Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 rèn kĩ năng sống

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMMỘT VÀI BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG SỐNGCHO HỌC SINH LỚP 1 QUA CÁC MÔN HỌC

2. Đặt vấn đề:

Kĩ năng sống là một trong những khái niệm được nhắc đến nhiều trong thời đại ngày nay. Có nhiều quan niệm về kĩ năng sống. Theo tôi, kĩ năng sống đơn giản là tất cả những điều cần thiết chúng ta phải biết để có thể thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Kĩ năng sống được hình thành theo một quá trình, hình thành một cách tự nhiên qua những va chạm, những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Có nhiều nhóm kĩ năng sống như: nhóm kĩ năng nhận thức, nhóm kĩ năng xã hội và nhóm kĩ năng quản lí bản thân...Dù là kĩ năng nào cũng đều rất quan trọng và cần thiết với mỗi con người. Cho nên, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có một tầm rất quan trọng.

Từ nhiều năm nay Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trương dạy kĩ năng sống là một trong những tiêu chí đánh giá "Trường học thân thiện - học sinh tích cực". Trên tinh thần đó tôi nhận thấy rằng chính ở dưới mái trường các em học được nhiều điều hay, lẽ phải. Và nhà trường trở nên là ngôi nhà thân thiện, học sinh tích cực học tập để thành người tài xây dựng đất nước, có khả năng hội nhập cao, từng bước trở thành công dân toàn cầu. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy cô giáo. Với học sinh lớp một, đây là giai đoạn đầu tiên hình thành nhân cách cho các em, giúp các em có một kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này và đây cũng là một vấn đề mà xã hội và phụ huynh hết sức quan tâm. Xác định tầm quan trọng đó tôi đã cố gắng nghiên cứu thực hiện đề tài này. Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 1/3 tôi đang phụ trách, nhằm mong muốn đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.

3-Cơ sở lí luận:

Thực hiện Nghị quyết 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 của Bộ giáo dục và đào tạo Về việc phát động phong trào thi đua: "Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực" trong các trường phổ thông, trong đó nội dung: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh phù hợp với lứa tuổi của học sinh.

Căn cứ nhiệm vụ năm học 20…-20… của ngành, của trường về việc chú trọng: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.

Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để bước vào đời tự tin hơn.

4-Cơ sở thực tiễn:

Ngày nay học sinh rất ít có hoài bão, ước mơ. Phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết, làm cho các em rất rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên hệ thống Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh tiểu học là ngoài những kiến thức phổ thông về toán, khoa học và nhân văn, học sinh cần học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên lớp một những suy nghĩ, trăn trở.

Khi bắt đầu tìm hiểu về rèn luyện kĩ năng sống hiệu quả cho học sinh trong lớp tôi gặp phải một số thách thức sau:

Đó là học sinh vừa rời trường mẫu giáo làm quen với môi trường tiểu học, mọi sinh hoạt nề nếp đều xa lạ chưa vào một kỉ luật nhất định, các em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và không nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, ban bè. Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có một số bố mẹ thì quá nuông chiều, ngược lại một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ ...

Bên cạnh những khó khăn trên cũng có thuận lợi nhất định đó là: tôi nhận được một tập thể học sinh khá ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi với cô giáo. Bên cạnh đó tôi có được sự ủng hộ của phụ huynh trong việc cùng nhà trường giáo dục các em. Ngoài ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục. Chính vì thế tôi luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.

5-Nội dung nghiên cứu:

Từ tình hình thực tiễn trên, tôi đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua các tiết dạy của các môn học, những giờ sinh hoạt nhằm đem lại hiệu quả cao. Để thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng sống, đem lại kết quả cao tôi nhận thấy cần phải áp dụng một số biện pháp sau:

Biện pháp 1: Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh

Đầu tiên, sau khi tôi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của tôi với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò chúng tôi hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo một môi trường học tập thân thiện - Nơi "Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện theo tôi là rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt.

Tiếp theo trong tuần đầu tôi cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động, thích thể hiện hay lãng mạn...Và tiếp tục qua những tuần học sau, tôi chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.

Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả cao tôi tiếp tục:

Biện pháp 2: Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học

Trên đây là những bước chuẩn bị đầu tiên của tôi. Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả tôi vận dụng vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt, Đạo đức; Tự nhiên và xã hội; An toàn giao thông ....

Trong chương trình lớp một, ở môn Tiếng Việt, tất cả các bài đều có phần luyện nói theo chủ đề như là: Tự giới thiệu; Bé và bạn bè; Mai sau khôn lớn; Vâng lời cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Nghề nghiệp của cha mẹ; Những người bạn tốt; Sức khỏe là vốn quý nhất hay trong các bài tập đọc ... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Tôi chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt.

Như khi dạy Tiếng Việt chủ đề nói: "Bé Tự giới thiệu", hay môn Đạo đức bài: “Em là học sinh lớp một” tôi đưa ra nội dung: “Em hãy nói về bản thân em và làm quen với mọi người”. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, tôi tổ chức cho các em đứng thành vòng tròn tự giới thiệu về tên và sở thích của từng em và làm quen với các bạn xung quanh. Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin khi nói về mình nhưng tôi nhắc nhở những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi trường hoà đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng câu nói chắc gọn: “Mình tên là gì, mình học ở đâu, mình thích và không thích điều gì....”

Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu bản thân là những bài học như khám phá bản thân, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Tôi luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học nhóm.

Hay khi dạy bài: "Cảm ơn, xin lỗi " môn Đạo đức: tôi cho học sinh chuẩn bị những hộp thư: Cảm ơn, xin lỗi và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nhận được nhiều lời cảm ơn nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy tôi tổ chức cho các em trao đổi:

- Em nói lời cảm ơn, xin lỗi khi nào?

- Bạn đã cảm ơn em về điều gì? Em cảm thấy như thế nào khi được bạn cảm ơn, xin lỗi?... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.

Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá nhiều trong trong các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em.

Như trong môn Tự nhiên và xã hội:

Ở bài: "Ăn uống hằng ngày" tôi cho học sinh thảo luận nhóm và lên thực đơn cho các bữa ăn trong một ngày: Sáng, trưa, tối dưới sự trợ giúp của giáo viên. Sau khi học sinh nhận xét thực đơn của nhau, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức về một bữa ăn đầy đủ cần đảm bảo các chất ...

Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.

Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói năng ... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm, tôi luôn đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa các em với nhau.

Ngoài ra tôi chú ý Rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học: Ai cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập tốt, đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức khỏe tốt và bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị. Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học. Tôi rèn luyện sức khoẻ cho các em qua các tiết:

Ở môn Tự nhiên và xã hội: Các bài: “Vệ sinh thân thể; Hoạt động và nghỉ ngơi; Ôn tập con người và sức khoẻ; Trời nắng, trời mưa...” giáo dục các em hiểu rằng thân thể sạch sẽ giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết những việc nên làm và không nên làm để cơ thể luôn sạch sẽ, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. Có ý thức bảo vệ sức khoẻ khi đi dưới trời nắng, trời mưa.

Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và các thương tích khác tôi đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn giao thông, Tự nhiên và xã hội, hướng dẫn các em phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình huống cho các em xử lí.

Chẳng hạn:

- Khi đi qua ngã tư có đèn tín hiệu gặp đèn đỏ người và xe phải như thế nào?

- Khi nào thì người và xe mới được phép đi?

- Trẻ em dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường phố và khi qua đường? Đi bộ qua đường em phải đi ở đâu?

- Khi đi bộ em đi ở đâu? Nếu đường không có vỉa hè thì thế nào?

- Em có nên chơi đùa trên đưòng phố không? Có leo trèo qua dãi phân cách và chơi gần dãi phân cách không? Vì sao?

- Việc chơi gần đường ray xe lửa có nguy hiểm không? Nguy hiểm như thế nào?

- Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?

- Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn xảy ra?

- Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao ra đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra ngoài khi đi trên tàu, xe, ghe, đò ...

Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn đề đơn giản khi gặp phải.

Ở bài: "An tòan khi ở nhà " môn Tự nhiên và xã hội: các em được đóng vai xử lí tình huống khi có tai nạn khi ở nhà như: Cầm dao nhọn cắt quả bị chảy máu, hay trông em giúp mẹ nhưng em đến gần bếp lửa... Các nhóm sẽ thảo luận nhóm sau đó lên thể hiện ,những em còn lại quan sát và có nhận xét đối với những tình huống mà các bạn mình vừa xử lí để rút ra kĩ năng cấp cứu khi có những trường hợp xấu xảy ra.

Một điều nữa theo tôi cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn hoá cũng là lối sống lành mạnh mà các em cần phải được đào tạo,vì thế tôi tiếp tục:

Biện pháp 3: Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi:

Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, tôi đã phát động các phong trào: "Nói lời hay làm việc tốt" qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cám ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè ... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Tôi học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh. Tránh hành hung, nói nặng lời để các em bớt đi tính hung hăng đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi.

Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả tôi còn vận dụng thông qua các hoạt động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp: Nhà trường tổ chức tuyên truyền, vận động tham gia qua các mô hình: diễn tiểu phẩm trong đêm văn nghệ cho học sinh tham gia; tuyên truyền bằng hình thức trực quan sinh động qua tranh ảnh, sách báo và tổ chức triển lãm ngay tại phòng truyền thống trường. Xây dựng nhiều mô hình thiết thực và hữu ích như mô hình câu lạc bộ: Vì bạn bè quanh ta, mô hình phòng chống tệ nạn xã hội, bạn giúp bạn, ... Tất cả đều gắn với nội dung phòng chống tệ nạn xã hội trong học sinh. Các mô hình này được tuyên truyền đến từng học sinh giúp các em hiểu rõ về những tác hại và cách phòng chống. Phải phòng ngừa, ngăn chặn những tệ nạn xã hội trong học sinh là điều ai cũng nhận thấy được, nhưng vấn đề là ở sự quyết tâm cao, là các biện pháp thiết thực, cụ thể và hiệu quả từ trong mỗi gia đình, mỗi nhà trường và rộng ra hơn nữa là ý thức trách nhiệm của toàn xã hội. Gia đình, nhà trường, xã hội hãy cùng nhau góp sức để các em vững tin hơn trong cuộc sống.

Ngoài ra những buổi chào cờ, tôi khuyến khích các em xung phong trả lời những câu hỏi mà cô Tổng phụ trách hay hỏi ...

Không những thế , tôi còn khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận, những suy nghĩ, những quan sát của mình với cô với bạn một cách thoải mái, tự nhiên không gò bó, áp đặt. Hoặc ở những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi tôi cùng các em tham gia những trò chơi dân gian hay cùng chia sẻ với nhau những cuốn sách hay.

Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, tôi luôn cố gắng rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp.

Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi , giúp các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng tôi luôn chú ý:

Biện pháp 4: Động viên khen thưởng

Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp tôi phụ trách. Trao đổi với Ban phân hội phụ huynh cùng phối hợp và dành một khoảng riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để tạo cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Tôi theo dõi hằng ngày các em có biểu hiện tốt tôi ghi vào sổ, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một bông hoa điểm mười.

Mỗi học kỳ tôi tổng kết 1 lần (năm 4 kì) để khen thưởng những em đã đạt nhiều hoa điểm mười bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông mà cô giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.

6-Kết quả thực hiện

Qua việc thực hiện các biện pháp trên, đến giữa học kì II, tôi thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng, được thể hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi... đã trở thành thói quen, được các em vận dụng hằng ngày; Của phụ huynh học sinh thể hiện qua phiếu thăm dò (phần phụ lục), việc đánh giá của các giáo viên bộ môn, của cô giáo tổng phụ trách khi nhận xét về các em học sinh lớp 1/3. Cuối học kì I lớp tôi được xếp vị thứ nhất dẫn đầu khối Một, phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi với kết quả này của lớp.

7-Kết luận:

Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ .Việc giáo dục kĩ năng sống ngay từ lớp nhỏ sẽ rút ngắn thời gian để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào đời. Chính vì vậy, các thầy cô giáo tiểu học luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Vì thế theo tôi để làm tốt việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, mỗi thầy cô giáo cần phải: - Xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.

- Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và hình thức tổ chức dạy các kĩ năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các hoạt động khác.

- Tập trung vào việc đầu tư sọan giảng, lồng ghép kĩ năng sống vào các môn học.

- Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia tốt các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.

- Điều quan trọng là mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh hoạt chuẩn mực, phải hết lòng thương yêu, gần gũi với học sinh.

Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà tôi luôn cố gắng để ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em trở thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà mỗi giáo viên chúng tôi phải cùng có trách nhiệm.

8-Đề nghị:

Là giáo viên, tôi hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì thế, bản thân tôi luôn cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn. Tôi đã luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển một cách toàn diện.

Về phía nhà trường: Theo phương châm giáo dục hiện nay là: "Học để biết, học để chung sống, học để tự khẳng định mình" nên: Nhà trường luôn phát động phong trào này hơn nữa dưới nhiều hình thức.

Về phía phụ huynh:

Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ, luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo dõi mọi biểu hiện của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp.

Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh luôn được xem là chức năng, nhiệm vụ thường xuyên của đội ngũ giáo viên từ nhiều năm nay. Tuy nhiên việc rèn luyện cho các em học sinh vẫn còn thiếu những biện pháp cụ thể. Hưởng ứng cuộc vận động về chủ đề năm học, qua các buổi tập huấn về việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh của phòng giáo dục ,của trường bản thân tôi đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những phương pháp mới nhằm nâng cao nhiều kĩ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội.

Người viết

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Rèn Kĩ Năng Sống Cho Học Sinh Lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.79 KB, 20 trang )

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đang sống trong thế kỉ XXI, thế kỉ của sự phát triển khoa học
-kĩ thuật và công nghệ thông tin, của nền văn minh tri thức. Trước tình hình hội
nhập quốc tế, đòi hỏi nền Giáo dục và đào tạo phải đào tạo ra những con người
phát triển toàn diện về mọi mặt, đáp ứng được nhu cầu xã hội đặt ra.
Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
đã khẳng định: “Mục tiêu là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo
dục SGK phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ
trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
phù hợp với thực tiễn và truyền thống Vệt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ
thông ở các nước phát triển trong khu vực và thế giới”.
Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4/2001) đã đề ra
nhiệm vụ: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học”.
Luật Giáo dục cũng ghi rõ: “Mục tiêu Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức và trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục
học Trung học cơ sở”.
(Điều 23 - Luật Giáo dục 2005)
Như vậy chúng ta thấy rằng mục tiêu giáo dục tiểu học chỉ có thể đạt được
khi mỗi nhà trường thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới nội
dung, phương pháp dạy học ở tất cả các môn học. Việc lồng ghép tích hợp giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ
lên lớp là một trong những nội dung trong đổi mới phương pháp dạy học. Ở
trường tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh thông qua các môn học và các hoạt động ngoài giờ lên lớp là việc làm đang
được chú trọng. Việc dạy học theo hướng tích hợp giáo dục kĩ năng sống qua
các môn học giúp các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, xây dựng
hoặc thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu
phát triển toàn diện nhân cách người học, giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái


độ và kĩ năng phù hợp. Do vậy việc dạy học theo hướng tích hợp giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh được lồng ghép trong các môn học và hoạt động ngoài
giờ lên lớp là rất cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt để đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục phổ thông hiện nay. Trước tình hình đó việc rèn kĩ năng sống cho
2


học sinh trong nhà trường nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng hết sức quan
trọng là bước đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Với ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nên tôi
chọn đề tài: “Rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 1”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu những vấn đề chung về nội dung phương pháp giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh tiểu học.
- Tìm hiểu thực trạng việc tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp
1 của nhà trường.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh khối lớp 1 của trường.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra, nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp giảng giải.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp tổng hợp.
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Trong năm học 2015 - 2016.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận

Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống
tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các em các hành vi
theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người
học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp.
Vậy kĩ năng sống là gì?
- Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kĩ năng sống. Mỗi định
nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau. Thông thường, kĩ
năng sống được hiểu là những kĩ năng thực hành mà con người cần để có được
sự an toàn, cuộc sống khoẻ mạnh với chất lượng cao.
- Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO):
Kĩ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia
vào cuộc sống hàng ngày, những kĩ năng đó gắn với 4 trụ cột của giáo dục:
+ Học để biết: gồm các kĩ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết
3


định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm …
+ Học để làm việc: gồm kĩ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kĩ
năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm...
+ Học để làm người: gồm các kĩ năng cá nhân như ứng phó với căng
thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin …
+ Học để chung sống: gồm các kĩ năng như giao tiếp, thương lượng,
khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông …
- Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Kĩ năng sống là kĩ năng thiết thực
mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh, đó là những kĩ năng
tâm lí xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những
người khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay thách thức
của cuộc sống hằng ngày.
- Tương đồng với quan niệm của WHO, còn có quan niệm kĩ năng sống là
những kĩ năng tâm lí xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và những

thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có
thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
- Theo UNICEF, kĩ năng sống là tập hợp rất nhiều kĩ năng tâm lí xã hội và
giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao
tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kĩ năng tự xử lí và quản lí bản thân
nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả.
Các khái niệm đều thống nhất: kĩ năng sống thuộc về phạm trù năng lực
tức là bao hàm cả tri thức, thái độ và hành vi mà không phải là phạm trù kĩ thuật
của hành động, hành vi.
Tóm lại: Kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả
năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó
tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Có thể nói kĩ năng sống chính là
nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích
cực, lành mạnh. Người có kĩ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những
khó khăn, thử thách; biết ứng ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và
phù hợp, sống lành mạnh, hài hòa; họ thường thành công hơn trong cuộc sống,
luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính mình. Ngược lại người thiếu kĩ
năng sống thường bị vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc sống.
Kĩ năng sống không những thúc đẩy sự phát triển cá nhân mà còn góp
phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giúp ngăn ngừa các vấn đề xã hội, nâng
cao chất lượng cuộc sống xã hội.
Trẻ em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước. Nếu không có kĩ
năng sống, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình, cộng đồng và đấtt nước.
4


Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách,
giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu
sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc

tế và cơ chế thị trường hiện nay nếu thiếu kĩ năng sống các em dễ bị lôi kéo,
kích động...
Dạy kĩ năng sống cho học sinh tiểu học là trang bị cho các em những năng
lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn để
các em có những hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội với
quyền và bổn phận trẻ em.
Vì vậy có thể nói, kĩ năng sống của học sinh chỉ có thể được hình thành
thông qua hoạt động học tập và giảng dạy cũng như các hoạt động giáo dục khác
trong nhà trường. Trong đó hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một trong
những hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh.
Trong những năm gần đây Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát
triển giáo dục. Giáo dục được xác định là “quốc sách hàng đầu” là một trong
những chiến lược quan trọng xây dựng và phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Bậc tiểu học là bậc học “nền móng” thì nhiệm vụ của người giáo viên
phải “xây” làm sao cho cái móng thật chắc, đó là xây dựng một thế hệ con người
mới đủ đức, đủ tài, tự tin, dám nghĩ, dám làm.
Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các
em rèn luyện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ
quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực với tình huống của cuộc sống,
xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực,
chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh.
2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn dạy học ở trường tiểu học hiện nay cho thấy việc giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh còn hạn chế. Một bộ phận học sinh học tập thụ động,
nhút nhát, thiếu tự tin và cũng không ít học sinh lười lao động, sống ích kỉ, thậm
chí có hành vi vi phạm pháp luật.
Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức.
Một số giáo viên khác chưa tích cực tìm tòi các hình thức và phương pháp

tổ chức cho các hoạt động kĩ năng sống cho học sinh dẫn đến hiệu quả còn hạn chế.
Đặc biệt đối với học sinh bậc Tiểu học là bậc tạo nền tảng cho học sinh
phát triển toàn diện, vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ
bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kĩ năng sống, kĩ năng
5


làm người để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội
mới.
Trong quá trình giảng dạy, việc lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh qua các tiết dạy ở môn Tiếng Việt, môn Đạo Đức; môn TNXH và các hoạt
động ngoài giờ lên lớp trong nhiều năm qua bản thân tôi đã gặp những thuận lợi
và khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học
thân thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến
địa phương, Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với
những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh một cách chung nhất
cho các bậc học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên GD KNS cho
các em như: rèn luyện kĩ năng ứng xử hợp lí với các tình huống trong cuộc sống,
thói quen và kĩ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khoẻ và ý
thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và
các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa
bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Trường học nơi bản thân tôi công tác là ngôi trường được xây mới, đã đạt
chuẩn quốc gia mức độ 1 sau 5 năm nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung
xây dựng và bảo vệ môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn cho các em. Bên cạnh
đó, bản thân tôi được chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy lớp 1E với đối tượng học
sinh khá ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi với cô giáo. Ngoài ra Ban giám
hiệu nhà trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác

giảng dạy cũng như giáo dục. Chính vì thế bản thân tôi luôn có ý thức rèn kĩ
năng sống cho các em, giúp các em có một niềm tin, phát triển nhân cách một
cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với xã hội
hiện đại ngày nay.
b. Khó khăn:
*Đối với giáo viên:
Qua việc dùng phiếu thăm dò, khảo sát thực tế ở trường cho thấy một số
giáo viên khi dạy tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các
môn học và các hoạt động giáo dục còn lúng túng cả về nội dung và biện pháp
dạy học. Nhận thức của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ rèn kĩ
năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì; vì nhận thức chưa đủ, chưa rõ
nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để rèn kĩ năng
6


sống cho học sinh.
Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung
nhiều nội dung chung cho các bậc học, song giáo viên chưa hiểu nhiều về nội
dung phải dạy trẻ theo từng khối lớp những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết
vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh để đáp ứng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Giáo viên
thường chỉ quan tâm tới việc dạy chữ và rèn kĩ năng làm bài, các kĩ năng đặc
trưng của môn học chứ ít chú ý tới rèn kĩ năng sống trong tất cả các lĩnh vực
cuộc sống hàng ngày.
*Đối với học sinh:
Trong nhà trường ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh chưa lễ phép,
gây mất đoàn kết trong tập thể lớp, trốn học đi chơi,...Các em học sinh vừa vào
lớp một nên làm quen với môi trường mới các em khá rụt rè chưa quen với cách
học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói không rõ ràng,
trả lời trống không, xưng hô với bạn, với cô giáo và người lớn chưa thể hiện có

văn hóa, có giáo dục và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, bạn bè. Đặc biệt còn
xảy ra những tình trạng học sinh lớn dọa, đánh học sinh bé. Các em còn chơi
đùa những trò chơi không an toàn…
Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng
sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức
truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép
còn chưa cao.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 1E trường tôi, bản thân thấy kĩ năng sống của
học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn
phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách
ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa
mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân. Các em còn ngại nói, ngại viết, khả
năng tự học, tự tìm tòi còn hạn chế.
Qua tiến hành khảo sát (lần 1) ở lớp 1E đầu năm học với chủ đề “Kĩ năng
tự phục vụ”; kết quả như sau:
Tổng số
Kĩ năng tốt
Có hình thành kĩ năng
Kĩ năng chưa tốt
học sinh
SL
%
SL
%
SL
%
34

6


17,6

11

32,4

17

50

Thực hành thảo luận nhóm
Tổng số
7


Biết cách lắng nghe, hợp tác

34

Tổng số
học sinh

34

SL

%

13


38,2

Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra
khỏi nhóm
SL
%
21

61,8

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hòa, khá
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi.
phù hợp.
SL
%
SL
%
16

47,1

18

52,9

Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có
kĩ năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh
là vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì?
Nhất là những người làm công tác giáo dục vì nhà trường là nơi tốt nhất để hình

thành nhân cách cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải
tìm tòi nghiên cứu. Từ những thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên
nhân dẫn đến tình trạng “Học sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để từ đó tìm
ra biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả.
*Đối với phụ huynh học sinh:
Về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ
chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm
toán thì lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong
lớp có một số bố mẹ thì quá nuông chiều, đồng thời lại cưng chiều con cái khiến
trẻ không có kĩ năng tự phục vụ bản thân. Ngược lại, một số phụ huynh vì bận
nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết.
Nếu con em họ chẳng may bị xảy ra điều gì đó như xô xát với bạn bè họ thường
đổ lỗi cho giáo viên và bạn của con mình.
Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó
khăn nêu trên, bản thân đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn kĩ năng sống cho
học sinh thông qua các tiết dạy của một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên
lớp nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục.
3. Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1:

8


Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 được tích hợp trong tất
cả các môn học song chủ yếu tập trung nhiều nhất trong môn TNXH; môn Đạo
Đức; môn Tiếng Việt ở lớp 1 gồm các kĩ năng như:
- Kĩ năng tự nhận thức.
- Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.
- Kĩ năng xác định giá trị.
- Kĩ năng hợp tác.
- Kĩ năng kiểm soát cảm xúc

- Kĩ năng tư duy phê phán
- Kĩ năng ứng phó với căng thẳng.
- Kĩ năng tư duy sáng tạo.
- Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ
- Kĩ năng ra quyết định
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin
- Kĩ năng giải quyết vấn đề.
- Kĩ năng giao tiếp
- Kĩ năng kiên định
- Kĩ năng lắng nghe tích cực
- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
- Kĩ năng đạt mục tiêu.
- Kĩ năng thương lượng.
- Kĩ năng quản lý thời gian
- Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin.
Nội dung bài và địa chỉ giáo dục kĩ năng sống trong môn TNXH; môn
Đạo Đức; môn Tiếng Việt lớp 1 đã có toàn bộ trong sách Giáo dục kĩ năng sống
- tài liệu sách cho giáo viên lớp 1 của Bộ Giáo dục ban hành.
4. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
a. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua các môn học:
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 thông qua các môn học là một
nội dung thiết yếu mà bất cứ nhà trường nào cũng phải quan tâm đến. Thông qua
nội dung bài học, cách tổ chức các hoạt động dạy học giáo viên hình thành và
xây dựng cho các em các kĩ năng sống như: quan sát, nhận xét, giao tiếp, phân
tích, ....Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 được thực hiện thông qua
dạy học các môn học và tổ chức các hoạt động giáo dục là để tạo điều kiện, cơ
hội cho học sinh thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình học tập. Từ
đó lồng ghép một cách nhẹ nhàng những kinh nghiệm sống vào bài học đến từng
đối tượng học sinh. Trong quá trình dạy lồng ghép kĩ năng sống cho học sinh

thông qua các môn học cần phải khơi gợi và phát huy sự tham gia của các em
bên cạnh sự hướng dẫn của giáo viên. Tuyệt đối không được phê bình hay đánh
giá khi các em làm gì đó chưa tốt. Bởi nếu vậy sẽ làm mất sự chủ động, tự tin và
hoà nhập cùng bạn bè vì ở lứa tuổi này các em rất muốn được khen. Nội dung
chương trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 được thể hiện rõ nhất
trong một số phân môn như: Tiếng Việt, Đạo Đức, Tự nhiên và xã hội.
Trong quá trình giảng dạy trên lớp, trong từng bài học tôi luôn cho các em
phát huy tối đa khả năng giao tiếp, khả năng điều khiển của nhóm học sinh bằng
cách thường xuyên cho các em học theo (nhóm 2, nhóm 4...) trong nhóm các em
luân phiên nhau điều khiển nội dung học cho các bạn trong nhóm thực hiện, từ
9


đó giúp các em mạnh dạn tự tin, tự khẳng định và phát huy mình hơn trong quá
trình giao tiếp cũng như học tập của bản thân. Ngoài ra trong tiết học tôi luôn
tạo không khí thân thiện, thoải mái cho các em. Tôi luôn yêu cầu học sinh học
đúng giờ, giờ nào việc ấy, rèn kĩ năng khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu.
b. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học qua môn Tiếng Việt:
Môn Tiếng Việt lớp 1 nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ
năng: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động
của lứa tuổi. Thông qua hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt lớp 1 góp phần
rèn luyện thao tác tư duy, góp phần mở rộng hiểu biết về tự nhiên, xã hội và
con người. Thể hiện ưu thế của môn Tiếng Việt là kĩ năng giao tiếp, sau đó là
kĩ năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra
quyết định...
Khả năng Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của môn Tiếng Việt lớp 1
không chỉ thể hiện ở nội dung môn học mà còn được thể hiện qua phương pháp
của giáo viên. Để hình thành các kiến thức và kĩ năng mà chương trình môn
Tiếng Việt 1 đặt ra với học sinh, người giáo viên phải vận dụng nhiều phương
pháp dạy phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh như: thực hành

giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp
tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi - đáp...Thông qua các hoạt động học
tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng
vai... HS có cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kinh nghiệm sống cần thiết.
c. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học qua môn Đạo Đức:
Nội dung môn Đạo Đức lớp1 chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kĩ
năng sống như: kĩ năng giao tiếp, ứng xử (với ông, bà, cha, mẹ, anh chị em, bạn
bè, thầy cô giáo và mọi người xung quanh), kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân,
kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp với lứa tuổi, kĩ năng giữ gìn
vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự phục vụ và tự quản lý thời gian, kĩ năng thu thập và
xử lý thông tin về các vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, ở cộng đồng
có liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức. Việc Giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh lớp 1 trong môn Đạo Đức nhằm bước đầu trang bị cho học sinh các kĩ
năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi , giúp các em biết sống và ứng xử phù
hợp trong các mối quan hệ với những người thân trong gia đình, với thầy cô
giáo, bạn bè và những người xung quanh; với cộng đồng,.... với môi trường tự
nhiên; giúp các em bước đầu biết sống tích cực, chủ động, có mục đích, có kế
hoạch, tự trọng, tự tin, có kỉ luật, biết hợp tác, tiết kiệm, gọn gàng, ngăn nắp, vệ
10


sinh,...để trở thành người con ngoan trong gia đình, học sinh tích cực của nhà
trường và công dân tốt của xã hội.
Khả năng hình thành và giáo dục các kĩ năng sống cho HS của môn Đạo
Đức lớp 1 không những thể hiện ở nội dung môn học mà còn thể hiện ở phương
pháp dạy học đặc trưng của môn học. Để các chuẩn mực đạo đức trở thành tình
cảm, hành vi và thói quen của HS, phương pháp dạy học môn Đạo đức đã được
đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Quá trình
dạy học tiết Đạo đức là quá trình tổ chức cho HS thực hiện các hoạt động học
tập phong phú đa dạng như: kể chuyện theo tranh, quan sát tranh ảnh, phân tích,

xử lý tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa, hát, đọc thơ, vẽ tranh....
Thông qua các hoạt động đó sự tương tác giữa GV - HS, HS - HS được tăng
cường và HS có thể tự phát hiện và chiếm lĩnh tri thức mới. Các phương pháp và
kĩ thuật dạy học môn Đạo đức rất đa dạng như: học theo nhóm; giải quyết vấn
đề, đóng vai, trò chơi, động não, ....Và chính thông qua việc sử dụng các phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, HS đã được tạo cơ hội để thực hành, trải
nghiệm, nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Tuỳ từng bài học,
chúng ta nên giáo dục kĩ năng phù hợp cho các em. Vì vậy ta nhận thấy môn
Đạo đức có vai trò to lớn trong việc giáo dục kĩ năng sống cho HS Tiểu học.
VD1: Khi dạy bài “Em là học sinh lớp Một”: để giáo dục kĩ năng tự giới
thiệu về bản thân, kĩ năng thể hiện sự tự tin trước đông người, kĩ năng lắng nghe
tích cực, kĩ năng trình bày suy nghĩ về ngày đầu tiên đi học, về trường lớp về
bạn bè...Tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Vòng tròn chào hỏi”. Từng
nhóm 5 em đứng trước nắm tay nhau thành vòng tròn. Lần lượt từng em giới
thiệu tên của mình với các bạn. Qua trò chơi đó các em biết trẻ em có quyền có
họ tên, tự hào khi giới thiệu tên mình với các bạn. Thông qua trò chơi xây dựng
một hành vi đạo đức cho các em, hình thành kỹ năng tự giới thiệu, kĩ năng lắng
và thể hiện sự tự tin trước đông người... Kĩ năng này giúp các em mạnh dạn, tự
tự tin hơn trong trong giao tiếp và là cơ sở để học những bài học sau.
VD2: Khi dạy bài “Cảm ơn và xin lỗi”: để giáo dục cho học sinh kĩ năng
giao tiếp biết cảm ơn và xin lỗi phù hợp trong từng tình huống cụ thể, tôi tổ chức
cho học sinh chơi trò chơi như: Giáo viên đưa ra nhiều tình huống: “Bạn cho
em mượn đồ dùng học tập”; “Bạn tặng quà cho em nhân sinh nhật; Em làm hỏng
đồ chơi của bạn”; “Em làm hỏng đồ chơi cửa bạn”; “Em bị vấp ngã bạn đỡ em
dậy...”. Qua các tình huống học sinh sẽ lựa chọn để sử dụng từ “cảm ơn”, “xin
lỗi” phù hợp với tình huống. Ngoài ra tôi có thể cho học sinh trao đổi thảo luận
nhóm, đóng vai, xử lý tình huống.. Qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của
11



mình, các em biết khi nào cần nói cảm ơn, khi nào cần nói xin lỗi, biết cảm ơn
xin lỗi phù hợp trong từng tình huống cụ thể .
d. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học qua môn Tự nhiên và
xã hội:
Môn Tự nhiên và xã hội lớp 1 là một môn học giúp học sinh có một số
kiến thức cơ bản ban đầu về con người và sức khoẻ, về một số sự vật, hiện
tượng đơn giản trong tự nhiên - xã hội. Chú trọng đến việc hình thành và phát
triển các kĩ năng trong học tập như: quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc, đặt câu hỏi
và diễn đạt hiểu biết của bản thân về các sự vật, hiện tương đơn giản trong tự
nhiên và trong xã hội. Đặc biệt môn học giúp học sinh xây dựng các quy tắc giữ
vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng; yêu gia đình, quê hương,
trường học và có thái độ thân thiện với thiên nhiên.
Cùng với kiến thức cơ bản về con người, về Tự nhiên - xã hội, việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh sẽ góp phần không chỉ khắc sâu thêm các kiến
thức của môn học mà còn hình thành thái độ và hành vi tích cực, phù hợp,
cần thiết giúp học sinh có thể ứng xử có hiệu quả các tình huống thực tế trong
cuộc sống.
VD1: Khi dạy bài “An toàn khi ở nhà” học sinh cần có kĩ năng ra quyết
định nên hay không nên làm gì để phòng tránh đứt tay chân, điện giật, bỏng. Kĩ
năng tự bảo vệ: ứng phó với các tình huống khi ở nhà… Tôi sử dụng các phương
pháp thảo luận nhóm đóng vai, xử lí tình huống. Tôi đưa ra các tình huống “Nếu
không may bị đứt tay bạn sẽ làm gì?”; “Bạn đi học về nhìn thấy em của mình
đang chơi diêm, bạn sẽ làm gì ?”; “Tình cờ nhìn thấy dây điện bị hỏng, bạn sẽ
làm gì?”...tôi cho học sinh trao đổi thảo luận để nêu ra những cách xử lí (phản
ứng) khác nhau có thể có, từ các cách xử lý của học sinh mà giáo viên lựa chọn
các cách phù hợp để đóng vai. Thông qua hoạt động này học sinh được suy nghĩ
nhận xét bình luận lựa chọn cách ứng xử nên hay không nên làm gì trong những
tình huống trên để đảm bảo an toàn cho bản thân.
VD2: Khi dạy bài “Cây hoa” học sinh cần có kĩ năng kiên định (từ chối
lời rủ rê hái hoa nơi công cộng), kĩ năng kiếm và xử lí thông tin về cây hoa. Kĩ

năng phê phán hành vi bẻ cây hái hoa nơi cộng cộng. Tôi sử dụng các phương
pháp thảo luận nhóm trò chơi như sau: Tôi cho học sinh quan sát cây hoa, bông
hoa mà yêu cầu học sinh từ tiết học trước mang đến lớp. Yêu cầu học sinh chỉ
ra các bộ phận của cây hoa, so sánh các loại hoa có trong nhóm để tìm ra sự
khác nhau về hình dáng, mùi vị, hương thơm và ích lợi của mỗi loại hoa. Học
sinh được thảo luận, báo cáo kết quả làm việc, được góp ý bổ sung sau đó liên
12


hệ thực tế: Ở nhà em nào có trồng cây hoa? Ở trường và ở nhà em đã làm gì để
chăm sóc và bảo vệ cây hoa? Khi đi chơi ở công viên cùng bạn, thấy hoa đẹp
bạn rủ em hái hoa em sẽ làm gì và nói gì lúc đó? Thông qua hoạt động này rèn
cho học sinh các kĩ năng kiên định, phê phán, tìm kiếm và xử lí thông tin, phát
triển kĩ năng giao tiếp.
e. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua hoạt động
ngoài giờ lên lớp:
Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một hoạt động quan trọng, góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Chính từ những hoạt động như: lao động, sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội đã
góp phần rất lớn trong việc hình thành nhân cách của học sinh. Giúp em biết tự
giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện mình. Có thể nói việc tổ chức các hoạt động
ngoài giờ lên lớp là xây dựng cho các em các mối quan hệ phong phú, đa dạng
một cách có mục đích, có kế hoạch, có nội dung và phương pháp nhất định, gắn
giáo dục với cộng đồng, tạo sự thân thiện trong mọi tình huống. Biến các nhu
cầu khách quan của xã hội thành những nhu cầu của bản thân học sinh.
Việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đối với học sinh
lớp 1 là điều kiện tốt nhất giúp học sinh tích luỹ và rèn kĩ năng sống có hiệu quả.
Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp các em được hợp tác, trải nghiệm các
kĩ năng sống. Vậy giáo viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động
ngoài giờ lên lớp sao cho học sinh có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải

nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống của chính mình và người khác.
VD1: Khi giáo dục kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự tin, kĩ năng hợp tác cho
học sinh, ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, tôi đã phát động các
phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” tôi tổ chức cho học sinh trao đổi trong
nhóm để học sinh tự tìm các cách xưng hô với bạn bè với thày cô giáo và với
những người lớn tuổi sau đó cho các em tự lựa chọn các cách xưng hô phù hợp
nhất thể hiện sự tôn trọng văn minh lịch sự trong giao tiếp, biết nhận lỗi và biết
xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn
bè, lễ phép với thầy cô và những người lớn tuổi.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả bản thân còn vận dụng thông qua các hoạt
động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp.
VD2: Để rèn kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, đảm nhận trách nhiệm
Nhân ngày lễ Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11. Đội đã phát động
phong trào thi làm báo tường, báo ảnh giữa các chi đội và chùm sao trong toàn
13


trường. Tôi đã hướng dẫn các em cùng sưu tầm bài vẽ và trang trí báo sao cho
nội dung phù hợp với chủ đề “Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11”.
Từ đó các em tự thảo luận lựa chọn giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau và chịu trách nhiệm
trước công việc để hoàn thành nhiệm vụ. Qua hoạt động này rèn cho các em
kĩ năng kĩ giao tiếp, kĩ năng hợp tác, đảm nhận trách nhiệm, kĩ năng tư duy
sáng tạo.
Ngoài ra, những buổi chào cờ, bản thân luôn khuyến khích các em xung
phong trả lời những câu hỏi mà thầy (cô) Tổng phụ trách hay hỏi. Luôn lắng
nghe các nội dung, hoạt động cần làm trong tuần. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần
và thực hiện tốt các phong trào. Thông qua hoạt động này giúp các em có kĩ
năng tự tin, kĩ năng giao tiếp kĩ năng lắng nghe tích cực…
Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang
trí lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã

hướng dẫn các em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh trong lớp, ở trường
hàng ngày.
g. Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, làm cho cha mẹ học sinh
nhận thức được tầm quan trọng và cùng với nhà trường giáo dục, rèn luyện
cho con em về kĩ năng sống.
Thông qua các cuộc họp cha mẹ học sinh của lớp tôi đã tuyên truyền, trao
đổi với phụ huynh để phụ huynh nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của
công tác giáo dục kĩ năng sống cho con em, phụ huynh tăng cường trách nhiệm
hơn nữa trong việc rèn luyện kĩ năng sống cho con em lúc ở nhà.
Tôi xây dựng mối liên hệ thường xuyên với cha mẹ học sinh, nắm bắt kịp
thời những diễn biến về tâm lí của các em để có biện pháp hữu hiệu trong việc
giáo dục, rèn kĩ năng sống cho học sinh.
5. Hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tiễn
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự hợp
tác, giúp đỡ của các đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp
tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy các kĩ năng sống cơ bản thể hiện ở
kết quả các năm học như sau:
Qua khảo sát lần 2 ở lớp 1E (cuối học kì II) với chủ đề “Kĩ năng tự phục
vụ”; kết quả so với đầu năm thì các em tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau:
Tổng số
Kĩ năng tốt
Có hình thành kĩ năng
Kĩ năng chưa tốt
học sinh
SL
%
SL
%
SL
%

14


34

18

52,9

Tổng số
học sinh

14

2

5,9

Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác

34

41,2

Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra
khỏi nhóm

SL


%

SL

%

30

88,2

4

11,8

Tổng số
học sinh

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hòa, khá
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi.
phù hợp.
SL
%
SL
%

34

32


94,1

2

5,9

Qua việc thực hiện các biện pháp trên đến cuối học kì II, bản thân tôi
nhận thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn
luyện các kĩ năng, được thể hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp,
trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào
thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã
trở thành thói quen được các em vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát
biểu trong tiết học và luôn được nhận cờ luân lưu trong tuần. Phụ huynh học
sinh rất vui mừng phấn khởi với kết quả này của lớp.
III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Bài học kinh nghiệm
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của
xã hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện
những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn,
tích cực, vui vẻ. Việc giáo dục kĩ năng sống ngay từ lớp nhỏ sẽ rút ngắn thời
gian để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành
trang bước vào đời. Chính vì vậy, các thầy cô giáo tiểu học luôn giữ vai trò vô
cùng quan trọng. Vì thế theo bản thân để làm tốt việc rèn kĩ năng sống cho học
sinh, mỗi thầy cô giáo cần phải:
- Xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.

15


- Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và hình thức tổ chức dạy

các kĩ năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các hoạt động khác.
- Tập trung vào việc đầu tư soạn giảng, lồng ghép kĩ năng sống vào các
môn học.
- Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia
tốt các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.
- Điều quan trọng là mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh
hoạt chuẩn mực, phải hết lòng thương yêu, gần gũi với học sinh.
- Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh không chỉ là công việc của giáo
viên, nhà trường mà của cả xã hội, cộng đồng, có như vậy mới mong đào tạo ra
được những thế hệ trẻ phát triển toàn diện, chuẩn bị tốt cho việc thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
- Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà bản thân mỗi giáo
viên luôn cố gắng để ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia
đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc. Giáo dục kĩ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn được bổ sung
để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống. Vì vậy việc chăm sóc và giáo dục trẻ
em, bồi dưỡng trẻ em trở thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô
cùng quan trọng mà mỗi giáo viên chúng ta phải cùng có trách nhiệm.
2. Kết luận
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta khi yếu tố con người
được coi trọng về tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần. Nhân cách của
con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của xã
hội. Thực tế hiện nay ngành giáo dục đào tạo đã được nhà nước quan tâm đưa
lên quốc sách hàng đầu thì việc dạy chữ nói chung và việc rèn kĩ năng sống nói
riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Một nhà hiền triết đã nói “Khoa học mà
không có hành vi đạo đức thì chỉ là sự tàn rụi của linh hồn” mà hành vi đạo đức
đó chính là kĩ năng sống của học sinh vì vậy việc thực hiện rèn kĩ năng sống cho
học sinh là cần thiết biết bao. Cần khẳng định việc đứa trẻ thích nghi nhanh hay
chậm, hình thành những kĩ năng sống diễn ra lâu hay mau phụ thuộc rất nhiều
vào mức độ đúng đắn trong các chuẩn của người lớn đối với đứa trẻ.

Trẻ em trong lứa tuổi tiểu học rất hồn nhiên ngây thơ trong trắng. Vốn
kiến thức, vốn kinh nghiệm sống của các em mới có rất ít. Vì vậy muốn đạt
được mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện của nhà trường, các thầy cô giáo cần
phải kiên trì, nhiệt tình, có tâm huyết với nghề, bên cạnh kiến thức về chuyên
môn nghiệp vụ, người giáo viên phải có vốn kiến thức tâm lý học, hiểu được
16


tâm sinh lý của trẻ. Từ đó sẽ tìm ra được những phương pháp hiệu quả để giáo
dục trẻ. Việc dạy “chữ” cần luôn song hành với việc dạy “ làm người”, và phải
được xuất phát ngay từ những tình huống, những việc làm nhỏ nhất trong cuộc
sống thực tế của học sinh. Ngay trong những giờ học ngoài việc đảm bảo mục
tiêu kiến thức kĩ năng của bài, giáo viên cần chú ý đến rèn kĩ năng sống cho học
sinh. Học sinh được rèn kĩ năng sống qua nội dung kiến thức của bài, qua lĩnh
hội kiến thức pháp luật, qua tham gia các hoạt động học tập trong lớp, hoạt động
ngoài giờ do giáo viên tổ chức. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực chủ động của học sinh là giúp học sinh có nhiều cơ hội để rèn kĩ
năng sống. Học sinh được học tập sinh hoạt vui chơi, rèn luyện trong môi trường
gia đình, nhà trường, xã hội; vì vậy cần thực hiện tốt gắn kết 3 môi trường để
giáo dục học sinh. Phối kết hợp chặt chẽ với các ban ngành đoàn thể để giúp đỡ,
tư vấn, tạo điều kiện cho học sinh tích lũy có thêm kĩ năng sống và rèn kĩ năng
sống được tốt hơn.
3. Đề xuất:
a. Đối với nhà trường:
Tiếp tục đầu tư thêm tài liệu Giáo dục kĩ năng sống phục vụ cho việc dạy
và học trong trường tiểu học.
b. Đối với phòng giáo dục:
Tổ chức thường xuyên các buổi sinh hoạt chuyên môn để giáo viên được
trao đổi thảo luận, chia sẻ để việc tích hợp Giáo dục kĩ năng sống trong các môn
học và hoạt động giáo dục có hiệu quả hơn.

Trên đây là một số ý kiến của tôi về vấn đề Giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 1. Do trong quá trình viết không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất
mong nhận được sự góp ý của Ban giám hiệu, của đồng nghiệp để sáng kiến
kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nhật Tân, ngày 20 tháng 10 năm 2016
Người viết

Nguyễn Thị Kim Dung
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

17


1. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học Nhà xuất bản giáo
dục Việt Nam - Lớp 1.
2. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học Nhà xuất bản giáo
dục Việt Nam - Lớp 2.
3. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học Nhà xuất bản giáo
dục Việt Nam - Lớp 3.
4. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học Nhà xuất bản giáo
dục Việt Nam - Lớp 4.
5. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học Nhà xuất bản giáo
dục Việt Nam - Lớp 5.
6.Tài liệu tập huấn Giáo dục kĩ năng sống Bộ giáo dục và đào tạo.

Đánh giá xếp loại của
Hội đồng khoa học trường Tiểu học Nhật Tân
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

18


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………........
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

Đánh giá xếp loại của
Hội đồng khoa học Phòng giáo dục và đào tạo huyện Kim Bảng
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
19


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………........
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

2

1.1. Lý do chọn đề tài

2
20


1.2. Mục đích nghiên cứu

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu


3

1.5. Giới hạn nghiên cứu

3

II. NỘI DUNG

3

1. Cơ sở lý luận
2. Cơ sở thực tiễn

3

a. Thuận lợi

6

b. Khó khăn

6

3. Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1

9

4. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
5. Hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tiễn


9
14

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

15

1. Bài học kinh nghiệm

15

2. Kết luận

16

3. Đề xuất

17

a. Đối với nhà trường

17

b. Đối với phòng giáo dục

17

CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO


18

5

21



Các giải pháp rèn kĩ năng sống cơ bản cho học sinh lớp 1

  • docx
  • 22 trang
MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2

Tên mục
Mở đầu
Lí do viết chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp Rèn kỹ năng sống cơ bản cho học sinh lớp 1
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2
2
5
6 - 13
14 - 15
16
16
16

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong những năm học gần đây, Bộ GD-ĐT đã đưa nội dung giáo dục kỹ
năng sống lồng ghép vào các môn học ở bậc Tiểu học. Đây là một chủ trương rất
cần thiết đối với các em ở trường Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói
riêng, đó là một trong những tiêu chí đánh giá "Trường học thân thiện - học
sinh tích cực". Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện về
đức, trí, thể, mĩ. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một nội dung được
xã hội cũng như đông đảo phụ huynh quan tâm, bởi đây là một chương trình
giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh và phù hợp với mục tiêu giáo dục
hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội. Năm học 2019 – 2020 phòng
GD&ĐT thành phố Thanh Hóa đã có công văn hướng dẫn các nhà trường trên
địa bàn thành phố phối hợp với Trung tâm giáo dục kỹ năng sống BIGBEN để
cung cấp phần mềm dạy học kỹ năng sống (KNS) cho tất cả các khối, từ khối 1
đến khối 5 với thời lượng mỗi tuần 1 tiết dạy học độc lập. Nhờ vậy mà kỹ năng
sống của học sinh đã có những thay đổi đáng kể. Tuy nhiên trong thực tế hiện
nay việc rèn kỹ năng sống cho học sinh vẫn còn nhiều hạn chế, nguyên do chính
là trong tư tưởng giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức đó
là : đọc tốt, làm tính tốt.
Ở bậc Tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng là bậc học tạo nền tảng cho
học sinh phát triển. Vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản
trong học tập, lao động thì bên cạnh đó còn có các môn học nhằm cung cấp cho
học sinh những kiến thức cơ bản về các chuẩn mực hành vi, để từ đó giúp học
sinh hình thành kỹ năng sống, biết phân biệt đúng sai. Biết làm theo cái đúng,
ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, nhắc nhở các em
hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức. Kỹ năng sống được
lồng ghép giảng dạy theo từng độ tuổi, từng cấp học. Vì vậy việc nghiên cứu và
giảng dạy một cách hiệu quả là vô cùng cần thiết. Thiếu kỹ năng sống các em dễ
ứng xử thiếu văn hóa, cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử, kỹ năng tự
bảo vệ khỏi những tác hại tiêu cực...Thiếu kỹ năng sống học sinh khó có thể
hình thành thói quen, nhân cách và lối sống tốt trong tương lai.Trẻ em được
trang bị kỹ năng sống càng sớm thì càng vững vàng và dễ hoàn thiện bản thân.
Giáo dục học sinh lớp 1 có kỹ năng sống, để học sinh tự giải quyết được
một số vấn đề đơn giản thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: Tự chăm sóc
1

sức khỏe, bảo vệ môi trường và phòng chống các tai nạn thương tích, giao
thông, phòng chống cháy nổ, đuối nước, phòng chống dịch bệnh cho bản thân,
cho người thân và những người xung quanh nhất là trong lúc đại dịch COVID –
19 đang diễn biến phức tạp trên hai trăm nước và các châu lục trong đó có Việt
Nam… để các em chủ động, tự tin không phụ thuộc hoàn toàn vào người lớn mà
vẫn có thể tự bảo vệ mình. Vậy làm thế nào để nâng cao kĩ năng sống cho học
sinh? Làm thế nào để học sinh biết cách vận dụng kĩ năng sống vào trong cuộc
sống hằng ngày? Với mong muốn góp phần vào việc giải quyết những vấn đề
nói trên đạt hiệu quả cao hơn, bản thân tôi tiếp tục nghiên cứu bổ sung cho sáng
kiến kinh nghiệm:
“ Các giải pháp rèn kỹ năng sống cơ bản cho học sinh lớp 1”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng sống cho học sinh, góp phần thực hiện
tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, góp
phần nâng cao chất luợng giáo dục toàn diện của lớp 1.
- Với mong muốn bổ sung thêm giải pháp và kinh nghiệm, để chia sẻ, trao
đổi nhằm thực hiện có chất lượng hơn công tác rèn kỹ năng sống, kỹ năng ứng
phó với những tác động tiêu cực đối với học sinh lớp 1 đạt hiệu quả cao hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Các giải pháp rèn kỹ năng sống cơ bản cho học sinh lớp 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đọc tài liệu
- Phương pháp thống kê, tổng hợp.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp thảo luận.
- Phương pháp đặt vấn đề.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở ly luâ ̣n của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1. Khái niệm Kỹ năng sống:
Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về Kỹ năng sống. Mỗi định
nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau. Thông thường kỹ
năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được
sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao.
2

Theo UNICEFF, Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội
và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao
tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân
nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Kỹ năng sống được
thể hiện ở những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến
những hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành động
nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.
Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO),
kỹ năng sống là năng lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham
gia vào cuộc sống hàng ngày, những kỹ năng đó gắn vói 4 trụ cột của giáo dục:
Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định
vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm…;
Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng đặt
mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm..;
Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng,
kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…;
Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng định
hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông;
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là kỹ năng thiết thực
mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh, đó là những kỹ năng
tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những
người khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay thách thức
của cuộc sống hằng ngày.
Tương đồng với quan niệm của WHO, còn có quan niệm kỹ năng sống là
những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và
những thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá
nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của
cuộc sống.
Theo PGS.TS Nguyễn Thanh Bình - Trường ĐHSP Hà Nội: Kĩ năng sống
là năng lực, khả năng tâm lý - xã hội của con người có thể ứng phó với những
thách thức trong cuộc sống, giải quyết các tình huống một cách tích cực và giao
tiếp có hiệu quả.

3

Vậy Kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng
ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực
trước các tình huống của cuộc sống.
Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân
tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc
sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại... Kỹ năng sống
đơn giản là tất cả điều cần thiết mà chúng ta phải biết để có được khả năng thích
ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống .
Rèn kỹ năng sống cho học sinh giúp cho học sinh thích ứng được với môi
trường xã hội, tự giải quyết được một só vấn đề thiết thực trong cuộc sống như
vấn đề sức khỏe, môi trường, tệ nạn xã hội, dịch bệnh... để các em có thể tự tin,
chủ động không bị qua phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình,
tự đem lại lợi ích, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn
đấu vươn lên.
2.1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh:
a) Kỹ năng sống thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội.
- KNS chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái
độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh.
- GDKNS sẽ thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp nâng
cao chất lượng cuộc sống, giải quyết nhu cầu và quyền con người, quyền công
dân được ghi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế.
b) Giáo dục Kỹ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ:
- Vì các em là những chủ nhân tương lai của đất nước.
- Lứa tuổi HS là lứa tuổi đang hình thành giá trị nhân cách, nếu không có
KNS các em sẽ không thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng
đồng và đất nước.
c) Giáo dục Kỹ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục
phổ thông:
- Đảng ta xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát
triển xã hội.
- Giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh với bản chất là hình thành và phát
triển cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với
những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực phù hợp trước các
4

tình huống của cuộc sống, rõ ràng là phù hợp với mục tiêu giáo dục phổ thông
và rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
d) Giáo dục Kỹ năng sống trong nhà trường là xu thế chung của
nhiều nước trên thế giới:
- Hiện nay đã có hơn 155 nước trên thế giới đã quan tâm đến việc đưa Kỹ
năng sống vào nhà trường, trong đó có 143 nước đã đưa vào chính khóa.
- Việc giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh ở các nước được thực hiện
theo 3 hình thức
- Kỹ năng sống là một môn học riêng biệt.
- Kỹ năng sống được tích hợp vào một vài môn học chính.
Kỹ năng sống được tích hợp vào nhiều hoặc tất cả các môn học trong
chương trình.
2.1.3. Nhận thức về giáo dục Kỹ năng sống
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thể quan niệm là việc tổ chức các
hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một
cách tích cực chủ động vào các quá trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay
đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn
diện; giúp học sinh có thể sống an toàn, khỏe mạnh và tích cực, chủ động trong
học tập cũng như trong cuộc sống hằng ngày.
Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục những kỹ năng cơ bản giúp cho các em
thích nghi trong cuộc sống, giúp cho các em vững vàng trước cuộc sống có
nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống
tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các em các hành vi
theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người
học, trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp.
Theo nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng
giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của
mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ
bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập
của trẻ tại trường.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1
nói riêng là giáo dục kỹ năng sống ngay từ những buổi đầu các em đến trường.
Nếu không chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lí cho trẻ trước khi đi học sẽ dẫn đến
5

những tình huống như: Đòi theo bố mẹ về nhà, không dám nói chuyện với bạn
bè, không dám chào hỏi thầy cô, không dám xin phép cô khi ra vào lớp... không
ít những tình huống dở cười, dở mếu nữa có thể xảy ra ở trẻ lớp 1. Đặc biệt quá
trình nhận thức của trẻ bao gồm quá trình tri giác, chú ý, trí nhớ, tưởng tượng, tư
duy. Đặc điểm nhân cách của trẻ Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng
gồm có: Tính cách, nhu cầu nhận thức, tình cảm, sự phát triển của năng khiếu.
Sự nhận thức của trẻ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nhân cách, nhận thức
đúng đắn sẽ giúp trẻ có được kiến thức vận dụng trong cuộc sống sinh hoạt, giao
tiếp, ứng xử phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội. Một đặc điểm quan trọng
của học sinh lớp 1 là tính hay bắt chước. Các em thích bắt chước hành vi, cử
chỉ, lời nói... của các nhân vật trong phim, của các thầy cô giáo, bạn bè, của
những người lớn, người thân trong gia đình. Tính bắt chước là con dao “hai
lưỡi” vì trẻ em bắt chước cái tốt cũng nhiều, cái xấu cũng nhiều. Chính vì vậy
những tính cách hành vi của những người xung quanh là môi trường ảnh hưởng
trực tiếp đến tính cách, hành vi, ứng xử của trẻ.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1
nói riêng là công việc vô cùng cần thiết cho học sinh. Các em thường tin tưởng
tuyệt đối ở nơi thầy, cô giáo nên chúng thường bắt chước những cử chỉ tác
phong của thầy, cô giáo mình. Ở trường các em còn được tiếp xúc với bạn bè,
với tập thể nhóm bạn, tổ, lớp; những hoạt động tập thể cũng ảnh hưởng không ít
đến việc hình thành, phát triển nhân cách và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thuận lợi:
Phòng GD&ĐT thành phố Thanh Hóa ngoài việc chỉ đạo giảng dạy Kỹ
năng sống cho học sinh được lồng ghép vào các môn học chính khóa. Tổ chức
nhiều Chuyên đề về Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Từ năm học 20192020 phòng GD&ĐT thành phố Thanh Hóa đã có công văn hướng dẫn các nhà
trường trên địa bàn thành phố phối hợp với Trung tâm giáo dục kỹ năng sống
BIGBEN để cung cấp phần mềm dạy học kỹ năng sống (KNS) cho tất cả các
khối, từ khối 1 đến khối 5 với thời lượng mỗi tuần 1 tiết dạy học độc lập. Đây là
một điều kiện rất thuận lợi giúp các nhà trường trên địa bàn thành phố nâng cao
chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công
tác giảng dạy. Ngoài ra tôi còn nhận được sự ủng hộ của phụ huynh trong việc
6

cùng nhà trường giáo dục các em. Bản thân tôi luôn nhiệt tình, gần gũi và tạo
mối thân thiện với các em, có biê ̣n pháp cụ thể để rèn kỹ năng sống cho các em
một cách chung nhất và có kết quả tốt nhất.
Bên cạnh đó tôi luôn nhận được sự giúp đỡ của đồng nghiệp, các em học
sinh trong lớp khá ngoan và biết vâng lời, gần gũi với thầy cô giáo. Giáo dục
KNS không chỉ từ nhà trường mà còn được phối hợp với các tổ chức như: Đoàn,
Đội, Hội chữ thập đỏ, …qua các phương tiện thông tin đại chúng nên đã thu hút
được sự chú ý và hưởng ứng của xã hội, của phụ huynh học sinh. Sự phối hợp
chặt chẽ giáo dục Kỹ năng sống với các hoạt động giáo dục vốn đã được lồng
ghép vào chương trình giáo dục từ nhiều năm nay như giáo dục bảo vệ môi
trường, phòng chống ma tuý, giáo dục pháp luật, … tạo nhiều cơ hội và điều
kiện để triển khai giáo dục Kỹ năng sống.
2.2.2. Khó khăn:
*Học sinh: Năm học 2019 – 2020 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 1C.
Tổng số học sinh trong lớp là 45 em: Trong đó có 3 em có bố mẹ là công chức
nhà nước (3/45 em chiếm tỷ lệ 6,7%), 12 em là gia đình làm nông nghiệp (12/45
em chiếm tỷ lệ 26,7%), còn lại 30 em có bố mẹ làm nghề lao động tự do (30/45
em chiếm tỷ lệ 66,6%), nhiều gia đình mãi lo việc mưu sinh ít có điều kịên quan
tâm đến các em. Khi tôi nhận lớp, đã sau hai tháng học nhưng vẫn còn 3 em mẹ
đưa đến lớp là khóc. Gọi lên bảng không dám lên, nhiều em không dám giơ tay
phát biểu xây dựng bài cô gọi chỉ gật và lắc đầu, hoặc "ơi", "hở", chưa biết nói
lời thưa gửi thể hiện lễ phép. Các em vừa rời trường mẫu giáo làm quen với môi
trường Tiểu học, sinh hoạt nề nếp đều xa lạ , các em khá rụt rè chưa quen với
cách học cũng chưa mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình. Khi phát biểu các em nói
chưa rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu .Vì vậy mà các em cần phải có
sự giúp đỡ của người lớn của nhà trường và nhất là các thầy cô giáo.
* Phụ huynh học sinh: Về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vô ̣i trong
việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa biết đọc, viết
chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời một số
phụ huynh thì quá nuông chiều, một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít
quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết. Nhiều em đến trường tỏ
ra rất nhút nhát, e rè vì ở nhà các em không có người trò chuyện và chia sẻ.
Nhiều phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm kiến thức mà
quên hướng cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và
7

cách ứng xử trong gia đình. Một bộ phận ở gia đình phụ huynh giao tiếp trong
gia đình còn nhiều hạn chế, xưng hô chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và
xưng hô thiếu thiện cảm, thậm chí có gia đình không hướng dẫn con em làm bất
cứ việc gì kể cả vệ sinh cá nhân, .....
2.2.3 . Kết quả thực trạng trên
Sau tháng đầu tiên làm quen và tiến hành các bước cần thiết, tôi tiến hành
khảo sát phân thành 5 nhóm kỹ năng cơ bản được thể hiện qua biểu thống kê
như sau:
TSH
S
Khảo
sát
45

SỐ HỌC SINH ĐẠT YÊU CẦU THEO TỪNG NHÓM KỸ NĂNG
KN ra QĐ
KN tự phục
KN nhận
KN giao
KN hợp tác,
và giải quyết
vụ và quản
thức
tiếp, ứng xử
chia sẻ
vấn đề
lý thời gian
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
19
42,2
12
26,7
10
45
8
17,8
7
17,8

Từ tình hình thực tế trên tôi đã thực hiện các giải pháp sau để rèn kỹ năng
sống cho học sinh một cách hiệu quả hơn.
2.3. Các giải pháp Rèn kỹ năng sống cơ bản cho học sinh lớp 1:
Giải pháp 1: Công tác tuyên truyền; tổ chức tập huấn cho các bậc cha
mẹ thực hiêṇ dạy các em các kĩ năng sống cơ bản.
a) Công tác tuyên truyền
Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công
bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em. Tạo điều kiê ̣n tốt nhất cho các
em vui chơi. Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của
mình, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về
những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó
mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ
hình thành kĩ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi
tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trường sau này. Cô giáo, cha
mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng người lớn
có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó.
Ví dụ: Một số học sinh thích vẽ, ngoài việc cho các em học năng khiếu vẽ thì cô
giáo, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em
cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các
em hoặc triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Hay học
8

sinh thích học đàn thì tạo điều kiện để các em được tham gia các lớp bồi dưỡng
thêm để các em có đủ tự tin biểu diễn trên sân khấu trong những ngày lễ lớn của
trường tổ chức: 20/11; Văn nghệ “ Mừng đảng – Mừng xuân”;...
Cô giáo, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết
cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; Cụ thể: Các em được làm quen với những đồ
dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn
gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng,
vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và
đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ
giúp các em có thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là
kỹ năng sống tự lập sau này.
b) Tổ chức tập huấn cho các bậc cha mẹ thực hiêṇ dạy các em các kĩ
năng sống cơ bản.
Tổ chức họp phụ huynh thông báo đặc điểm tình hình của lớp, nêu tầm
quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh , tính cấp bách của vấn đề kỹ
năng sống cho học sinh. Thống nhất cùng phụ huynh phương pháp giáo dục kỹ
năng sống ở nhà. Phụ huynh được tập huấn, nghiên cứu chương trình học, kỹ
năng qua các môn học, qua ứng xử, giao tiếp thường ngày ngay tại gia đình. Phụ
huynh có nhiệm vụ nhắc nhở con em mình thực hiện hành vi đã học ở nhà.
Hướng dẫn phụ huynh nhắc nhở con em mình thực hiện hành vi theo từng bài
học và thời khoá biểu quy định. Đó là những kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống
thể hiện đúng và lễ phép với người trên như: Đi học và đi học về biết chào ông,
bà, bố, mẹ, anh, chị, em, cách chào đứng khoanh tay nói vừa đủ nghe lễ phép.
Biết tự giới thiệu họ tên của mình, họ tên bố mẹ, người thân, nhớ số điện thoại
của bố, mẹ, nhớ số nhà để khi cần thiết cô giáo biết để liên lạc. Đầu tóc, quần áo
gọn gàng. Biết lễ phép vâng lời ông bà, cha mẹ, nhường nhịn em nhỏ. Biết yêu
thương, kính trọng, lễ phép với ông bà, cha mẹ. Đi bộ đúng quy định, đi học
đúng giờ qua các bài Đạo đức lớp học hoặc thông qua các công việc gia đình
như biết làm các công việc phù hợp với lứa tuổi của mình qua bài Công việc ở
nhà, bài An toàn khi ở nhà, bài Vệ sinh thân thể(TNXH lớp 1) ... hoặc thông qua
các bài học kỹ năng sống trong phần mềm BIGBEN như bài Tự giới thiệu bản
thân. Kỹ năng hòa nhập môi trường mới. Kỹ năng làm quen. Kỹ năng thể hiện lễ
phép trong gia đình. Kỹ năng vệ sinh cá nhân. Kỹ năng ứng xử khi tiếp xúc với
người lạ. Kỹ năng ứng xử khi bị lạc. Phòng tránh bị bắt cóc. An toàn ở trường
9

Bên cạnh đó khi đại dịch COVID – 19 xuất hiện ở nước ta và rất nhiều nước trên
thế giới thì công ty phần mềm BIGBEN lại cung cấp thêm một bài học về Phòng
dịch vi rút CORONA trong thời gian cả nước đang chống dịch để đưa vào
chương trình học cho các em để các em biết cách vệ sinh cá nhân bằng cách rửa
tay với nước sát khuẩn, ..., đeo khẩu trang khi tiếp xúc với người xung quanh,
khi đi ra đường kể cả khi học sinh đến trường vẫn biết đeo khẩu trang để phòng
dịch. Đó là một kỹ năng cơ bản nhất, thực tế nhất để các em vận dụng ngay vào
trong cuộc sống hiện tại.
Mỗi phụ huynh lập bảng theo dõi hành vi đạo đức, kỹ năng sống ở nhà
của học sinh, hàng tháng nộp lại để giáo viên theo dõi xếp loại cho từng em.
Giải pháp 2: Xác định các bài học trọng tâm để rèn các kỹ năng sống
cơ bản cho học sinh lớp 1
a) Rèn kỹ năng tự nhận thức.
Đối với học sinh học sinh lớp 1, việc hình thành kỹ năng tự nhận thức vô
cùng quan trọng. Qua các bài học : Gọn gàng, sạch sẽ. Học sinh biết lợi ích của
việc ăn mặc sạch sẽ, biết giữ vệ sinh cá nhân, đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ và biết
phân biết giữa ăn mặc gọn gàng , sạch sẽ và chưa gọn gàng, sạch sẽ. Bài Giữ gìn
sách vở, đồ dùng học tập. Học sinh biết tác dụng của sách vở đồ dung học tập.
Biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện giữ gìn sách vở đồ dung học tập. Bài
Nghiêm trang khi chào cờ. Học sinh biết thể hiện lòng tôn kính Quốc kì và yêu
Tổ quốc Việt Nam.( Đạo đức lớp 1). Ngăn nắp gọn gàng sạch sẽ ( bài 20 Kỹ
năng sống lớp 1) Kỹ năng giữ vệ sinh chung. Kỹ năng vệ sinh các nhân. Kỹ
năng tự chuẩn bị đồ dùng học tập, trang phục đến trường.
( Giáo dục KNS lớp 1)
Thông qua từng hoạt động và nội dung học tập, tôi đã giúp cho các em
biết xác định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, để bước đầu có được
niềm tin vào chính mình, biết gọn gàng sạch sẽ cho bản thân, biết giữ gìn sách
vở cho chính mình, có ý thức cần trang nghiêm khi chào cờ. Từ đó tự xây dựng
kế hoạch học tập ở mức độ đơn giản, làm việc phù hợp với khả năng của mình,
biết khắc phục khó khăn để đạt được mục tiêu trong học tập và trong mọi hoạt
động hằng ngày.
Đây sẽ là cơ sở để giúp các em hình thành và phát triển kỹ năng tư duy
tích cực và tư duy sáng tạo trong học tập.
b) Rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử
10

Để hình thành kỹ năng giao tiếp, ứng xử tốt cho học sinh, trong quá trình
dạy học, bản thân tôi luôn giúp các em biết rèn luyện kỹ năng nói, kỹ năng nhận
xét, giúp các em có khả năng bày tỏ ý kiến của bản thân theo nhiều hình thức;
mạnh dạn đứng trước tập thể lớp để trình bày quan điểm của mình đồng thời
biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người khác.
Tôi luôn nghĩ nếu các em có được khả năng giao tiếp tốt, luôn biết cởi
mở, bày tỏ suy nghĩ của mình sẽ tạo được các mối quan hệ tích cực với bạn bè
và luôn được bạn bè đồng tình, ủng hộ.
Đây là yếu tố dẫn đến sự phát triển các kỹ năng như: Kỹ năng chia sẻ,
cảm thông; kỹ năng thương lượng; kỹ năng tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu
thuẫn, kiểm soát cảm xúc và cuối cùng là kỹ năng đạt được mục tiêu. Qua các
bài Lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ. Học sinh biết cư xử lễ phép với
anh chị, nhường nhịn em nhỏ trong cuộc sống hằng ngày, biết phân biệt các
hành vi, việc làm phù hợp và chưa phù hợp về lễ phép với anh chị, nhường nhịn
em nhỏ. Bài Cảm ơn và xin lỗi. Các em biết khi nào cần nói cảm ơn, xin lỗi,
Biết cảm ơn, xin lỗi trong các tình huống phổ biến khi giao tiếp. Bài Chào hỏi và
tạm biệt. Học sinh biết chào hỏi, tạm biệt trong các tình huống cụ thể, quen
thuộc hằng ngày. Có thái độ tôn trọng, lễ phép với người lớn tuổi.(Đạo đức lớp
1). Thông qua các hoạt động thảo luận nhóm cũng giúp cho các em có kỹ năng
giao tiếp , ứng xử tốt hơn.
c) Rèn kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề
Theo tôi kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề cũng là những kỹ
năng rất cần thiết trong học tập và trong cuộc sống hằng ngày đối với học sinh.
Là giáo viên chủ nhiệm lớp nên tôi luôn giúp các em hiểu được rằng: Nếu
biết lựa chọn và đưa ra quyết định đúng đắn, phù hợp và kịp thời sẽ đem lại
thành công; ngược lại, nếu học sinh nào hay nhút nhát, rụt rè, đưa ra những
quyết định chậm trễ hay sai lầm sẽ ảnh hưởng tới kết quả học tập, cuộc sống
sinh hoạt và các hoạt động hàng ngày.
Vì vậy, trong các bài học của môn Đạo đức, Tự nhiên và xã hội, Giáo
dục Kỹ năng sống (phần mếm BIGBEN) giáo viên cần tăng cường sử dụng các
tình huống, bài tập thực hành; đưa ra các tình huống, bài tập cụ thể, gắn liền với
thực tế, khuyến khích học sinh suy nghĩ và lựa chọn các phương án tốt nhất hoặc
nên hay không nên làm… Được thể hiện trong các bài học như : bài An toàn
trên đường đi học (TN&XH 1) các em xác định được một số tình huống nguy
11

hiểm có thể dẫn đến tai nạn trên đường đi học thì các em đã biết đi bộ sát mép
đường về phía tay phải, hoặc đi trên vỉa hè, hoặc đội mũ bảo hiểm khi ngồi sau
xe gắn máy. An toàn ở trường (KNS lớp 1). Không ăn quà vặt ngay cổng trường,
không lùa nhau, nô đùa chạy, nhảy, trèo cây cũng có thể xãy ra tai nạn như ngã
gãy tay hoặc gãy chân. Bài An toàn khi ở nhà (TN&XH 1) các em biết xử lí các
tình huống đơn giản hoặc biết gọi người lớn khi có tai nạn xảy ra. Những nguy
hiểm từ điện. Không đùa với lửa(GDKNS lớp 1) học sinh biết cách không phòng
tránh không bị điện giật, cháy nhà, không bị bỏng lửa....Trong bài Đi bộ đúng
quy định (Đạo đức 1) học sinh đã nêu được ích lợi của việc đi bộ và thực hiện đi
bộ đúng quy định và nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.
Thông qua các tình huống, các bài tập giúp học sinh mạnh dạn đề xuất ý
tưởng của mình, từ đó giáo viên hướng các em có cách xử lí và giải quyết vấn đề
phù hợp, đúng đắn.
d) Rèn kỹ năng hợp tác, chia sẻ
Qua từng nhiệm vụ, từng hoạt động trong các bài học, giáo viên cần giúp
học sinh thấy được lợi ích và hiệu quả của việc làm tập thể là vô cùng to lớn. Có
những việc phải cần có sự hợp tác của bạn mới đem lại thành công.
Giáo viên cần giúp học sinh biết chung sức làm việc, biết giúp đỡ và hỗ
trợ lẫn nhau trong mọi hoạt động; biết chia sẻ và sẵn sàng gánh vác trách nhiệm
cùng với nhóm, với tập thể lớp. Phần này giáo viên có thể phân chia lớp theo các
nhóm nhỏ, mỗi nhóm vừa có học sinh khá giỏi, vừa có học sinh yếu để tạo cho
các em có cơ hội giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, sinh hoạt vui chơi… Thông
qua các môn học giúp các em biết chia sẻ, hợp tác như trong bài Em và các bạn
học sinh đã biết đoàn kết thân ái, giúp đỡ bạn trong học tập và trong vui chơi và
đoàn kết, thân ái với bạn bè xung quanh. Hoặc qua bài Công việc ở nhà
(TN&XH 1) các em đã biết giúp đỡ bố mẹ những công việc phù hợp với khả
năng của mình như quét dọn nhà cửa, trông em giúp mẹ, nhặt rau giúp mẹ, …
Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát, giáo viên giúp trẻ học cách cùng
làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với các em học sinh lứa
tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông, chia sẻ và sẽ cùng
bạn hợp tác làm việc.
Tổ chức lớp cũng nên đổi mới. Lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó cần
thay đổi theo từng tháng để từng học sinh biết được các công việc của người
lãnh đạo, các khó khăn gặp phải và xử lý ra sao…đồng thời biết thông cảm với
12

công việc của người chỉ huy. Qua đó rèn cho các em những kỹ năng chỉ huy,
lãnh đạo cần thiết.
e) Rèn kỹ năng tự phục vụ và quản lí thời gian
Tự phục vụ và quản lí thời gian là một trong những kỹ năng quan trọng
trong nhóm kỹ năng làm chủ bản thân.
Đối với học sinh Tiểu học và đặc biệt là học sinh lớp 1 ở nông thôn, nhiều
gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên thường cha mẹ ít quan tâm tới việc học tập
của con em mình.
Vậy, nếu thực hiện tốt kỹ năng sống sẽ giúp các em luôn đi học đều và
đúng giờ, tham gia tốt các hoạt động học tập và luôn hoàn thành tốt các nhiệm
vụ, yêu cầu trong học tập, sinh hoạt. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả học tập,
làm việc của bản thân, của nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài “Đi học đều và đúng giờ”, giáo viên chú trọng rèn học
sinh các kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề để đi học đúng giờ qua trò
chơi sắm vai; hoặc rèn kỹ năng quản lí thời gian để đi học đều và đúng giờ qua
hoạt động tự liên hệ bản thân.
Giáo viên cần giúp học sinh xác định được những việc cần làm để đi học
đều và đúng giờ, tự liên hệ bản thân mình đã thực hiện đi học đều và đúng giờ
chưa, nếu chưa thì phải làm gì?...
Hoặc khi dạy bài “Em và các bạn”, thông qua trò chơi “tặng hoa”, giáo
viên giúp học sinh thể hiện sự mạnh dạn, tự tin, thể hiện kỹ năng trình bày suy
nghĩ, ý tưởng của bản thân...
Giải pháp 3: Rèn kỹ năng thông qua liên hệ bài dạy
Tôi luôn nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy để lựa chọn phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Hệ thống câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, định
hướng cho HS nhận xét các hiện tượng sự vật từ đó biết cách xử lý những tình
huống đơn giản trong cuộc sống. Ví dụ: Sau khi học bài Trời nóng trời rét, các
em sẽ nhận biết chính xác về thời tiết và có cách ăn mặc phù hợp hơn. Hay
thông qua các trò chơi trên lớp, các em sẽ biết việc nào nên làm và việc nào
không nên làm để từ đó lựa chọn cách ứng xử phù hợp. Điều quan trọng là giáo
viên cần chú ý liên hệ thực tế trong bài dạy, biết tìm tòi, cập nhật những thông
tin liên quan nhằm giúp các em phòng tránh nguy cơ bệnh tật, phòng chống
bệnh viêm đường hô hấp cấp
Ví dụ : Bệnh cúm gà (bài Con gà)
13

Bệnh sốt rét, sốt xuất huyết (bài Con muỗi)
Phòng tránh nguy hiểm: gọi cứu hỏa (bài An toàn khi ở nhà)
Gọi cấp cứu (bài Bảo vệ mắt và tai)…
Phòng dịch vi rút CORONA( KNS lớp 1)
Giáo viên phải xây dựng thói quen tự quan sát, nhận xét tình huống xảy ra
trong thực tế cuộc sống cho HS ngay từ đầu năm học. Mỗi tiết dạy phải theo quy
trình đã thiết kế, xây dựng mối quan hệ giữa bài học và cuộc sống, thu hút HS
vào các hoạt động cụ thể, giúp các em tích lũy vốn sống và biết cách tự điều
chỉnh bản thân. Xây dựng mối liên hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, giữa
bài học và cuộc sống thực tế sinh động gần gũi với lứa tuổi HS khối lớp 1. Giúp
các em khắc sâu kiến thức qua những thước phim đẹp do giáo viên sưu tầm
được.
Giải pháp 4: Rèn kỹ năng sống vào hoạt động ngoại khóa
Tôi luôn chú ý rèn sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng
chống tai nạn giao thông, đuối nước và các thương tích khác qua các hoạt động
ngoại khóa. Tôi rèn luyện cho các em biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí
báu của mỗi con người. Học tập tốt đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt
được. Muốn đạt được điều đó học sinh phải rèn luyện sức khỏe, đó là điều cần
được quan tâm. Tuy nhiên có được một sức khỏe tốt và bảo vệ được nó thì
không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không làm được, nhiều khi sức khỏe của
các em phụ thuộc vào những điều giản dị. Đó là giáo dục một lối sống khoa học.
Nhưng để các em có những kỹ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước
và các thương tích khác, tôi đã rèn cho các em được luyện tập tự xử lý các tình
huống qua các hoạt động ngoài giờ : Ví dụ bài Hoạt động và nghỉ ngơi. Thực
hành Quan sát bầu trời( TNXH lớp 1), hoặc Bảo vệ cây và hoa nơi công cộng
(Đạo dức lớp 1). Thông qua các bài học cũng rèn cho các em kĩ năng sống vào
hoạt động ngoại khóa. Các trò chơi dân gian ngày tết. Kỹ năng bảo vệ cây
xanh(GDKNS lớp 1)
Ngoài các bài học ra thì năm học 2019 – 2020 nhà trường còn tổ chức các
hoạt động ngoại khóa để chào mừng, kĩ niệm các ngày lễ lớn trong năm như
nhà trường có tổ chức các hoạt động văn nghệ vào tháng 11 chào mừng ngày
Nhà giáo Việt Nam 20/11, trò chơi dân gian vào tháng 12 kĩ niệm Ngày thành
lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12, … Đó là những hoạt động vui chơi giải
trí trong các hoạt động ngoại khóa giúp các em học tập tích cực hơn và giúp các
14

em biết yêu quý, tôn trọng thầy cô, các chú bộ đội hơn thông qua các hoạt động.
Những hoạt động ngoại khóa cũng rất phù hợp với lứa tuổi của học sinh lớp 1.
Duy trì việc sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được
học được chơi.
Giải pháp 5: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua
công tác chủ nhiệm lớp
Mỗi thầy giáo, cô giáo muốn hoàn thành nhiệm vụ của người giáo viên chủ
nhiệm trước hết phải có tình yêu thương con người, có sự độ lượng, bao dung,
đồng thời phải hiểu về tâm lý lứa tuổi, phải có cái nhìn tinh tế. Cùng đó, giáo
viên chủ nhiệm cần am hiểu và biết cách tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh. Đối với học sinh có những biểu hiện lệch lạc về nhân cách giáo viên chủ
nhiệm chính là người cùng với gia đình có những biện pháp “kéo” em về với
“cái thiện”. Thầy, cô giáo chủ nhiệm là cầu nối quan trọng để kết nối giữa nhà
trường, gia đình và xã hội.
Làm chủ nhiệm là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo về lời ăn, tiếng nói, tác phong làm việc cho
đến trình độ chuyên môn; quan hệ với trò như người thân để trò cảm thấy vừa
gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm lâu
thấm đất.
Trước đây, giáo viên chủ nhiệm chủ yếu là định hướng, hướng dẫn hành vi
đạo đức cho HS. Hiện nay giáo viên chủ nhiệm không chỉ làm công tác chuyên
môn mà còn phải có tình cảm để giải quyết những tình huống phát sinh của học
sinh trong lớp. Vì thế ngoài việc phải đảm bảo nội dung lên lớp vừa tạo sự hấp
dẫn, sáng tạo, mới mẻ, gây hứng thú học tập cho HS. Và điều không thể thiếu là
người giáo viên chủ nhiệm phải có tâm huyết với nghề và tình yêu thương đối
với HS.
Vậy để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua công tác
chủ nhiệm lớp thì mỗi người giáo viên chủ nhiệm cần:
- Tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hình thức
dạy học của mình, qua các giờ sinh hoạt để giáo dục đạo đức và nhân cách cho
HS.
- Xây dựng hành vi giao tiếp giữa “Thầy với thầy, trò với trò, thầy với
trò” rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hoá, lên án mọi hành vi bạo lực học đường và
xã hội.
15

- Thường xuyên liên hệ với cha mẹ HS, kịp thời nắm bắt thông tin, cùng
kết hợp với cha mẹ HS rèn cho HS kĩ năng ứng xử văn hoá, rèn luyện sức khoẻ
phòng chống bạo lực.
- Nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác, tự chủ phát huy được tính tích cực
trong việc rèn luyện kĩ năng sống của thầy cô giáo và học sinh. Giáo dục cho HS
nhận biết được lợi ích của việc rèn luyện kĩ năng về mọi mặt: cho bản thân, gia
đình, xã hội và đất nước. Đồng thời biết quan tâm chia sẻ đến mọi người.
- Tổ chức lớp cũng nên đổi mới: lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó
cần thay đổi theo từng tháng để từng học sinh biết được các công việc của người
lãnh đạo, các khó khăn gặp phải và xử lí ra sao. Đồng thời biết cảm thông với
công việc của người chỉ huy. Qua đó, rèn cho các em những kĩ năng chỉ huylãnh đạo cần thiết.
- Giáo viên chủ nhiệm phải thực sự đổi mới phương pháp trong việc thực
hiện công tác chủ nhiệm lớp, tạo điều kiện để HS rèn luyện và tự rèn luyện.
Giải pháp 6: Kết hợp đội thiếu niên rèn kỹ năng sống cho học sinh
qua sinh hoạt sao nhi.
Có ý kiến đề xuất với đội về nội dung sinh hoạt sao theo từng tuần cho
phù hợp và đạt hiệu quả cao.
Trao đổi cụ thể nội dung thực hành trong từng tuần Giáo dục tập thể như
sau:
Tuần 2: Thực hành kỹ năng (THKN) tự giới thiệu họ tên của mình.
Tuần 4: THKN ăn mặc quần áo, đầu tóc gọn gàng sạch s.
Tuần 6: THKN giữ gìn sách vở đồ dùng học tập.
Tuần 8: THKN lễ phép vâng lời ông bà, cha mẹ.
Tuần 10: THKN lễ phép với anh chị nhường nhịn em nhỏ.
Tuần 12: THKN đứng tư thế nghiêm trang khi chào cờ.
Tuần 14: THKN đi học đều và đúng giờ không tự ý bỏ học.
Tuần 16: THKN giữ trật tự trong trường học, lớp học, khi ra vào lớp.
Tuần 18: THKN cuối kỳ 1.
Tuần 20: THKN lễ phép, vâng lời thầy giáo, cô giáo.
Tuần 22: THKN biết đoàn kết thân ái với bạn khi học, khi chơi, biết giúp
đỡ bạn.
Tuần 24: THKN đi bộ đúng quy định, thực hiện tốt an toàn giao thông.
Tuần 25: THKN giữa kỳ II.
16

Tuần 26: THKN biết cảm ơn khi được giúp đỡ.
Tuần 28: THKN chào hỏi khi gặp mặt, tạm biệt khi chia tay.
Tuần 30: THKN bảovệ hoa và cây xung quanh trường, nơi công cộng.
Giáo viên chủ nhiệm tham mưu với phụ trách sao thống nhất nội dung
hình thức sinh hoạt để từng hành vi đạo đức được thực hành trongcác tình huống
cụ thể gần gũi với cuộc sống của các em.
Giải pháp 7: Giáo dục kĩ năng sống thông qua công tác động viên,
khen thưởng
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ
năng sống, ngay trong buổi họp phụ huynh đầu năm học giáo viên chủ nhiệm
đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp mình phụ trách. Trao đổi với Ban
chấp hành hội phụ huynh cùng phối hợp và dành một khoản riêng để khen
thưởng kịp thời động viên các em để tạo cho các em có một động cơ tốt trong
việc duy trì thực hiện. Bản thân theo dõi hằng ngày, các em có biểu hiện tốt thì
ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn
thực hiện tốt sẽ được một bông hoa điểm tốt. Vì vậy, các em thi đua nhau “ nói
lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được bông hoa điểm
tốt.
Mỗi học kì, giáo viên tổng kết một lần để khen thưởng những em đã đạt
nhiều hoa điểm tốt bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi
được tặng những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Vì thế
các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông
hoa mà cô giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị
và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn
trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
thuận hợp tác của đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của ban giám hiệu nhà trường
và các bậc cha mẹ học sinh đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy
các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
Học sinh đều học kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng vâ ̣n động nhỏ, vâ ̣n đô ̣ng
tinh thông qua các hoạt đô ̣ng hàng ngày trong cuộc sống của học sinh, ngoài ra
17

có học sinh được rèn kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính
tự tin thông qua các hoạt đô ̣ng năng khiếu vẽ, thể dục và các môn học khác.
Học sinh được rèn luyện kỹ năng như kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp, chia
sẻ, cảm thông, giúp đỡ bạn bè, tự lập, tự phục vụ, lễ phép, ngoài ra các em còn
có kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích khám phá học hỏi, kỹ năng tự kiểm soát bản
thân, chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường
cũng như ở gia đình.
Học sinh đều được giáo viên tạo mọi điều kiê ̣n khuyến khích khơi dậy
tính tò mò, phát triền trí tưởng tượng, năng đô ̣ng, mạnh dạn, tự đưa ra quyết
định và giải quyết vấn đề . Các em biết lựa chọn và đưa ra quyết định đúng đắn,
phù hợp và kịp thời, sẵn sàng học tập ở lớp hiệu quả ngày càng cao.
Học sinh đã hình thành kỹ năng hợp tác, chia sẻ, thông qua các hoạt động
của bài học, học sinh đã thấy được ích lợi và hiệu quả của việc làm tập thể, biết
cách hợp tác với bạn, biết trách nhiệm cùng với nhóm, với tập thể lớp.
Học sinh được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe,
được bảo đảm an toàn, phòng bê ̣nh... các em có kỹ năng đi học đều , đúng giờ ,
than gia tích cực các hoạt động học tập. Vì thể mà học sinh luôn có kết quả tốt
trong học tập thông qua kết quả học tập cũng như bảng theo dõi ở lớp . Học sinh
mạnh dạn tự tin, có kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, tự lập, tự phục vụ, lễ
phép, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích khám phá học hỏi, kỹ năng tự kiểm soát
bản thân, kỹ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu bạn bè
trong cùng một mái trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến. Học sinh được tạo mọi
điều kiên để tham gia các hoạt động ngoại khóa của lớp, của trường. Chính vì
thế đã hình thành cho các em kỹ năng bảo vệ sức khỏe, phòng chống tai nạn
giao thông, đuối nước, các tai nạm thương tích khác, biết bảo vệ môi trường,
biết yêu lao động, biết thực hiện đi học đúng luật giao thông.
Vào thời điểm đầu tháng 5 năm 2020 (tuần 21 của năm học). Tôi tiến
hành khảo sát theo 5 nhóm kỹ năng sống mà tôi đã khảo sát đầu năm học và thu
được kết quả như biểu thống kê sau:
TSH
S
Khảo
sát

SỐ HỌC SINH ĐẠT YÊU CẦU THEO TỪNG NHÓM KỸ NĂNG
KN ra QĐ
KN tự phục
KN nhận
KN giao
KN hợp tác,
và giải quyết
vụ và quản
thức
tiếp, ứng xử
chia sẻ
vấn đề
lý thời gian
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
18

45

41
91,1
38
84,4
35
77,8
37
82,2
33
73,3
Nhìn biểu thống kê 2 so với kết quả khảo sát đầu năm ở biểu thống kê 1 ta
nhận thấy kỹ năng sống của học sinh lớp 1C có những tiến bộ rất rõ rệt.
Để dạy kỹ năng, giúp các em học sinh tiếp thu tốt là không đơn giản.Vì
qua các bài học kỹ năng sống của phần mềm BIGBEN và việc lồng ghép kiến
thức kỹ năng sống vào các môn học phải nhẹ nhàng, thú vị để các em thích thú
học. Nên giáo viên đứng lớp phải tìm ra được phương pháp giảng dạy lồng ghép
kỹ năng sống sao cho phù hợp thì sẽ có hiệu quả.
Giáo viên cần phải chịu khó gần gũi chuyện trò với học sinh , trả lời
những câu hỏi của các em, không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi
tình huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều
hơn, mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn
bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ các em.
Hiệu quả lớn nhất là nhà trường đã huy động được sự tham gia của cha
mẹ các em, của các tổ chức, các lực lượng xã hô ̣i trong việc giáo dục văn hóa,
truyền thống cho học sinh, đây là những cơ hội vàng dạy các em kỹ năng sống.
Không hạ thấp các em: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả
năng các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân
của các em. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không
nên nói những lời không hay đối với các em.
Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự
phục tùng một cách thái quá không có sự thõa thuận giữa các bên không tạo điều
kiện phát triển tính tự lập ở các em.
Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì khả năng thực
hiện những yêu cầu ở các em lớp 1 còn hạn chế. Các em chưa có khả năng làm
các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc
cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức của học sinh .
Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận
của não bộ các em.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 không phải là công việc “một
sớm, một chiều” mà đòi hỏi phải có quá trình, kiên nhẫn và bằng cả tâm huyết
19

Tải về bản full

SKKN: Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh tiểu học

Việc rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà mọi người cần phải quan tâm. » Xem thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN LĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
  2. PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thực tế hiện nay việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường tiểu học còn thấp và nhiều hạn chế.Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chưa có nét chuyển biến, nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức, việc rèn kĩ năng sống cho học sinh còn chiếu lệ, giáo viên.luôn chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt … Ở bậc tiểu học các môn học nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh nghiệm đạo đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, biết phân biệt đúng sai làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, nhắc nhở các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức chính vì vậy tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học”. Vì rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người người làm công tác giáo dục cần quan tâm.
  3. PHẦN B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận: Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại… Kĩ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết mà chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường. II. Cơ sở thực tiễn: Ở Việt Nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong năm nội dung thực hiện có nội dung tổ chức trò chơi dân gian cho học sinh đó cũng chính là rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Đối với giáo viên tiểu học thường tập trung lo lắng cho những em có những vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những lớp đầu tiên (lớp1) trẻ đến trường. Đơn giản là vì những học sinh này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho HS không thể tập trung lĩnh hội những điều giáo viên dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian đầu tư để giúp HS có được những kĩ năng sống cơ bản ở trường Tiểu học. Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho trẻ nhằm thực hiện nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực”, tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau: 1. Thuận lợi: Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương, Phòng giáo dục - Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kỹ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
  4. Trong thực tế năm học 2012 - 2013, với yêu cầu sử dụng công nghệ thông tin đổi mới hình thức phương pháp dạy học, giáo viên thường lãng quên các trò chơi dân gian, ngại đưa vào kế hoạch, thậm chí không có thời gian cho trẻ vui chơi. Tôi đã có biện pháp đề ra kế hoạch, tổ chức cho các em chơi những trò chơi dân gian. Vì thế, năm học 2012-2013, khi có chỉ đạo thực hiện nội dung tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian cho học sinh, tôi đã có sự chuẩn bị về mặt nhận thức của giáo viên, có sẵn dụng cụ, các bộ cờ dân gian cho trẻ chơi. 2. Khó khăn Về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì? Đối với giáo viên Phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học. Tuy chưa nắm hết về nội dung phải dạy trẻ theo từng khối lớp, những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Mặc dù có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Từ cơ sở và thực tiễn trong quá trình giáo dục rèn kĩ năng sống cho học sinh bậc tiểu học tôi đã tìm ra một số biện pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học có tính khả thi nhất. III. Các biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh 1./ Biện pháp nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kĩ năng sống Đầu năm học, tôi học tập nghiên cứu chuyên đề rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh bậc học tiểu học do Bộ Giáo dục- Đào tạo phát động; qua đó giúp tôi hiểu được rằng chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất. 2./ Biện pháp xác định những kĩ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi tiểu học : Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi lớp1. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kĩ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu
  5. và giao tiếp. Việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ . 3./ Biện pháp cụ thể hóa nội dung của những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ: Kĩ năng sống tự tin : Một trong những kĩ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. Kĩ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với các em học sinh lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kĩ năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Người giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tò mò tự nhiên của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khơi gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kĩ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẳn sàng học mọi thứ. Ngoài ra, ở nhà trường giáo viên cần dạy học sinh nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy các em kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. 4./ Biện pháp xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc dạy học sinh kĩ năng sống Giáo viên có thể làm được gì để dạy kĩ năng sống cho trẻ? Cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học sinh , cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi học sinh . Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
  6. Cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẫm mĩ. Phát huy tính tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau. Cần giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, các em biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác nhau, giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc các em có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa học sinh đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho học sinh sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của các em. Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải. 5./ Biện pháp giúp trẻ phát triển các kĩ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trừơng Phối hợp với chính quyền nhà trường tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ thể như sau: Phát động học sinh làm đồ chơi dân gian; sưu tầm các bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho học sinh theo phù hợp theo từng lứa tuổi . Năm học này, khi có chỉ đạo thực hiện nội dung tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh tiểu học . Duy trì việc sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được học được chơi. Phối hợp với Tổng phụ trách tổ chức các cuộc thi trò chơi dân gian trong dịp đầu xuân như: Ô ăn quan Đập heo, Lò cò, Cướp cờ, hội thi Vai điệu tuổi hồng, hội thi Vẽ những điều em mơ ước. Đồng thời hàng tuần vào tiết chào cờ sáng thứ hai cho các em “Kể chuyện Bác Hồ”; Trò chơi Ai nhanh? Ai đúng? … . 6./ Biện pháp tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ kĩ năng sống Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và học sinh tăng cừơng đọc sách , tôi đã tham mưu với hiệu trưởng đã trang bị, sách thư viện , sách Bác Hồ Sách Lịch sử , và các loại sách trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “tủ sách Bác Hồ ”; “tủ sách lịch sử ”; “câu đố vui ”; “những con vật đáng yêu”;
  7. “hoa trái bốn mùa”; …thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cở, vừa tầm các em. IV. Kết quả và bài học kinh nghiệm 1. Kết quả Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy các kĩ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau: a./ Kết quả học sinh lớp tôi : 100% học sinh đều được giáo viên tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 100% học sinh được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường phổ thông hiệu quả ngày càng cao. 90% học sinh có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kĩ năng tự lập; kĩ năng nhận thức; kĩ năng vận động nhỏ, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của học sinh ; ngoài ra có 70% học sinh được rèn kĩ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục , và các môn học khác . 100% trẻ được rèn luyện kĩ năng xã hội; kĩ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình. 100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển. 70% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua kết quả học tập cũng như bảng theo dõi ở mỗi lớp , sau mỗi giai đoạn, qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng học sinh đạt khá và tốt: Mạnh dạn tự tin: 90 %; kĩ năng hợp tác: 93%; kĩ năng giao tiếp 92,3%; tự lập, tự phục vụ: 99 %; lễ phép: 100%; kĩ năng vệ sinh: 92 %; kĩ năng thích khám phá học hỏi : 86 %; kĩ năng tự kiểm soát bản thân: 90 % Học sinh đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kĩ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu bạn bè trong cùng một mái trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến . b./ Về phía giáo viên Giáo viên chịu khó gần gũi chuyện trò với học sinh , trả lời những câu hỏi vụn vặt của các em, không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp. Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn, Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ các em. Hiệu quả lớn nhất là nhà trường đã huy động được sự tham gia của cha mẹ các em, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa,
  8. truyền thống cho học sinh, đồng thời đây là những cơ hội vàng dạy trẻ kỹ năng sống. 2. Bài học kinh nghiệm Với những kết quả đạt được, bản thân tôi chỉ muốn nêu lên những kinh nghiệm chung nhất do nghiên cứu tài liệu, do tích luỹ được trong suốt quá trình thời gian giảng dạy với mong muốn gửi các đồng nghiệp, cha mẹ trẻ những thông điệp mang tính thuyết phục với một số điều cần làm và cần tránh nhằm giúp các bạn đồng nghiệp, cha mẹ các em những điều cơ bản để rèn kĩ năng sống như sau: a./ Một số điều người lớn cần làm giúp các em rèn luyện kĩ năng sống: Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Việc học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn. Tham gia vào việc giáo dục của con cái không nên để tốn quá nhiều thời gian và cũng khộng cần tốn sức tập luyện, cha mẹ chỉ tốn ít thời gian khi cho các em thấy cha mẹ rất coi trọng giá trị của việc giáo dục.Việc tham gia ở mức độ nào không quan trọng nhưng thời gian đó thật đáng giá và đó là sự đầu tư cần thiết cho tương lai của các em. b./ Một số điều ngừơi lớn cần tránh khi dạy trẻ kĩ năng sống: Không hạ thấp các em : Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của học sinh . Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên nói những lời không hay đối với trẻ. Không doạ nạt : Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn. Không bắt các em hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với em vì nếu các em cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở các em sẽ phát triển cảm giác hối lỗi. Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều kiện phát triển tính tự lập ở các em. Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì những yêu cầu ở các em phải thực hiện một hành vi chín chắn mà các em chưa có khả năng hoặc các em phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức của học sinh . Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của não bộ.
  9. PHẦN C: KẾT LUẬN CHUNG Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta khi yếu tố con người được coi trọng về tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần. Nhân cách của con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội. Thực tế hiện nay ngành giáo dục đào tạo đã được nhà nước quan tâm đưa lên quốc sách hàng đầu thi việc dạy chữ nói chung và việc rèn kĩ năng sống nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Một nhà hiền triết đã nói “khoa học mà không có hành vi đạo đức thì chỉ là sự tàn rụi của linh hồn” mà hành vi đạo đức đó chính là kĩ năng sống của học sinh vì vậy việc thực hiện rèn kĩ năng sống cho học sinh là cần thiết biết bao. Cần khẳng định việc đứa trẻ thích nghi nhanh hay chậm, hình thành những kĩ năng sống diễn ra lâu hay mau phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đúng đắn trong các chuẩn của người lớn đối với đứa trẻ. Xin chân thành cảm ơn! Người viết Trần Thanh Nhiên
  10. Tài liệu tham khảo S Tên sách Nhà xuất bản TT 1 Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học Nhà xuất bản giáo dục – Lớp 1 Việt Nam 2 Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học Nhà xuất bản giáo dục – Lớp 2 Việt Nam 3 Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học Nhà xuất bản giáo dục – Lớp 3 Việt Nam 4 Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học Nhà xuất bản giáo dục – Lớp 4 Việt Nam 5 Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học Nhà xuất bản giáo dục – Lớp 5 Việt Nam 6 Tài liệu tập huấn Giáo dục kĩ năng sống Bộ giáo dục và đào tạo
  11. MỤC LỤC 1. Đặt vấn đề ………………………………………………..trang 1 2. Giải quyết vấn đề …………………………………………trang 2 3. Kết luận chung …………………………………………….trang 8