuất và công nghệ giúp thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. Bài viết đã cung cấp cho bạn những thông tin vô cùng hữu ích về cách mạng công nghiệp lần 2. Theo dõi các bài viết của chúng tôi để cập nhật thêm thông tin về các cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử.

Kiến thức | 06 - 09 - 2022

Cuộc cách mạng công nghiệp lần 2, còn được gọi là “Cuộc cách mạng công nghệ”, là một giai đoạn của cuộc Cách mạng công nghiệp lớn hơn tương ứng với nửa sau của thế kỷ 19 cho đến Thế chiến thứ nhất.

Tổng quan về cách mạng công nghiệp lần 2

Cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là một thời kỳ phát triển công nghiệp nhanh chóng, chủ yếu ở Vương quốc Anh, Đức và Hoa Kỳ, nhưng cũng ở Pháp, Các nước thấp, Ý và Nhật Bản. Nó tiếp nối từ cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu ở Anh vào cuối thế kỷ 18, sau đó lan rộng khắp Tây Âu.

Trong khi cuộc Cách mạng thứ nhất được thúc đẩy bởi việc sử dụng hạn chế động cơ hơi nước, các bộ phận có thể hoán đổi cho nhau và sản xuất hàng loạt, và phần lớn chạy bằng nước (đặc biệt là ở Hoa Kỳ), cuộc Cách mạng công nghiệp lần hai được đặc trưng bởi việc xây dựng các tuyến đường sắt, sắt quy mô lớn và sản xuất thép, sử dụng rộng rãi máy móc trong sản xuất, tăng cường sử dụng năng lượng hơi nước, sử dụng rộng rãi điện báo, sử dụng dầu mỏ và bắt đầu điện khí hóa. Đó cũng là thời kỳ mà các phương pháp tổ chức hiện đại để vận hành các doanh nghiệp quy mô lớn trên những khu vực rộng lớn.

Khái niệm này được đưa ra bởi Patrick Geddes, Cities in Evolution (1910), và được sử dụng bởi các nhà kinh tế học như Erich Zimmermann (1951), nhưng việc sử dụng thuật ngữ này của David Landes trong một bài luận năm 1966 và trong The Unbound Prometheus (1972) đã được tiêu chuẩn hóa Các định nghĩa mang tính học thuật về thuật ngữ này, được Alfred Chandler (1918–2007) thúc đẩy mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên, một số vẫn tiếp tục bày tỏ sự dè dặt về việc sử dụng nó.

Landes (2003) nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghệ mới, đặc biệt là động cơ đốt trong, dầu mỏ, vật liệu và chất mới, bao gồm hợp kim và hóa chất, điện và công nghệ thông tin liên lạc (như điện báo, điện thoại và radio).

Vaclav Smil gọi giai đoạn 1867–1914 là “Thời đại của sức mạnh tổng hợp”, trong đó hầu hết các phát minh vĩ đại đã được phát triển vì các phát minh và sáng tạo dựa trên kỹ thuật và khoa học.

Xem thêm: Các nước công nghiệp mới

Nội dụng cơ Bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là gì

Tổng quan về Cách mạng công nghiệp lần 2.

Thời kỳ tự động hóa nhà máy

Trong khi tự động hóa nhà máy và năng suất đã được cải thiện nhờ việc sử dụng hạn chế các phát minh của Cách mạng Công nghiệp lần 2 như động cơ hơi nước, các bộ phận có thể hoán đổi cho nhau, dây chuyền lắp ráp và sản xuất hàng loạt, hầu hết các nhà máy cuối thế kỷ 19 vẫn sử dụng năng lượng nước.

Trong thời kỳ cuối, các nguồn tài nguyên mới được phát triển như thép, dầu khí và đường sắt, cùng với nguồn năng lượng mới vượt trội của điện, đã cho phép các nhà máy tăng sản lượng đến mức chưa từng thấy. Kết hợp với những điều này, sự phát triển của máy móc được điều khiển bởi máy tính thô sơ, đã tạo ra sản xuất tự động. Vào cuối những năm 1940, nhiều nhà máy trong dây chuyền lắp ráp của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất đã nhanh chóng phát triển thành các nhà máy hoàn toàn tự động.

Thép

Được phát minh vào năm 1856 bởi Sir Henry Bessemer, quy trình Bessemer cho phép sản xuất hàng loạt thép. Sản xuất mạnh hơn và rẻ hơn, thép đã sớm thay thế sắt trong ngành xây dựng. Bằng cách tiết kiệm chi phí xây dựng các tuyến đường sắt mới, thép đã cho phép mở rộng nhanh chóng mạng lưới đường sắt của Mỹ. Nó cũng giúp nó có thể xây dựng những con tàu lớn hơn, những tòa nhà chọc trời và những cây cầu dài hơn, chắc chắn hơn.

Năm 1865, quy trình lò sưởi lộ thiên cho phép sản xuất cáp thép, thanh, tấm, bánh răng và trục dùng để chế tạo nồi hơi áp suất cao hơn cần thiết cho các động cơ nhà máy mạnh hơn. Với Chiến tranh thế giới thứ nhất sắp diễn ra vào năm 1912, thép đã giúp nó có thể chế tạo tàu chiến, xe tăng và súng lớn hơn, mạnh hơn và mạnh hơn.

Xem thêm: Cách mạng công nghiệp lần thứ ba

Điện

Năm 1879, nhà phát minh nổi tiếng người Mỹ Thomas Edison đã hoàn thiện thiết kế của mình cho một bóng đèn điện thực dụng. Vào cuối những năm 1880, những máy phát điện thương mại hiệu quả đầu tiên đã giúp việc truyền tải điện năng trên quy mô lớn đến công chúng có thể thực hiện được. Được Học viện Kỹ thuật Quốc gia gọi là “thành tựu kỹ thuật quan trọng nhất của thế kỷ 20”, hệ thống chiếu sáng điện đã cải thiện đáng kể điều kiện làm việc và năng suất trong các nhà máy.

Bằng cách thay thế các nguy cơ hỏa hoạn của đèn khí, chi phí ban đầu để chuyển đổi sang chiếu sáng bằng điện đã nhanh chóng được bù đắp bằng việc giảm phí bảo hiểm hỏa hoạn. Năm 1886, động cơ điện một chiều (dòng điện một chiều) đầu tiên được phát triển và đến năm 1920, nó cung cấp năng lượng cho đường sắt chở khách ở nhiều thành phố.

Nội dụng cơ Bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là gì

Điện.

In ấn

Phát minh quan trọng nhất trong lĩnh vực truyền thông thời kỳ đầu là công nghệ in xi lanh điều khiển bằng hơi nước. Với sự ra đời thành công của máy sản xuất giấy cuộn dựa trên công nghệ in.

Quá trình sản xuất giấy từ các nguồn hạn chế như bông và lanh đã được thay thế bằng bột gỗ. Năm 1870, với sự truyền bá kiến thức ở Anh, thuế giấy vụn đã được bãi bỏ, kích thích sự phát triển của báo và tạp chí.

Trong thời kỳ này, đã có sự gia tăng các máy công cụ có khả năng sản xuất thiết bị chính xác trên các máy khác ở Hoa Kỳ. Dây chuyền sản xuất sản phẩm tiêu dùng ra đời.

Nội dụng cơ Bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là gì

In ấn công nghiệp.

Sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần hai

Trong giai đoạn từ 1870 đến 1890, đã có sự bùng nổ về kinh tế và năng suất ở các nước công nghiệp. Kết quả là, điều kiện sống được cải thiện đáng kể và giá cả hàng hóa giảm mạnh.

Hơn nữa, mất mùa trên đồng ruộng không còn có nghĩa là đói kém và suy dinh dưỡng vì các vùng nông thôn được kết nối với các thị trường lớn thông qua cơ sở hạ tầng giao thông. Cũng có ít người hơn trong các lĩnh vực. Với quá trình công nghiệp hóa, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp giảm mạnh.

Nhưng không phải mọi thứ đều ổn và đẹp đẽ. Điện kéo theo cơ giới hóa. Như chúng ta đã đề cập trước đây, Cách mạng Công nghiệp lần 2 là một thời kỳ tiến triển nhanh chóng và liên tục. Vì vậy, tàu và các tài sản khác trở nên lỗi thời trong một khoảng thời gian ngắn. Người dân mất tiền và tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt.

Nội dụng cơ Bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là gì

Sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần hai.

Ảnh hưởng xã hội từ cách mạng công nghiệp lần 2

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần 2 đã biến đổi xã hội theo những cách đáng kể. Trong số những tác động xã hội gây ra cuộc cách mạng này có thể kể đến:

  1. Đô thị hóa tăng nhanh. Dân số chuyển đến những ngôi nhà được xây dựng vội vã ở các thành phố để gần các nhà máy hơn.
  2. Các gia đình tách biệt khi nơi làm việc chuyển từ nhà đến các nhà máy.
  3. Công việc mất chất lượng theo thời vụ, vì công nhân được yêu cầu tuân theo một lịch trình hàng ngày.
  4. Tốc độ làm việc do máy móc điều khiển, tăng lên đáng kể.
  5. Sức khỏe tổng thể của lực lượng lao động giảm sút do điều kiện khắc nghiệt và không lành mạnh của các nhà máy.
  6. Mức độ sẵn có của công việc trở nên không thể đoán trước khi nó tăng lên và giảm xuống theo nhu cầu hàng hóa.
  7. Dần dần, những phụ nữ lần đầu tiên bị thu hút đến các thành phố để làm việc trong các nhà máy đã mất việc làm trong lĩnh vực sản xuất do máy móc làm giảm nhu cầu lao động. Vì vậy, bị cắt đứt khỏi gia đình, nhiều người không có lựa chọn nào khác ngoài mại dâm.
  8. Các nghệ nhân và thợ thủ công bị mất kế sinh nhai. Vì vậy, không thể cạnh tranh với giá thành thấp hơn của hàng hóa sản xuất hàng loạt.
  9. Trở ngại truyền thống đối với hôn nhân, đó là nhu cầu về đất đai, đã biến mất và mọi người bắt đầu kết hôn trẻ hơn.
  10. Phần lớn dân số có thể mua được hàng hóa do nhà máy sản xuất.
  11. Điều kiện sống và làm việc gần gũi đã sản sinh ra ý thức giai cấp của giai cấp công nhân.
Xem thêm: Chỉ số sản xuất công nghiệp là gì?

HALANA Nền tảng thương mại điện tử dành cho công nghiệp mang đến giải pháp mua hàng toàn diện, quản lý mua hàng cho danh nghiệp cùng nhiều công nghệ mới giúp việc mua hàng cho doanh nghiệp dễ dàng hơn tiết kiệm chi phí và Tối ưu quá trình mua hàng